Du lịch sinh thái trong xu thế phát triển du lịch bền vững tại Thái Nguyên

Tóm tắt Du lịch sinh thái trong xu thế phát triển du lịch bền vững tại Thái Nguyên: ... CÔNG NGHỆ 81(05): 51 - 61 54 chặt chẽ các quy định về "sức chứa". Khái niệm sức chứa được hiểu trên bốn khía cạnh: - Khía cạnh vật lý: Sức chứa được hiểu là số lượng tối đa mà du khách mà khu vực có thể tiếp nhận, liên quan đến tiêu chuẩn tối thiểu về không gian mà mỗi du khách cần . ...m tạo điều kiện tốt hơn cho đời sống cộng đồng dân cư. Cơ sở để xây dựng mô hình này - Chủ trương của Tổng cục Du lịch lấy ngày du lịch 29 tháng 7 năm 2004 với chủ đề “Du lịch gắn với xoá đói giảm nghèo ”. - Những cộng đồng dân cư ở một số nơi như vùng ven hồ Núi Cốc và khu vực lân cậ...hành công. Tại đây tuy không có những sản phẩm truyền thống lâu đời nhưng một số sản phẩm thủ công của người dân quanh vùng cũng có thể tạo ra sự ưa thích cho du khách như: Mật ong và các sản phẩm chế xuất, các sản phẩm đan lát từ mây tre, cọ... Nên phát triển các sản phẩm này theo hướ...

pdf10 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Du lịch sinh thái trong xu thế phát triển du lịch bền vững tại Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
du lịch kèm theo. 
Du lịch Thái Nguyên còn lan toả ra các 
vùng xung quanh và người dân am hiểu 
trong miền nó đại diện làm thủ phủ. Nhớ 
đến Thái Nguyên là người ta nhớ đến Thái – 
Hà - Tuyên, thấy được cả Việt Bắc rộng lớn 
và hùng vĩ. 
SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI 
VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH SINH THÁI 
Có rất nhiều giải pháp để phát triển du lịch 
sinh thái, tuy nhiên tác giả tập trung chủ yếu 
vào du lịch cộng đồng hay còn gọi là du lịch 
dựa vào cộng đồng là cách tốt nhất để vừa 
làm du lịch vừa duy trì giữ gìn bản sắc văn 
hoá và môi trường sinh thái. 
Nhờ sự tham gia của cộng đồng địa phương 
tại nơi có tài nguyên du lịch mà các sản phẩm 
trở nên đặc sắc hơn, rõ nét của vùng trung du 
miền núi phía Bắc thêm vào đó môi trường 
sinh thái sẽ bảo vệ và có kế hoạch khai thác 
đảm bảo bền vững hơn do người dân sẽ nhận 
thức được những lợi ích mà mình sẽ nhận 
được từ chính quê hương mình. 
Bảng 4. Đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái ở Thái Nguyên 
Các chỉ tiêu đánh giá Điểm số 
đánh giá 
Hệ số 
cấp bậc 
Điểm 
đánh giá 
Độ hấp dẫn 4 3 12 
Thời gian hoạt động du lịch 3 3 9 
Sức chứa khách 4 2 8 
Độ bền vững của môi trường tự nhiên 3 1 3 
Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật 2 2 4 
Vị trí và khả năng tiếp cận của điểm du lịch 4 2 8 
Tổng cộng 44 
(Nguồn: Tổng hợp kết quả đánh giá năm 2004) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Hoàng Thị Huệ và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 51 - 61 
 56
Việc thực hiện giải pháp mô hình du lịch cộng 
đồng nhằm đạt được một số mục tiêu sau: 
- Tạo thuận lợi cho việc bảo tồn giá trị tài 
nguyên thiên nhiên và nhân văn góp phần 
phát triển bền vững khu du lịch nâng cao 
trình độ và nhận thức cho cộng đồng dân cư 
tại khu vực này. 
- Giải quyết được công ăn việc làm cho một 
bộ phận lớn người dân địa phương. Góp phần 
phát triển kinh tế địa phương, tạo thu nhập 
cho cộng đồng dân cư tại địa phương. 
- Khuyến khích cộng đồng xây dựng và tạo ra 
các sản phẩm du lịch đặc trưng và xây dựng 
nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện tốt 
hơn cho đời sống cộng đồng dân cư. 
 Cơ sở để xây dựng mô hình này 
- Chủ trương của Tổng cục Du lịch lấy ngày 
du lịch 29 tháng 7 năm 2004 với chủ đề “Du 
lịch gắn với xoá đói giảm nghèo ”. 
- Những cộng đồng dân cư ở một số nơi như 
vùng ven hồ Núi Cốc và khu vực lân cận vốn 
có giá trị văn hoá bản địa lâu đời thể hiện 
trong canh tác trồng trọt và đời sống sinh 
hoạt của họ . 
- Hệ sinh thái nông nghiệp có sẵn ở nơi đây 
được định hình cho hai loại cây chính là cây 
chè và cây ăn quả . 
- Tận dụng nguồn lực dồi dào sẵn có về lao 
động và các yếu tố khác của địa phương vào 
hoạt động du lịch . 
- Thu nhập chính của người dân nơi đây chủ 
yếu là từ canh tác và trồng cây nông nghiệp, 
nếu sử dụng vào mục đích du lịch thu nhập sẽ 
tăng cao hơn nhiều lần . 
- Các vườn cây ăn quả đặc sản vùng đồi đang 
được người dân phát triển mạnh. Hiện nay tỉnh 
có gần 4.000 ha cây ăn quả với nhiều loại đặc 
sản miền nhiệt đới như : Mít, chuối, nhãn, vải, 
na, mơ, dứa, bưởi, hồng không hạt 
- Chè là cây công nghiệp lâu năm được canh tác 
từ rất sớm trên mảnh đất này, được trồng nhiều 
ở vùng Tân Cương, Đại Từ và một số vùng 
khác với diện tích trên 9.000 ha đạt sản lượng 
gần 10.000 tấn chè có giá trị xuất khẩu, đã hình 
thành lên một thương hiệu chè nổi tiếng " chè 
Thái " được rất nhiều người biết đến. 
- Dựa trên mong muốn của người dân địa 
phương muốn được đóng góp và hưởng một 
phần lợi ích từ các hoạt động du lịch tại quê 
hương mình. Cơ sở giải pháp bước đầu được 
hoạch định cho một số hộ dân xã Phúc Xuân 
ở vùng ven hồ Núi Cốc, nơi đây đã đạt một số 
điều kiện về tự nhiên và nhân văn để phát 
triển du lịch dựa vào cộng đồng: 
Thứ nhất là, xã Phúc Xuân nằm ở khu vực 
ven hồ Núi Cốc cảnh quan rất đẹp, không khí 
trong lành, các hộ gia đình sống chủ yếu ở 
trên các đồi cao hoặc các sườn đồi, núi thoai 
thoải xung quanh là các vườn cây ăn trái 
xum xuê, đồi chè lâu năm, và xen lẫn là các 
khu vực rừng phòng hộ keo, bạch đàn. Tại xã 
còn khoảng 40 ha là rừng có nguồn gốc và 
gần 200 ha rừng có nguồn gốc nhân tạo và 
vườn cây ăn quả ... 
Thứ hai là, điều kiện giao thông khá thuận lợi 
mặc dù có đèo dốc nhưng đã được trải nhựa 
phẳng phiu đi lại dễ dàng và bên cạnh đó 
trong một vài năm tới giao thông góp phần 
thuận tiện hơn cho khách du lịch khi con 
đường ven hồ dài gần 10 km nối khu phía 
Nam và phía Bắc của hồ Núi Cốc chạy ngang 
qua xã Phúc Xuân được hoàn thành sẽ thúc 
đẩy mạnh mẽ mô hình du lịch này tại nơi đây. 
Thứ ba là, xã có gần 50 hộ gia đình trong đó 
chủ yếu là người Kinh (chiếm 93%) và mặc 
dù khu vực có nhiều dân tộc anh em cùng 
sinh sống về mặt phong tục, văn hoá có 
những nét đặc trưng khác nhau nhưng về cơ 
bản họ đều là những hộ thuần nông cần cù 
chịu khó, cùng có tập quán trồng lúa nước, 
chăm sóc cây ăn quả, và chăn nuôi lợn gà 
theo quy mô gia đình nên người dân luôn có ý 
thức, sẵng sàng tham gia các dự án của địa 
phương để làm cải thiện và nâng cao cuộc 
sống của gia đình mình. 
Các nội dung của giải pháp 
* Phát triển du lịch sinh thái trên cơ sở bảo 
tồn văn hoá truyền thống ở vùng hồ Núi Cốc 
dựa trên mô hình du lịch cộng đồng sau đây: 
+ Công nghiệp chè: 
Trong tương lai cần có kế hoạch khai thác 
những đồi chè tại một số vùng chè nổi tiếng 
như: Đại Từ, Tân Cương để phục vụ du lịch. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Hoàng Thị Huệ và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 51 - 61 
57 
Khuyến khích những chủ đồi chè xây dựng 
vườn đồi của mình thành những điểm tham 
quan cho du khách mà vẫn giữ được năng suất 
vốn có. Người dân địa phương có thể nhận 
khoán chăm sóc và thu hái chè ở những phần 
đồi của hợp tác xã quy hoạch cho du lịch. 
Tại các điểm du lịch có thể hướng dẫn du 
khách tới thăm những đồi chè được bà con ở 
xã Phúc Xuân chăm sóc từ nhiều năm qua. 
Khu này đã có sẵn một số cây che bóng cho 
cây chè cần có thêm lán nghỉ chân cho du 
khách, chỉ cần xây dựng đơn giản giữa vùng 
đồi, trong lúc dừng chân được mời uống chè 
giữa bạt ngàn màu xanh nối tiếp nhau tạo 
thành một tấm thảm lớn của những đồi chè 
tạo nên ấn tượng khó quên về chuyến du lịch 
này của mình . 
Một số điểm nên có khu chế biến chè thủ 
công vốn là cách chế biến truyền thống nơi 
đây của bà con để thoả mãn nhu cầu tìm hiểu 
văn hoá chè Việt Nam của khách du lịch và 
cũng là phương pháp lưu giữ hương vị chè cổ 
truyền vốn có của nó hoặc phương pháp ướp 
chè để có hương hoa sen, hương nhài, hoa 
bưởi... Tại đây du khách có thể thực hành xao 
chè, xem trực tiếp các công đoạn chế biến. 
Hiện nay trong khu du lịch hồ Núi Cốc có 
một doanh nghiệp kinh doanh sản xuất chè là 
doanh nghiệp chè Hoàng Bình – có thương 
hiệu lớn nên có sự cộng tác chặt chẽ với các 
khách sạn, doanh nghiệp kinh doanh lữ hành 
và các điểm đến du lịch để có thể phục vụ đối 
tượng khách du lịch, xây dựng nơi trưng bày 
sản phẩm và nơi thưởng thức chè cho du 
khách khi dừng chân nơi đây. 
Tham gia và hưởng ứng các lễ hội trà kết hợp 
với các hội chợ để giới thiệu sản phẩm du lịch 
này, đặc biệt là Festival trà quốc tế vào tháng 
11 năm 2011 với tham gia của hơn 30 nước 
trên thế giới có văn hóa trà. 
+Trang trại vườn đồi: 
Nơi đây vốn được người dân địa phương phát 
triển của số loại cây phù hợp với đất đồi, đã 
tạo nên các vườn cây sum suê hoa trái vùng 
nhiệt đới, mùa nào thức nấy như: Mít, vải, 
nhãn, na, hồng không hạt... Tuy nhiên trong 
khi thu hoạch người dân ở đây rất vất vả cho 
việc tiêu thụ sản phẩm, bán tại chỗ cho dân 
buôn thì bị ép giá, vận chuyển đi xa thì khó 
khăn do tính chất nhanh hỏng của sản phẩm 
và phương tiện vận chuyển không linh hoạt 
nên có một phương thức tiêu thụ được sản 
phẩm ngay tại vườn cho du khách tương tự du 
lịch miệt vườn thì sẽ tạo điều kiện rất tốt cho 
người dân địa phương. 
Việc quy hoạch các trang trại vườn đồi phục 
vụ khách du lịch là một hướng đi mới nhằm 
mục đích tiêu dùng sản phẩm tại chỗ và tăng 
giá trị sản phẩm lên nhiều lần. Trước hết cần 
xây dựng các trang trại riêng biệt cho từng 
loại cây ăn quả chứ không để tổng hợp nhiều 
loại cây tận dụng các thời vụ như bây giờ, có 
như thế chủ nhà vườn mới tập trung kiến thức 
trồng trọt chuyên canh cho giống cây đó 
nhằm tạo sản phẩm chất lượng cao mới thu 
hút được quan tâm của du khách vào hệ sinh 
thái nông nghiệp này. 
Trong các khu trang trại này cần bố trí hợp lý 
khu vực ươm cây giống, khu cây trồng lâu 
năm cho trái tốt, khu lán nghỉ chân cho du 
khách, mời du khách nếm trái ngay tại vườn 
tạo cho du khách không khí thân mật gắn bó 
và yêu thích loại hình du lịch này. Tuy nhiên 
để xây dựng được mô hình du lịch này phải 
cần có thời gian để phát triển, ngoài các hộ 
gia đình có đất thổ cư thì cần có chế độ giao 
đất phát triển cây nông nghiệp cho người dân 
sử dụng hoặc chế độ thuê đất trong thời gian 
dài. Bên cạnh đó nông dân cũng cần hỗ trợ 
về vốn và kỹ thuật canh tác cho loại cây 
trồng này. 
+ Làng nghề truyền thống: 
Mô hình phát triển làng nghề truyền thống 
cũng là một nét văn hoá bản địa trong loại 
hình du lịch sinh thái đã được nhiều địa 
phương áp dụng thành công. Tại đây tuy 
không có những sản phẩm truyền thống lâu 
đời nhưng một số sản phẩm thủ công của 
người dân quanh vùng cũng có thể tạo ra sự 
ưa thích cho du khách như: Mật ong và các 
sản phẩm chế xuất, các sản phẩm đan lát từ 
mây tre, cọ... Nên phát triển các sản phẩm này 
theo hướng kinh doanh hàng lưu niệm, hàng 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Hoàng Thị Huệ và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 51 - 61 
 58
đặc sản của địa phương vừa đa dạng thêm sản 
phẩm du lịch vừa tạo công ăn việc làm cho 
cộng đồng nơi đây. 
+ Trồng rừng: 
Hồ Núi Cốc được coi là lá phổi xanh của 
thành phố với hơn 11.000 ha đất rừng, trong 
những năm qua lực lượng kiểm lâm đã phối 
hợp cùng với người dân trong vùng trồng 
được 2.547 ha rừng phòng hộ đầu nguồn tuy 
nhiên chế đãi ngộ cho người dân chưa được 
thoả đáng nên với diện tích che phủ khu vực 
đạt 35 % vẫn còn rất thấp so với tiêu chuẩn 
của một tỉnh miền núi (60- 70%) bên cạnh đó 
hiện tượng chặt phá rừng đầu nguồn lấy gỗ 
vẫn còn xảy ra. 
Để làm tốt công tác trồng và bảo vệ rừng cần 
phải khuyến khích sự tham gia của cộng đồng 
địa phương để họ có công ăn việc làm từ đó 
giáo dục được ý thức tầm quan trọng của rừng 
sẽ dễ dàng và thuận tiện hơn. Việc giao khoán 
trồng và chăm sóc rừng cần có chế độ đãi ngộ 
hợp lý rõ ràng để người dân tin tưởng hơn và 
có thể mạnh dạn nhận khoán. Họ có thể nhận 
tiền công chăm sóc hoặc được phép khai 
thác định kỳ những cây lâm nghiệp làm 
nguyên liệu cho nhà máy giấy. Thêm vào đó 
rừng còn phục vụ cho du lịch sinh thái nên 
người dân cần được hưởng một phần lợi ích 
từ thu nhập này. 
Một số sản phẩm thuỷ sản từ hồ Núi Cốc đã 
đem lại nguồn lợi kinh tế đáng kể, đó là sản 
lượng cá có thể đạt 600 – 800 tấn cá/năm, rất 
thích hợp với việc nuôi cá mè to, cá trắm. Các 
món ăn được chế biến tại chỗ từ đặc sản vùng 
hồ này đã được nhiều du khách ưa thích. 
Xây dựng kết hợp các tuor du lịch nghỉ dưỡng 
ở nơi đây khá thuận lợi nhờ một số điều kiện 
về môi trường tự nhiên, không khí trong lành 
và thoáng, thêm vào đó du khách có thể tiêu 
khiển bằng hình thức câu cá trên hồ hoặc 
tham quan vùng nuôi trồng thuỷ sản hay các 
rừng cây trên đảo. 
Ngành du lịch cần tư vấn và hỗ trợ những hộ 
dân tham gia dự án du lịch cộng đồng những 
kiến thức cơ bản về kinh doanh du lịch và 
kinh doanh những khu nhà nghỉ đơn giản 
(homestay) đủ tiêu chuẩn ngay trong phần đất 
của mình để phục vụ nhu cầu cần chỗ nghỉ rẻ 
tiền cho du khách tham gia du lịch cộng đồng. 
* Xây dựng các tour kết hợp: du lịch nghỉ 
dưỡng, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái : 
dựa trên điều kiện sẵn có như cảnh quan, môi 
trường, khí hậu và văn hoá bản địa nơi đây để 
hình thành các tour du lịch kết hợp là rất phù 
hợp, nên chú ý những xu thế mới mà du 
khách đang muốn thoả mãn như: tour yên 
tĩnh, tour nấu ăn, tour học nghề ... 
Để thực hiện được các tour du lịch dựa vào 
cộng đồng thì ngoài thái độ sẵn sàng tham gia 
của một số hộ gia đình tại xã Phúc Xuân thì 
cần có sự hỗ trợ từ phía ngành du lịch và một 
số cơ quan có chức năng khác, người dân 
cần được đào tạo những kiến thức cơ bản về 
đón khách, nấu ăn, chăm sóc vườn cây, phục 
vụ nhu cầu ăn nghỉ của khách tại nhà của 
mình và các tiêu chuẩn về vệ sinh và chất 
lượng thực phẩm. 
* Huy động tối đa khả năng về con người cơ 
sở kỹ thuật của cộng đồng địa phương vào 
việc phục vụ hoạt động du lịch 
- Để sự tham gia của người dân địa phương 
làm nòng cốt cho chiến lược này cần phải tạo 
công ăn việc làm cho con em họ, để họ được 
hưởng một lợi ích từ nguồn tài nguyên phục 
vụ cho du lịch này họ sẽ không phá rừng lấy 
gỗ hay lấn đất ven hồ trồng cây ăn quả ... 
 - Đầu tư phát triển hệ thống cơ sở lưu trú, 
khách sạn, và các dịch vụ hỗ trợ du lịch cần 
phải lưu ý: Cần tận dụng triệt để nguồn lực tại 
địa phương, đó có thể là nguồn lực lao động, 
hoặc các thiết bị, vật liệu xây dựng... để vừa 
tạo ra công ăn việc làm cho người dân sở tại, 
cải thiện đời sống của họ từ đó giáo dục, 
tuyên truyền cho họ tầm quan trọng của việc 
nâng cao ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên 
quý giá của địa phương mình sẽ đơn giản dễ 
dàng hơn. 
Cần chú ý đến việc đào tạo những người dân 
địa phương có năng lực để họ có thể trở thành 
những hướng dẫn viên phục vụ cho hoạt động 
du lịch trên mảng đất quen thuộc của mình. 
- Tăng cường việc tổ chức, phục hồi các lễ 
hội văn hoá, các trò chơi dân gian, các điệu 
hát điệu múa, các phong cách ẩm thực ; duy 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Hoàng Thị Huệ và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 51 - 61 
59 
trì làng nghề thủ công, mỹ nghệ, những phong 
tục tập quán tốt đẹp và những loại hình nghệ 
thuật đặc sắc của dân tộc để tạo sự đặc trưng 
riêng của sản phẩm du lịch tại nơi đây. 
Bên cạnh đó còn tạo ra được ấn tượng của 
vùng sinh thái cho du khách khi họ được hoà 
mình vào thiên nhiên thưởng thức đặc sản núi 
rừng Việt Bắc như: Cơm lam, măng đắng, 
trám rừng – một phong cách ẩm thực riêng. 
Đây là loại hình du lịch có liên quan và phụ 
thuộc nhiều vào tài nguyên thiên ở khu vực 
lãnh thổ do đó cần lấy sự tham gia của người 
dân địa phương làm nòng cốt trong một số 
như: bảo vệ môi trường, hướng dẫn tuyên 
truyền giáo dục môi trường cho khách, phục 
vụ trong các khu du lịch, nhà nghỉ, nhà hàng... 
vừa tạo công ăn việc làm vừa nâng cao đời 
sống cho họ đồng thời còn có tác dụng giáo 
dục, dễ dàng thuyết phục người dân địa 
phương nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. 
* Thực hiện giáo dục và phát triển cộng đồng: 
- Thông báo cho cộng đồng địa phương về 
những lợi ích trước mắt và lợi ích tiềm tàng của 
việc phát triển du lịch đem lại cho địa phương. 
- Tăng cường nâng cao nhận thức dân trí và 
huấn luyện về chuyên môn sinh thái tại các khu 
du lịch trọng điểm cho người dân địa phương. 
- Tôn trọng nhu cầu nguyện vọng của cộng 
đồng địa phương được cùng điều hành và 
tham gia hoạt động du lịch. Tạo công ăn việc 
làm ổn định thông qua việc cho phép bán những 
đồ thủ công mỹ nghệ, dịch vụ ẩm thực truyền 
thống hoặc vận chuyển khách, hàng hoá, phục 
vụ cho du khách những nhà trọ với mức giá rẻ 
và quản lý các cơ sở lưu trú trên địa bàn . 
- Khuyến khích nhân dân địa phương tham 
gia đóng góp ý kiến và triển khai thực hiện 
các quy hoạch, dự án đầu tư phát triển du lịch 
và tận dụng kinh nghiệm và các nguồn tri 
thức cộng đồng trong việc bảo vệ các nguồn 
tài nguyên trên địa bàn của họ. Khuyến khích 
phát triển các làng nghề truyền thống, phát 
huy các giá trị văn hoá địa phương như: các lễ 
hội, trò chơi dân gian... nhằm giữ vững văn 
hoá bản địa. 
- Kết hợp các chương trình quốc gia như: Xoá 
đói giảm nghèo, nhận khoán trồng và chăm 
sóc rừng để ngăn ngừa những hành vi gây ra 
do cầu thiết yếu của cuộc sống làm mất đi sự 
phát triển bền vững. 
Công việc đầu tiên cần thực hiện của giải 
pháp này là đưa dự án đến những người dân 
sẵng sàng tham gia của xã Phúc Xuân, quy 
hoạch khoanh vùng những trang trại, những 
khu vườn có đủ tiêu chuẩn thu hút khách. 
Thứ hai là đào tạo cung cấp những kiến thức 
cơ bản về kinh doanh du lịch cho người dân tại 
xã Phúc Xuân. Kiến thức chăm sóc, thu hoạch, 
và bảo quản cây công nghiệp, cây ăn quả. 
Thứ ba là hỗ trợ giúp đỡ người dân xây dựng 
nhà nghỉ, nơi nghỉ ngơi cho khách du lịch 
Đa dạng và làm phong phú thêm sản phẩm để 
thu hút khách. Xây dựng các điểm du lịch có 
thể ứng dụng: vườn, trại, làng nghề... 
Thứ tư là cộng tác với các công ty du lịch lữ 
hành để tổ chức tốt việc đưa đón khách tới 
tham quan, nghỉ dưỡng tại khu du lịch này. 
Thứ năm là thực hiện công tác tuyên truyền, 
quảng bá sản phẩm du lịch đến nhiều đối 
tượng khách hàng có hoặc sẽ quan tâm tới 
loại hình du lịch này. 
Để thực hiện được mô hình du lịch dựa vào 
cộng đồng cần phải có một quá trình để phát 
triển thông qua một số năm và nhiệm vụ thực 
hiện của các đối tượng tham gia hoạt động du 
lịch này thể hiện trên các bảng phía sau đây. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. PGS.TS.Phạm Trung Lương (2002) Du lịch 
sinh thái : Những vấn đề về lý luận và thực tiễn 
phát triển ở Việt Nam, Nxb Giáo Dục. 
[2]. Sở Thương mại Du lịch tỉnh Thái Nguyên 
(2003), Báo cáo kết quả đề tài khoa học cấp tỉnh : 
“Đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp 
nhằm khai thác tiềm năng những khu du lịch 
trọng điểm theo hướng phát triển bền vững ở 
tỉnh Thái Nguyên”. 
[3]. Hoàng Thị Huệ (2004) “Một số giải pháp 
phát triển du lịch sinh thái tại Thái Nguyên”, 
Luận văn Cao học Quản trị Kinh doanh. 
[4]. Hoàng Thị Huệ (2009) “Phát triển kinh tế 
dịch vụ bằng nâng cao chất lượng sản phẩm tại 
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ở Thái Nguyên”, 
B2007 – TN06 – 04. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 
Hoàng Thị Huệ và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 81(05): 51 - 61 
 60
Sơ đồ: Quy trình công việc thực hiện trong mô hình du lịch dựa vào cộng đồng 
Năm thực hiện 
Công việc thực hiện 1 2 3 4 5 6 7 8 9 
1)Công tác quy hoạch các khu vườn 
đồi, khu trang trại đủ tiêu chuẩn 
2)Đào tạo cho người dân kiến thức cơ 
bản về du lịch 
3)Giúp đỡ cho người dân những kiến 
thức phát triển kinh tế trang trại, 
chăm sóc vườn cây, đón khách, nấu 
ăn ... 
4)Hỗ trợ và tạo điều kiện về nguồn 
vốn, kỹ thuật xây dựng cơ sở hạ tầng, 
cơ sở vật chất tại khu vực địa phương 
đã quy hoach 
5)Cộng tác với các công ty kinh 
doanh du lịch trong và ngoài tỉnh . 
Đồng thời tăng cường quảng bá du 
lịch tới thị trường mục tiêu 
Bảng: Công việc của các đối tượng tham gia mô hình du lịch 
Đối tượng Công việc tham gia 
1.Các cơ quan, ban 
ngành quản lý 
- Quy hoạch quản lý khu du lịch trên cơ sở đánh giá tiềm năng du lich. 
- Cho người dân vay vốn xây dựng cơ sở vật chất. 
- Cung cấp kiến thức, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây trồng 
- Đào tạo cho người dân kiến thức du lịch, bảo vệ môi trường, đón khách 
- Quảng bá sản phẩm du lịch đến nhiều đối tượng khách hàng 
- Khảo sát điểm du lịch để có kế hoạch khai thác hợp lý 
2.Các công ty kinh 
doanh du lịch 
- Tham gia khảo sát điểm du lịch để có kế hoạch kinh doanh 
- Cùng tham gia đào tạo cho người dân địa phương những kiến thức 
cần thiết. 
- Xây dựng các tour hấp dẫn khách du lịch 
- Xúc tiến quảng bá tại thị trường mục tiêu của mình 
3.Người dân địa 
phương 
- Tham gia du lịch để cải thiện đời sống và nâng cao sự hiểu biết 
của mình. 
- Tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về chăm sóc cây, con, 
đón và phục vụ khách du lịch. 
- Tích cực ứng dụng công nghệ mới vào mô hình kinh tế của mình 
- Thực hiện chu đáo các dịch vụ của mình 
- Tham gia hỗ trợ công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ tài 
nguyên của địa phương 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 

File đính kèm:

  • pdfdu_lich_sinh_thai_trong_xu_the_phat_trien_du_lich_ben_vung_t.pdf
Ebook liên quan