Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 1 - Hà Phước Hùng

Tóm tắt Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 1 - Hà Phước Hùng: ...ng vàng lưới cụ thể. Thông thường phao lưới kéo được chọn là dạng phao cầu, đường kính từ 150-200 mm, nguyên liệu là nhựa hoặc thủy tinh tổng hợp. Số lượng phao thường từ 7-15 cái tuỳ theo qui mô lưới, bố trí dọc theo giềng phao. Chiều dài giềng phao thì bằng với chiều dài phía trên của miệng ...hường thấy ở biển (H 7.1). Giềng phao G ì iềng ch Tấm đăng làm bằng lưới Trụ dựng Đăng sậy Tấm đăng bằng tre, sậy H 7.1 - Các dạng tấm đăng 56 Yêu cầu của tấm đăng phải thỏa mãn các điều kiện sau: • Chiều dài tấm lưới đăng Chiều dài của tấm lưới đăng thì tùy thuộc vào độ rộng ch...i kéo là ở chổ lưới kéo thì có thêm phần cánh lưới, còn ở lưới đáy thì không nhất thiết phải có cánh lưới (H 9.1). - 54 Đụt lưới Thân lưới Cọc đáy Dây neo Dây thắt đụt Rượng H 9.1 - Cấu tạo của lưới đáy cọc - 55 • Chiều dài Chiều dài lưới đáy là chỉ tiêu quan trọng trong chế tạ...

pdf97 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Kỹ thuật khai thác thủy sản - Tập 1 - Hà Phước Hùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệm cho thấy sản lượng khai thác cao 
nhất là vào thời kỳ không trăng, giảm dần vào thời kỳ trăng thượng huyền và hạ 
huyền, và giảm nhiều nhất vào lúc trăng tròn. 
Nguyên nhân có thể giải thích như 
sau: Các tia sáng của ánh sáng trăng 
không chỉ tác dụng trên mặt nước mà 
chúng còn xuyên sâu vào trong lòng 
nước. Chính các tia ánh sáng trăng này đã 
làm giảm bán kính quyến rũ của nguồn 
sáng nhân tạo (bóng đèn). Nếu nguồn 
sáng càng đặt gần mặt nước thì ảnh 
hưởng của ánh sáng trăng càng lớn. 
Ngược lại, nếu đưa nguồn sáng vào càng 
sâu trong lòng nước thì ảnh hưởng của 
ánh sáng trăng sẽ giảm dần. Ta có thể 
thấy ảnh hưởng của ánh sáng trăng qua 
(Hình 10.1). 
 H 10.1 - Bán kính quyến rũ của 
nguồn sáng khi có trăng
 - 65
Mặt khác, thí nghiệm của Niconorov (1951-1956) đối với đánh cá thu đao bằng 
lưới nâng hình chóp. Ông nhận thấy rằng sản lượng khai thác cao nhất nhận được là 
vào thời kỳ trăng non. Còn lúc trăng tròn thì sản lượng bị giảm đi 75%. 
Tuy nhiên, sự giảm sản lượng 
này còn tùy thuộc vào loại ngư cụ 
khai thác cá kết hợp ánh sáng. Ta có 
thể thấy sự giảm sản lượng qua (H 
10.2). 
Tuy vậy, nếu đặt nguồn sáng càng xuống sâu trong lòng nước thì ảnh hưởng của 
ánh sáng trăng càng giảm đi. Thí nghiệm cho thấy, đối với ánh sáng trăng rằm, nếu ta 
cho lưới làm việc ở độ sâu hơn 45 mét thì ảnh hưởng của ánh sáng trăng xem như 
không đáng kể. Mặt khác, trong những đêm trăng, nếu có mây mù thì tác động của ánh 
sáng trăng đối với nguồn sáng cũng giảm đi, thuận lợi cho việc khai thác cá kết hợp 
ánh sáng. 
Ánh sáng ban ngày với cường độ bức xạ vô cùng lớn, tia sáng ban ngày có khả 
năng xuyên rất sâu vào trong lòng nước (đến 200 m), đã làm vô hiệu quá nguồn sáng 
nhân tạo nếu như chúng được thắp ban ngày. Do vậy việc khai thác kết hợp ánh sáng 
vào ban ngày là gần như không thể thực hiện được. 
Trăng non Trăng tròn
25
%
50
%
100
% Cá 
t í h
Cá thu 
đ
H 10.2 - Sản lượng giảm vào đêm trăng tròn 
• Ảnh hưởng do độ trong của nước đến tập tính cá trong vùng sáng 
Qua nghiên cứu, người ta nhận thấy độ trong của nước có ảnh hưởng lớn đến tập 
tính cá trong vùng sáng. Khi độ trong của nước kém thì sản lượng cá khai thác bị giảm 
rất nhiều, do bởi bán kính quyến rũ cá của nguồn sáng nhân tạo cũng bị giảm rất nhiều. 
Thí nghiệm của Niconorov đánh cá trích bằng bơm hút ở độ sâu 8,5m với độ trong 
từ (0,4 - 2,2) m, trong thời gian 2 giờ 20 phút, cho thấy sản lượng như sau (Bảng 10.1): 
Bảng 10.1 - Quan hệ giữa sản lượng theo độ trong của nước 
Độ trong (m) 0,4 - 0,6 1,1 - 1,9 ≥ 2,1 
Sản lượng (Tạ) 0,35 1,6 14,7 
Cũng qua thí nghiệm, người ta đã xây dựng được mối quan hệ giữa sản lượng đánh 
bắt và độ trong của nước theo công thức sau. 
3
1
3
2
1
2
Z
Z
Q
Q = 
 - 66
Trong đó: Q 1 là sản lượng cá ứng với độ trong Z1.
 Q2 là sản lượng cá ứng với độ trong Z2.
Thí dụ, nếu vùng A có Z1 = 2 m và vùng B có Z2 = 10 m, thì sản lượng 2 vùng chênh 
lệch nhau là: 125
2
10.. 3
3
13
1
3
2
12 === QZ
ZQQ lần Q1. 
• Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tập tính cá trong vùng sáng 
Nhiệt độ nước có ảnh hưởng đến tập tính cá trong vùng sáng. Người ta nhận thấy 
đa số cá nổi (sống tầng mặt) là loài thích nhiệt. Nhiệt độ thích hợp cho đa số loài là từ 
(6-28)oC, cụ thể là: 
Cá trích thường tập trung ở tầng nước có nhiệt độ từ (16,6 - 26)oC. 
Cá thu đao thường tập trung ở vùng nước có nhiệt độ từ (14 - 18)oC. 
Cá nục, cá cơm thường tập trung ở vùng nước có nhiệt độ từ (8 - 10)oC. 
Ngoài ra người ta còn thấy rằng, khi nhiệt độ thay đổi thì sự tập trung của cá quanh 
vùng sáng cũng biến động theo. Chẳng hạn, vào mùa hè và mùa thu cá thu đao thường 
thích sống ở tầng mặt, tập trung ở những nơi có bóng râm, nước mát. Nhưng vào mùa 
này thí cá trích lại thích tập trung ở độ sâu từ (20-45) m, nơi có nhiệt độ thích ứng là 
(8-12)oC. 
Đặc biệt, cá nục vào mùa đông lại thích tập trung thành đàn lớn ở độ sâu khoảng 
(30-40) m nước, nơi có nhiệt độ từ (8-10)oC. 
Cá cơm và một số loài cá khác, ở giai đoạn nhỏ thường có khả năng thích nghi với 
sự biến động của nhiệt độ hơn cá trưởng thành, chúng có thể sống cả tầng mặt và tầng 
đáy. 
Người ta nhận thấy ở những tầng nước nếu có sự biến động đột ngột về nhiệt độ thì 
cá trích không thích đến gần nguồn sáng, nhưng nếu nguồn sáng hạ thấp dần xuống 
sâu thì cá trích lại bơi theo nguồn sáng. Nhưng nếu tiếp tục hạ nguồn sáng xuống nữa 
đến nơi mà nhiệt độ không còn thích hợp chúng sẽ rời bỏ nguồn sáng. 
• Ảnh hưởng của dòng chảy và độ trôi dạt của tàu đến sự tập trung của cá 
quanh vùng sáng 
Tốc độ dòng chảy và sự trôi dạt của tàu có ảnh hưởng đến sự tập trung của cá 
quanh vùng sáng. Người ta nhận thấy rằng, cá thường tập trung ở những vùng nước 
tương đối yên tĩnh, dòng chảy yếu và có nhiều thức ăn. 
Người ta cũng nhận thấy, nếu ở khu vực chiếu sáng mà có tốc độ dòng chảy mạnh 
sẽ làm cho cá khó bám vào nguồn sáng. Người ta chứng minh được rằng, nếu tốc độ 
dòng chảy lớn hơn 0,35 m/s, thì hầu như ánh sáng không thể quyến rũ cá trích đến với 
nguồn sáng. 
 - 67
Độ trôi dạt của tàu cũng ảnh hưởng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Khi 
tàu bị trôi dạt, nguồn sáng cũng bị trôi theo. Điều này sẽ gây khó khăn cho cá bám 
nguồn sáng, bởi nguồn sáng sẽ trôi dần ra khỏi khu vực sống thích hợp cho nó, cá 
không thể bám mãi theo nguồn sáng được. Thí nghiệm cho thấy, nếu độ trôi dạt là 0,07 
m/s thì sản lượng khai thác sẽ giảm 23%. 
• Sự ảnh hưởng của sóng đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng 
Sóng to, gió lớn sẽ làm cho tàu bị lắc lư (lắc ngang, lắc dọc), làm mất tính ổn định 
phương chiếu sáng của hệ thống đèn, phương chiếu sáng không đều, cá phải di chuyển 
liên tục theo nguồn sáng, khó tạo nên trạng thái say đèn đối với cá, cá có thể rời bỏ 
nguồn sáng. Mặt khác càng làm khó khăn thêm trong thao tác ngư cụ. Do vậy sản 
lượng khai thác bị giảm rất nhiều trong những lúc trời giông, biển động. 
Thí nghiệm đối với lưới nâng hình chóp cho thấy rằng, giả sử nếu sóng cấp 2, 3 có 
sản lượng khai thác là 100%, thì khi sóng lên cấp 4,5 sản lượng khai thác chỉ còn 
khoảng 55%. 
• Ảnh hưởng do sự xuất hiện của cá dữ trong vùng chiếu sáng 
Thực tế đánh bắt cho thấy nếu có sự xuất hiện của cá dữ trong vùng chiếu sáng sẽ 
ảnh hưởng rất lớn đến sự tập trung của cá quanh nguồn sáng. Cá cãm thấy sợ hải khi 
cá dữ đến gần, chúng chạy phân tán ra khỏi nguồn sáng. Nhưng nếu cá dữ bỏ đi, chúng 
sẽ tập trung trở lại nguồn sáng. 
10.1.2 Mối quan hệ giữa đặc tính sinh học cá đến sự tập trung của cá 
trong vùng sáng 
Người ta nhận thấy các yếu tố sinh học của cá có sự ảnh hưởng đến sự tập trung 
của cá quanh nguồn sáng. Cùng một loài cá, nhưng nếu ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có 
phản ứng thích ứng khác nhau đối với nguồn sáng. 
Thí nghiệm cho thấy, đa số các loài cá đều thích đến nguồn sáng là những cá đang 
ở giai đoạn I và II trong chu kỳ phát dục của chúng, nhưng vào giai đoạn chuẩn bị đẻ 
thì chúng không thích nguồn sáng, sau khi cá đẽ xong thì phản ứng thích nguồn sáng 
trở lại bình thường. 
Độ no, đói của cá không có sự ảnh hưởng rõ ràng đến sự tập trung của cá quanh 
nguồn sáng. Có quan điểm cho rằng cá đến nguồn sáng có thể là do bị đói, chúng 
muốn tìm thức ăn, nhưng thực tế khảo sát cho thấy, có rất nhiều loài cá khi đến nguồn 
sáng còn đang ở trạng thái còn rất no. 
Từ nghiên cứu các ảnh hưởng nói trên cho chúng ta nhận định rằng, để đảm bảo 
khả năng khai thác đạt được sản lượng cao, ta nên chú ý đến tất cả các yếu tố môi 
trường và sinh học của cá khi đánh bắt cá kết hợp ánh sáng. 
 - 68
10.2 Một số ngư cụ khai thác cá kết hợp ánh sáng 
10.2.1 Nghề lưới đăng kết hợp ánh sáng 
 Ta có sơ đồ khai thác lưới đăng kết hợp ánh sáng sau (H 10.3). 
Xuồng đèn 
H 10.3 - Hệ thống bố trí đèn trong lưới đăng
Tuyến sáng 
• Lắp đặt chuồng và thiết bị phục vụ cho khai thác lưới đăng kết hợp ánh sáng 
Trước hết ta phải lắp đặt chuồng lưới đăng. Gần tương tự khai thác lưới đăng thông 
thường, chuồng lưới đăng kết hợp ánh sáng phải được đặt ở những nơi có nhiều cá qua 
lại (hoặc theo mùa vụ). Vị trí chuồng phải thuận lợi cho việc khai thác, bố trí các trang 
thiết bị và không gây cản trở cho các phương tiện khác đi lại. 
Ngưới ta sử dụng 8-10 xuồng đèn. trên mỗi xuồng có lắp đặt các đèn khí (đèn 
măng sông) hoặc đèn điện 1 chiều và phải có tàu làm phương tiện vận chuyển cá và là 
nơi ăn ở tạm thời của ngư dân. 
• Kỹ thuật khai thác lưới đăng kết hợp ánh sáng 
Trước hết cho các xuồng đèn làm việc, thắp sáng gần xung quanh khu vực đặt 
chuồng lưới đăng. Sau thời gian từ 1-3 giờ, khi thấy mật độ cá tập trung tương đối cao 
quanh các xuồng đèn thì cho các xuồng đèn di chuyển chậm vào khu vực cửa chuồng, 
tránh gây nào động làm cá có thể hoảng hoạn rời bỏ xuồng đèn. Tiếp đến tắt tất cả đèn 
ở các xuồng, chỉ để lại đèn ở một xuồng đèn, cá sẽ tự động di chuyển, gom về xuồng 
đèn này. Sau đó đưa xuồng có đèn đi vào cửa chuồng, rồi đóng cửa chuồng lại, tiến 
hành dở tấm lưới đáy chuồng, dồn cá về một góc, rồi bắt cá. 
Những năm gần đây người ta thường kết hợp khai thác lưới đăng với nguồn sáng 
điện. Người ta thường dùng máy phát diện 110 volt để thắp một tuyến sáng từ chuồng 
ra ngoài khu vực chung quanh. Đèn được thả ngầm xuống nước ở độ sâu khoảng 1,5 
m. Khi cá tập trung tương đối nhiều ở quanh các đèn, thì điều khiển hệ thống chiếu 
sáng sao cho tắt lần lượt các đèn từ xa trước, cá sẽ gom lại đèn kế bên, gần cửa 
chuồng hơn. Tiếp tục làm như thế cá sẽ tự động gom về cửa chuồng. Khi cá đã đến cửa 
 - 69
chuồng ta tắt nốt đèn cửa chuồng, cá sẽ đi vào đèn đã bố trí trong chuồng. Tiếp đó 
đóng cửa chuồng và thu bắt cá. 
Ưu điểm của khai thác lưới đăng kết hợp với tuyến sáng là giúp ta có thể tự động 
hoá dễ dàng khâu thắp sáng và có thể hoạt động trong những lúc sóng to, gió lớn mà 
khi đó xuồng đèn khó hoạt động, đồng thời giảm được nhu cầu nhân lực phục vụ khai 
thác lưới đăng kết hợp ánh sáng. 
Tuy nhiên, việc khai thác lưới đăng kết hợp tuyến sáng đòi hỏi phải có vốn lớn để 
trang bị các phương tiện, trang thiết bị phục vụ khai thác và an toàn lao động khi 
nguồn điện hoạt động. 
10.2.2 Nghề lưới vây kết hợp ánh sáng 
Nghề lưới vây kết hợp ánh sáng phát triển ở ĐBSCL bắt đầu từ những năm 80, 
nhưng hiện nay nó là nghề phổ biến của tất cả các tỉnh ven biển trong khu vực này. 
Hiệu quả khai thác cao, do bởi lưới vây kết hợp ánh sáng đã đáp ứng được 2 yêu cầu 
cơ bản trong khai thác lưới vây, là: 
- Đã tập trung cá lại thành đàn lớn. 
- Làm giảm được tốc độ di chuyển của cá. 
• Phương tiện và trang thiết bị khai thác lưới vây kết hợp ánh sáng. 
Tương tự như nghề khai thác lưới vây thông thường cũng bao gồm tàu, vàng lưới 
vây, các trang bị phụ trợ khác. Tuy nhiên, lưới vây đánh cá kết hợp ánh sáng còn cần 
phải có máy phát điện, hệ thống chiếu sáng và bảng phân phối điện. 
Lưới vây đánh cá kết hợp ánh sáng ở ĐBSCL trang bị máy phát điện từ 10-15 KW, 
đủ thắp sáng khoảng 150 bóng đèn néon loại 1,2 m và 5-10 bóng cao áp thủy ngân loại 
từ 250-500 W. Ta có thể thấy sự bố trí hệ thống chiếu sáng trên các tàu lưới vây kết 
hợp ánh sáng qua sơ đồ sau (H 10.4). 
 H 10.4 - Hệ thống chiếu sáng trên tàu lưới vây kết hợp ánh sáng 
Bè đèn 
 - 70
• Kỹ thuật khai thác lơi vây kết hợp ánh sáng 
a. Thắp đèn 
Trong khai thác lưới vây kết hợp ánh sáng, để đạt được hiệu quả nhất là chọn đúng 
nơi thắp đèn và thời gian thắp đèn. 
• Nơi thắp đèn 
Yêu cầu đối với nơi thắp đèn cần thỏa mãn các điều kiện sau: 
- Phải có nhiều cá, tôm,... thích ánh sáng thường xuất hiện trong khu vực định thắp 
sáng. 
- Dòng chảy nhẹ, tàu ít lắc và trôi dạt (có thể dùng neo để cố định tàu lại). 
- Ít chướng ngại vật dưới nền đáy (nếu khai thác ở vùng biển cạn) và không bị ảnh 
hưởng bởi tàu bè đi lại. 
• Thời gian thắp đèn 
Thời gian thắp đèn cũng là thời gian lôi cuốn cá đến vùng sáng, thường từ 3-6 giờ 
(từ lúc chập tối đến 12 khuya). Trong thời gian thắp đèn nên chú ý đến các hoạt động 
chiếu sáng của hệ thống đèn, tình hình sóng gió, sự xuất hiện của cá dữ trong vùng 
chiếu sáng,... mà có biện pháp xử lý thích hợp. 
Khi thấy cá đã tập trung nhiều vào vùng chiếu sáng hoặc cá đang trong tình trạng 
say đèn thì có thể tiến hành bủa lưới đánh bắt. 
b. Thả lưới 
Trước khi thả lưới ta phải tắt tất cả hệ thống đèn chiếu sáng trên tàu, chỉ để lại đèn 
ở bè đèn. Tiếp đến thu neo (nếu có thả neo), đồng thời nới dài dây bè đèn cách tàu với 
khoảng cách bằng bán kính quay trở của tàu, cá sẽ tự động bu lại bè đèn. Sau đó cho 
tàu chạy vòng tròn với bán kính quay trở thích hợp với chiều dài sẳn có của vàng lưới 
vây trên tàu. 
Chú ý là thời gian thả lưới phải cho nhanh và tránh cá bị xáo động có thể rời khỏi 
bè đèn. Sau khi thả lưới xong thì tiến hành thu lưới, bắt cá nhanh. 
c. Thu lưới và bắt cá 
Công việc thu lưới và bắt cá cũng tương tự như lưới vây thông thường. Nhưng 
trước khi cuộn rút thu cáp ta vẫn phải để bè đèn trong nước. Khi bắt đầu thu cáp thì 
kéo bè đèn lại và đem lên tàu, sau đó mới thu lưới. 
d. Chuẩn bị mẻ khai thác tiếp theo 
Công việc khai thác mẻ tiếp theo cũng có các bước tương tự như mẻ trước, nghĩa là 
cũng bao gồm các bước thắp (chong) đèn, thả lưới thu lưới và bắt cá. Tuy nhiên, địa 
điểm khai thác có thể thực hiện tại vị trí trước hoặc chuyển đến địa điểm mới. Điều 
này tùy thuộc vào sản lượng khai thác của mẻ trước, hoặc là tình hình sóng gió, thời 
tiết sẽ có trong mẽ dự định khai thác tiếp theo, thời gian chong đèn của mẽ trước là dài 
 - 71
hay ngắn, thời điểm xuất hiện của trăng trên bầu trời (còn tối trời hay sắp sáng),... mà 
quyết định có nên khai thác tiếp nữa hay không. 
Thực tế đánh bắt lưới vây kết hợp ánh sáng ở ĐBSCL thường có sự kết hợp khai 
thác giữa 1 tàu mẹ và từ 1-2 tàu con (không có lưới, chỉ có hệ thống chiếu sáng). Tàu 
con làm nhiệm vụ chong đèn ở khu vực không quá xa tàu mẹ, tàu con có thể chong đèn 
chậm hơn tàu mẹ một thời gian nhất định. Khi tàu mẹ khai thác của phần mình xong sẽ 
chạy đến bủa lưới quanh tàu con. Sau khi tàu mẹ bủa lưới xong, tàu con nhanh chóng 
khỏi khu vực bao vây để tàu mẹ tiến hành thu lưới bắt cá. 
10.2.3 Nghề vó kết hợp ánh sáng 
Ở những nước có nghề đánh bắt cá tiên tiến như Nhật Bản, Nga,... nghề khai thác 
lưới vó kết hợp ánh sáng thường được áp dụng trên các tàu cỡ nhỏ, có công suất máy 
từ (50-120) CV. Đây là loại hình khai thác khá hiệu quả, bởi vốn đầu tư thấp, dễ áp 
dụng kỹ thuật và rất cơ động. 
Đèn Xanh Đèn đỏ 
Đèn xanh để dụ cá, đèn đỏ để gom cá Thu lưới và xúc cá 
10.5 - Hệ thống khai thác lưới vó mạn tàu 
a. Trang bị 
Trên tàu khai thác lưới vó kết hợp ánh sáng thường có trang bị từ 1-2 vàng lưới vó, 
máy phát điện, hệ thống chiếu sáng bảng điều khiển hệ thống điện, tời nâng hạ lưới 
vó,... Cụ thể đối với tàu khai thác cá thu đao, có hệ thống chiếu sáng như (H 10.5): 
- Hệ thống đèn pha có công suất từ 500-1500 W, dùng để dò tìm, phát hiện ra khu 
vực có cá. 
- Hệ thống đèn xanh có công suất 500W, tạo thành từng cụm, được dùng để lôi 
cuốn cá đến vùng sáng. 
- Hệ thống đèn đỏ để tập trung cá đến chổ đặt lưới. 
b. Cấu tạo lưới vó 
Lưới vó mạn tàu có cấu tạo dạng hình chữ nhật. Chiều dài lưới vó mạn tàu tùy 
thuộc vào chiều dài của tàu, với tỷ lệ: 0.8 L (L là chiều dài thân tàu). 
 - 72
Nhìn chung chiều dài giềng trên và giềng dưới bằng nhau. Ở giềng trên được lắp 
ráp với sào nổi bằng tre, có chiều dài từ (8-15) m. Tác dụng của sào nổi là làm cho 
giềng trên nổi lên trên mặt nước. 
Để định hình miệng lưới, người ta lắp 2 sào chống có chiều dài (8-12) m. Một đầu 
được buộc chặc vào sào nổi, một đầu gắn với thân tàu. 
Giềng dưới của vó mạn tàu được lắp các chì nhỏ có trọng lương 15 g/viên x 90 
viên. Ngoài ra còn lắp thêm 5-6 viên chì lớn có trọng lượng 25 g/viên vào những chổ 
có dây kéo thu giềng dưới. 
Ở 2 giềng hông được lắp các vòng khuyên. dây cáp rút được luồng qua hệ thống 
vòng khuyên để giúp thu lưới. 
c. Kỹ thuật khai thác cá thu đao bằng lưới vó mạn tàu kết hợp ánh sáng 
Đầu tiên cho tàu chạy nhanh đến khu vực có nhiều cá thu đao thường xuất hiện, sau 
đó giảm dần tốc độ để dò tìm cá. Khi phát hiện ra nơi có cá thì chạy chậm lại và cho 
mũi tàu trôi ngược với chiều gió. 
Khi này bật tất cả các đèn của hệ thống đèn xanh ở mạn không có lưới (mạn lôi 
cuốn cá) để thu hút cá đến gần tàu. Trong khi cá đang bắt đầu tập trung cao ở mạn đèn 
xanh, thì ở mạn làm việc (mạn có đặt lưới vó) bắt đầu thả lưới vó đến độ sâu cần thiết. 
Tiếp đến tắt tất cả hệ thống đèn xanh, đồng thời bật hệ thống đèn đỏ ở mạn làm 
việc, cá sẽ từ mạn đèn xanh chuyển dần sang mạn đèn đỏ. Khi cá đã chuyển hết sang 
mạn làm việc, ta tiến hành thu lưới. 
Để thu lưới, trước hết ta thu đồng loạt: giềng chì lên khỏi mắt nước; thu ngắn sào 
chống lại, thu 2 giềng hông ngắn lại để tạo thành túi lưới, cá sẽ bị giữ lại trong lưới, 
sau đó tiến hành bắt cá. 
Để bắt cá, ta có thể dùng vợt hoặc bơm hút (nếu cá nhiều và nhỏ). Sau khi bắt cá 
xong ta tiến hành khai thác mẽ tiếp theo. 
10.2.4 Nghề câu mực 
Nghề câu mực ở ĐBSCL tập trung nhiều nhất ở các đảo Phú Quốc, Nam Du, Côn 
Sơn. Những năm gần đây các tỉnh ven biển ĐBSCL đều có các đội tàu câu mực tập 
trung về vùng Côn Sơn để khai thác đối tượng này. 
a. Trang bị 
Bộ phận chính của câu mực là ống câu (bao gồm dây câu) và đèn thắp sáng để lôi 
cuốn mực đến vùng sáng. 
• Dây câu bằng cước, dài 20-30 m, đường kính 1,0-1,2 mm. Mỗi dây câu có thể buộc 
từ 1-3 lưỡi câu, cách nhau 2-3 m và có thể buộc kết hợp thêm với các chùm vãi kim 
tuyến. 
• Lưỡi câu mực thường là loại lưỡi kép, không ngạnh, nhưng rất sắc, rất dễ móc vào 
đầu hoặc thân mực khi giựt dây câu. 
 - 73
• Nguồn sáng, thường là đèn măng-sông (nếu câu riêng rẽ trên các thúng câu hoặc 
xuồng nhỏ) hoặc từ ánh sáng điện nếu câu tập thể trên tàu thuyền lớn. 
• Vợt xúc mực làm bằng lưới cước, có cán dài 50-100 cm. Độ sâu túi vợt khoảng từ 
100-150 cm, đủ để giữ không cho mực thoát trở ra miệng lưới. 
b. Kỹ Thuật câu mực 
Kỹ thuật câu mực, bao gồm: Chọn nơi khai thác, thắp đèn và kỹ thuật câu mưc. 
• Chọn nơi khai thác 
Ngư trường khai thác mực là những nơi có nền đáy cát pha vỏ nhuyễn thể. Nơi có 
nhiều nguồn thức ăn cho mực. Độ sâu từ 10-25 m nước. Độ trong từ 1-2 m. Dòng chảy 
nhẹ. 
• Thắp đèn 
 Đèn được thắp trước khi câu ít nhất 15 phút để mực phát hiện ra nguồn sáng và tập 
trung vào vùng phát sáng. Khi thấy mực tập trung khá nhiều thì ta tiến hành thả câu. 
• Kỹ thuật câu có mồi 
Mồi được móc vào lưỡi câu, rồi thả xuống đến sát nền đáy. Sau đó một tay vừa thu 
dây câu, một tay kia giựt dây câu chạy lên, chạy xuống để mực phát hiện ra mồi, mực 
sẽ bám theo mồi để ăn và bị vướng lưỡi câu. 
Mồi câu có thể là các loại cá chết, mực, rắn,... dạng còn tươi. Nếu câu hết mồi ta có 
thể lấy mực mà ta đã câu được để làm mồi câu tiếp. 
• Kỹ thuật câu không mồi 
Trước hết các chùm vãi kim tuyến được buộc gần các lưỡi câu. Tiếp đó thả dây 
câu, ta vừa thu dây, vừa di động dây lên xuống. Khi này nếu mực phát hiện ra chùm 
vãi kim tuyến sẽ bu bám vào vãi và bị mắc bởi lưỡi câu. Nếu không có lưỡi, mực sẽ 
tiếp tục đeo bám dần lên tới mặt nước, khi này ta nhanh chóng dùng vợt để xúc mực. 
Chú ý là khi ta xúc mực ta phải lựa thế xúc từ đuôi, bởi vì khi mực phát hiện ra 
nguy cơ bị bắt, chúng sẽ lùi mạnh ra sau và bị lọt vào túi vợt. 
 - 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bùi Như Khuê, và Phạm Á, 1978. Dây Sợi Lưới Tổng Hợp Dùng Trong Nghề Cá-
NXB.Nông Nghiệp. 
F.A.O, 1985. Fishing Method of The World. 1245 pp 
Friman, A. L., (1992). Calculations for fishing gear designs. Fishing News Books. 
University Press, Cambridge. 241pp. 
Ngô Đình Chùy (1881). Giáo Trình Nguyên Lý Tính Toán Ngư Cụ. Đại Học Thủy Sản 
Nha Trang. 
Nguyễn Văn Điển, 1978. Vật Liệu và Công Nghệ Chế Tạo Lưới - NXB Nông Nghiệp. 
145pp 
Nguyễn Thiết Hùng (1982). Giáo Trình Thiết kế lưới Kéo. Đại Học Thủy Sản Nha 
Trang. 
Nédélec, 1982. Classification of Fishing gears. 45 pp 
Niconorov, 1978. Đánh bắt cá bằng ánh sáng (tài liệu dịch). NXB Nông Nghiệp. 
112pp 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ky_thuat_khai_thac_thuy_san_tap_1_ha_phuoc_hung.pdf