Ảnh hưởng của nồng độ mannose - binding lectin 2 (MBL2) trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA

Tóm tắt Ảnh hưởng của nồng độ mannose - binding lectin 2 (MBL2) trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA: ... so sánh các nồng độ MBL2 trong huyết thanh nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu cũng đã thông qua hội đồng xét duyệt y đức của bệnh viện Karolinska, Stockholm, Thụy Điển. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Đặc đ... ở khoảng hơn 40% bệnh nhân bệnh thận IgA [5]. MBL đã được chứng minh có vai trò quan trọng trong quá trình đáp ứng miễn dịch khi cơ thể nhiễm trùng, đặc biệt trong nhiễm trùng đường hô hấp, ví dụ như cúm A virus, Pneumococci, Haemophilus influenzae, and Legionella pneumophila. Do vậy, s...n thương cầu thận nặng hơn cũng như biểu hiện lâm sàng với tình trạng protein niệu và chức năng thận suy giảm nhiều hơn nhóm không có lắng đọng MBL và L - ficotin nhưng không thấy sự khác biệt đáng kể nồng độ MBL huyết thanh giữa nhóm bệnh thận IgA và nhóm chứng [8]. Liu LL và cộng sự ...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Ảnh hưởng của nồng độ mannose - binding lectin 2 (MBL2) trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 32 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Địa chỉ liên hệ: Vương Tuyết Mai, bộ môn Nội tổng hợp, 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: vuongtuyetmai@gmail.com 
Ngày nhận: 25/9/2013 
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014 
ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ MANNOSE - BINDING LECTIN 2 
(MBL2) TRONG CƠ CHẾ BỆNH SINH CỦA BỆNH THẬN IgA 
Vương Tuyết Mai 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Mục tiêu nghiên cứu nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của nồng độ mannose - binding lectin 2 (MBL2) trong cơ 
chế bệnh sinh của bệnh thận IgA. Nghiên cứu tiến hành ở 39 mẫu huyết thanh của bệnh nhân bệnh thận IgA 
và 39 người khoẻ mạnh. Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các nồng độ của 
MBL2 trong huyết thanh của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. Thêm vào đó khi phân tích 
theo nhóm tuổi cũng không cho thấy bất kỳ xu hướng khác biệt nào của nồng độ MBL2 giữa nhóm chứng và 
nhóm bệnh. Như vậy, trong nghiên cứu này, nồng độ MBL2 trong huyết thanh không cho thấy là một yếu tố 
quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA. 
Từ khoá: MBL2, bệnh thận IgA 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mannose - binding lectin (MBL), cũng được 
gọi là mannan - hoặc mannose - binding 
protein (MBP) là một trong những protein 
trong nhóm collectin family, hoạt hoá lectin 
trong hệ thống hoạt hoá bổ thể cổ điển. Cấu 
trúc và chức năng của MBL tương tự như 
C1q, có vai trò quan trọng trong miễn dịch 
bẩm sinh như là một thụ thể nhận dạng trong 
hệ thống bổ thể [1]. Hệ thống bổ thể được 
kích hoạt thông qua 3 cơ chế: cổ điển, thay 
thế và lectin. Con đường bổ thể được kích 
hoạt thông qua cơ chế lectin sau khi có sự 
tương tác của plasma lectin mannose-binding 
(MBL), L-ficolin, hoặc H-ficolin với 
carbohydrate. Cho đến nay, cơ chế kích hoạt 
bổ thể trong bệnh thận IgA chưa được báo 
cáo thật đầy đủ nhưng nhiều nghiên cứu cho 
thấy có sự lắng đọng bổ thể, đặc biệt là C3 và 
C4 ở cầu thận bệnh nhân. Hơn nữa, sự lắng 
đọng của MBL gắn với IgA tại cầu thận cho 
thấy dấu hiệu MBL là để kích hoạt con đường 
lectin [2]. Sự liên quan giữa sự lắng đọng 
MBL tại cầu thận với các thông số đánh giá 
mức độ tổn thương thận đã cho thêm bằng 
chứng về sự kích hoạt bổ thể thông qua con 
đường lectin ở bệnh thận IgA [1; 3]. 
Bệnh thận IgA được Berger và Hinglais 
trình bày lần đầu tiên vào năm 1968 với hình 
ảnh tổn thương đặc hiệu của sự lắng đọng 
các phức hợp miễn dịch, đặc biệt là IgA ở 
gian mạch cầu thận đã giúp các nhà thận học 
có thể nhận diện được bệnh thận IgA khác 
biệt so với các tổn thương cầu thận khác [4]. 
Chiếm xấp xỉ 1/3 trong tổng số bệnh cầu thận, 
sau nhiều năm được coi là lành tính, những 
nghiên cứu dọc với thời gian dài gần đây đã 
cho thấy bệnh thận IgA là một trong những 
nguyên nhân tương đối phổ biến dẫn đến 
bệnh thận giai đoạn cuối. Tỷ lệ bệnh thận IgA 
trong tổng số bệnh cầu thận (thống kê dựa 
trên kết quả sinh thiết thận) cho thấy có sự 
khác biệt trong các quần thể trên thế giới: cao 
nhất là khu vực châu Á (Singapore, Nhật Bản 
và Hồng Kông), Úc, Phần Lan và Nam Âu, 
chiếm tỷ lệ 20 đến 40%, tuy nhiên ở Vương 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 33 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
quốc Anh, Canada và Hoa Kỳ, tỷ lệ thấp hơn 
nhiều, chỉ từ 2 đến 10%. Sự khác biệt về tỷ lệ 
có thể do chỉ định sinh thiết thận ở các nước 
khác nhau tuy có thể sự khác biệt này có đóng 
góp của yếu tố di truyền và miễn dịch trong cơ 
chế bệnh sinh của bệnh thận IgA [6]. 
Triệu chứng khởi đầu của bệnh nhân có 
bệnh thận IgA thường là xuất hiện triệu 
chứng đái máu trong vòng 48 giờ sau viêm 
đường hô hấp trên hoặc nhiễm trùng khác. 
Do có hiện tượng đáp ứng miễn dịch quá 
mức và sự lưu hành của phức hợp miễn dịch 
trong huyết thanh có thể dẫn đến sự lắng 
đọng phức hợp miễn dịch tại cầu thận, đặc 
biệt là gian mạch cầu thận. Bên cạnh đó, 
MBL đã được chứng minh có liên quan đặc 
biệt với nhiễm trùng đường hô hấp, ví dụ như 
cúm A virus, Pneumococci, Haemophilus 
influenzae Vì vậy chúng tôi đặt giả thuyết 
rằng các mức độ MBL trong huyết thanh bệnh 
nhân có thể có vai trò nhất định trong cơ chế 
bệnh sinh của bệnh thận IgA. Do đó, nghiên 
cứu được tiến hành nhằm mục tiêu: Xác định 
ảnh hưởng của nồng độ mannose - binding 
lectin (MBL2) trong cơ chế bệnh sinh của 
bệnh thận IgA. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nghiên cứu được thực hiện tại viện 
Karolinska (Thụy Điển) tiến hành trên 39 mẫu 
huyết thanh của các bệnh nhân bệnh thận IgA 
và 39 người khoẻ mạnh. Tất cả các bệnh 
nhân bệnh thận IgA trong nghiên cứu đều 
được tiến hành sinh thiết thận và đủ tiêu 
chuẩn chẩn đoán bệnh thận IgA. Nhóm chứng 
là những người khỏe mạnh được lựa chọn có 
tuổi và giới tương đồng với bệnh nhân ở 
nhóm bệnh thận IgA. 
Kỹ thuật ELISA (Antibodyshop, DK - 2820 
Gentofte, Đan Mạch) được sử dụng trong 
nghiên cứu để định lượng nồng độ MBL2 
ở nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và 
nhóm chứng. 
Xử lý số liệu 
Các số liệu được mã hóa và xử lý bằng 
chương trình SPSS 17.0. Test Mann - Whitney 
hoặc Kruskal - Wallis được sử dụng để so 
sánh các nồng độ MBL2 trong huyết thanh 
nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng. 
Đạo đức nghiên cứu 
Nghiên cứu cũng đã thông qua hội đồng 
xét duyệt y đức của bệnh viện Karolinska, 
Stockholm, Thụy Điển. 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm của các đối tượng nghiên cứu 
Nhóm Số lượng Tuổi 
Giới 
p 
Nam Nữ 
Nhóm chứng 39 (100%) 35,08 ± 1,62 
30 
(76,92%) 
9 
(23,08%) 
> 0,05 
Nhóm bệnh 39 (100%) 35,10 ± 1,61 
30 
(76,92%) 
9 
(23,08%) 
 34 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bệnh nhân được lựa chọn cho nhóm bệnh và nhóm chứng tương đương nhau về số lượng 
đối tượng nghiên cứu cũng như tương đồng về độ tuổi và giới tính. 
2. Nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng 
Nồng độ MBL2 ở nhóm chứng là 18,51 ± 2,51 ng/ml (0,12 - 48,96 ng/ml) không khác biệt so 
với nhóm bệnh nhân là 20,38 ± 2,68 ng/ml (0,02 - 50 ng/ml). 
Bảng 2. Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng 
ở các loại nồng độ của MBL2 
Nồng độ 
MBL2 
Nhóm chứng Nhóm bệnh nhân Tổng số 
c2 p 
n1 % n2 % n % 
< 5 ng/ml 8 10,3% 9 11,5% 17 21,8% 
0,75 
0,5 
≥ 5 ng/ml 31 39,7% 30 38,5% 61 78,2% 
Tổng 39 50% 39 50% 78 100% 
< 10 ng/ml 17 21,8% 16 20,5% 33 42,3% 
0,53 
0,5 
≥ 10 ng/ml 22 28,2% 23 29,5% 45 57,7% 
Tổng 39 50% 39 50% 78 100% 
< 15 ng/ml 19 24,4% 18 23,1% 37 47,4% 
0,51 
0,5 
≥ 15 ng/ml 20 25,6% 21 26,9% 41 52,6% 
Tổng 39 50% 39 50% 78 100% 
< 20 ng/ml 21 26,9% 20 25,6% 41 52,6% 
0,05 
0,5 
≥ 20 ng/ml 18 23,1% 19 24,4% 37 47,4% 
Tổng 39 50% 39 50% 78 100% 
Nồng độ MBL2 được chia thành các phân nhóm khác nhau. Tuy nhiên, khi so sánh tỷ lệ phân 
bố của nhóm bệnh nhân và nhóm chứng ở các phân mức khác nhau không thấy sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê. 
3. So sánh nồng độ MBL2 trong nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng phân 
loại theo nhóm tuổi 
So sánh nồng độ MBL2 của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng ở các nhóm tuổi 
khác nhau không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (bảng 3). 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 35 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
Bảng 3. Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng theo nhóm tuổi 
Nồng độ 
MBL2 (mg/ml) 
 50 tuổi 
Chứng Bệnh Chứng Bệnh Chứng Bệnh Chứng Bệnh 
Trung bình 
23,16 ± 
3,7 
21,29 ± 
3,51 
12,25 ± 
4,33 
21,1 ± 
6,0 
13,34 ± 
5,07 
20,49 ± 
5,68 
32,57 ± 
9,54 
12,65 ± 
11,6 
Min-Max 
5,02 -
48,96 
0,51 -
43,87 
0,01 -
42,35 
0,1 - 50 
2,97 -
45,65 
0,37 -
44,59 
14,61 -
32,54 
002 - 
35,82 
p 0,89 0,11 0,54 0,2 
Bảng 4. Sự phân bố tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng 
theo 2 nhóm trên và dưới 30 tuổi 
Nồng độ MBL2 (mg/ml) 
≤ 30 tuổi > 30 tuổi 
Chứng Bệnh Chứng Bệnh 
Trung bình 23,16 ± 3,7 21,29 ± 3,5 15,27 ± 3,29 19,81 ± 3,82 
Min-Max 5,02 - 48,96 0,51 - 43,87 0,01 - 47,15 0,02 - 50 
p 0,86 0,33 
Để tăng số lượng bệnh nhân trong mỗi nhóm tuổi chúng tôi phân tích ở hai nhóm trên và dưới 
30 tuổi tuy nhiên khi so sánh nồng độ MBL2 của nhóm bệnh nhân bệnh thận IgA và nhóm chứng 
ở 2 nhóm tuổi này cũng không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
IV. BÀN LUẬN 
Bệnh nhân bệnh thận IgA thường xuất hiện 
triệu chứng đái máu và đau hông lưng trong 
vòng 48 giờ sau viêm đường hô hấp trên hoặc 
nhiễm trùng khác. Triệu chứng này xuất hiện 
ở khoảng hơn 40% bệnh nhân bệnh thận IgA 
[5]. MBL đã được chứng minh có vai trò quan 
trọng trong quá trình đáp ứng miễn dịch khi cơ 
thể nhiễm trùng, đặc biệt trong nhiễm trùng 
đường hô hấp, ví dụ như cúm A virus, 
Pneumococci, Haemophilus influenzae, and 
Legionella pneumophila. Do vậy, sự thiếu hụt 
của MBL có thể làm tăng khả năng nhiễm 
trùng đường hô hấp trên [3]. Chúng tôi đặt giả 
thuyết rằng các mức độ MBL trong huyết 
thanh bệnh nhân có thể có vai trò quan trọng 
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận IgA. 
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiến 
hành định lượng MBL2 trong huyết thanh 
bệnh nhân bệnh thận IgA và chưa có điều 
kiện để làm nghiên cứu về sự đào thải MBL 
trong nước tiểu cũng như tình trạng cũng như 
tình trạng lắng đọng của MBL ở cầu thận của 
bệnh nhân bệnh thận IgA. 
Nghiên cứu của Hisano S và cộng sự 
tiến hành theo hướng tìm hiểu sự lắng đọng 
của MBL2 tại cầu thận nhằm tìm hiểu vai trò 
của MBL trong cơ chế bệnh sinh của bệnh 
thận IgA. Kết quả nhuộm hóa mô miễn dịch 
tiêu bản sinh thiết thận cho thấy có sự lắng 
đọng MBL tại cầu thận và kích hoạt bổ thể 
qua con đường lectin ở bệnh nhân bệnh cầu 
 36 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
thận và chứng minh có sự lắng đọng MBL tại 
cầu thận [6]. 
Có nhiều bằng chứng hỗ trợ cho giả thuyết 
về sự kích hoạt bổ thể thông qua lectin trong 
bệnh thận IgA nhờ những nghiên cứu tìm hiểu 
sự lắng đọng MBL ở cầu thận. Nghiên cứu 
của Liu LL và cộng sự tiến hành tìm hiểu sự 
lắng đọng MBL tại cầu thận ở 131 bệnh nhân 
bệnh thận IgA qua kết quả quan sát được khi 
nhuộm miễn dịch huỳnh quang cho thấy sự 
lắng đọng của MBL chủ yếu ở gian mạch cầu 
thận (34,35%). Nhóm bệnh nhân bệnh thận 
IgA có lắng đọng MBL tại gian mạch cầu thận 
so với bệnh nhân không có lắng đọng MBL tại 
cầu thận thì có protein niệu nghiêm trọng hơn, 
suy giảm chức năng thận nhiều hơn và có 
những thay đổi mô học nặng hơn theo phân 
loại Oxford [7]. 
Nghiên cứu của Anja Roos và cộng sự về 
con đường lectin có thể kích hoạt bổ thể bằng 
cách nghiên cứu tình trạng lắng đọng của 
lectin mannose - binding (MBL) và ficolins tại 
cầu thận trong bệnh thận IgA. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy, lắng đọng MBL ở gian mạch 
cầu thận chiếm 25%. Sự lắng đọng MBL và 
L-ficolin ở cầu thận của bệnh nhân bệnh thận 
IgA có liên quan với tổn thương mô học nặng 
hơn biểu hiện bằng xơ cứng cầu thận và thâm 
nhiễm kẽ, cũng như lượng protein niệu nhiều 
hơn đáng kể [8]. 
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, 
nồng độ MBL2 ở nhóm chứng là 18,51 ± 
2,51ng/ml (0,12 - 48,96ng/ml) không khác biệt 
so với nhóm bệnh nhân là 20,38 ± 2,68ng/ml 
(0,02 - 50/ml) với p > 0,05. Phân loại nồng độ 
của MBL2 ở nhiều mức độ khác nhau cũng 
không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê giữa huyết thanh bệnh nhân và nhóm 
chứng khi phân tích bằng Mann - Whitney 
Test. Thêm vào đó, khi chúng tôi phân tích 
chia theo nhóm tuổi cũng không cho thấy bất 
kỳ xu hướng nào của sự khác biệt nào của 
các mức nồng độ MBL2 huyết thanh giữa 
nhóm chứng và nhóm bệnh thận IgA. 
Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự 
như trong kết quả nghiên cứu của Anja Roos 
và cộng sự. Trong nghiên cứu của Anja Roos 
và cộng sự mặc dù cho thấy nếu bệnh nhân 
lắng đọng MBL tại cầu thận kết hợp với L - 
ficolin thì có biểu hiện tổn thương cầu thận 
nặng hơn cũng như biểu hiện lâm sàng với 
tình trạng protein niệu và chức năng thận suy 
giảm nhiều hơn nhóm không có lắng đọng 
MBL và L - ficotin nhưng không thấy sự khác 
biệt đáng kể nồng độ MBL huyết thanh giữa 
nhóm bệnh thận IgA và nhóm chứng [8]. 
Liu LL và cộng sự tiến hành nghiên cứu về 
tình trạng bài tiết MBL trong nước tiểu ở 162 
bệnh nhân IgA và 50 người khỏe mạnh. MBL 
bài tiết ở nước tiểu được đo bằng sandwich 
ELISA cho thấy nồng độ MBL trong nước tiểu 
ở bệnh nhân bệnh thận IgA cao hơn đáng kể 
so với nhóm khỏe mạnh. Có sự liên quan giữa 
mức độ MBL bài tiết trong nước tiểu và chức 
năng thận (so sánh dựa trên creatinine huyết 
thanh và mức lọc cầu thận ước tính của bệnh 
nhân), protein niệu và tăng huyết áp động 
mạch. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng cho 
thấy MBL có liên quan với các thông số mô 
bệnh học theo phân loại Oxford [9]. 
Như vậy, những nghiên cứu mô bệnh học 
về sự lắng đọng của MBL ở cầu thận và sự 
bài tiết MBL ở nước tiểu cho thấy vai trò của 
MBL trong cơ chế bệnh sinh của bệnh thận 
IgA là quan trọng. Tuy nhiên, khi dựa trên 
những bằng chứng nghiên cứu trên để tiến 
hành định lượng nồng độ MBL trong huyết 
thanh chúng tôi chưa thấy có bằng chứng về 
vai trò của MBL huyết thanh trong cơ chế 
bệnh sinh của bệnh thận IgA. 
 TCNCYH 86 (1) - 2014 37 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2014 
V. KẾT LUẬN 
Kết quả không cho thấy sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê của các nồng độ của MBL 
giữa huyết thanh bệnh nhân bệnh thận IgA 
và nhóm chứng. Khi phân tích theo nhóm tuổi 
cũng không cho thấy bất kỳ xu hướng khác 
biệt nào của nồng độ MBL2 giữa nhóm 
chứng và nhóm bệnh. Như vậy, nồng độ 
MBL2 trong huyết thanh không cho thấy là 
yếu tố quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của 
bệnh thận IgA. 
Lời cảm ơn 
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các 
thầy cô đã tận tình chỉ dạy và tạo mọi điều 
kiện cho nghiên cứu được tiến hành: Stefan 
H. Jacobson, Leonid Padyukov, Iva Gunnarsson, 
Đỗ Thị Liệu, Đinh Thị Kim Dung, Sigrid Lundberg, 
Elisabet Svenungsson, Lars Wramner, Maria 
Seddighzadeh, Mirjana Hahn - Zoric, Anders 
Fernstrom, Lars A Hanson và Ann - Christine 
Syvänen. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn 
Eva Jemseby, Per - Anton Westerberg, 
Susanne Schepull, Micael Gylling và Per 
Eriksson đã tham gia tạo dựng bước đầu cho 
quá trình nghiên cứu. Tôi chân thành cảm ơn 
sự hỗ trợ của dự án các bệnh phổ biến Việt 
Nam, Đại học Y Hà Nội, Sida/SAREC, Roche, 
quỹ nghiên cứu thận Thụy Điển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tsutsumi A, Takahashi R, Sumida T 
(2005). Mannose binding lectin: genetics and 
autoimmune disease. Autoimmun Rev, 4(6), 
364 - 372. 
2. Lhotta K, Würzner R, König P (1999). 
Glomerular deposition of mannose-binding 
lectin in human glomerulonephritis. Nephrol 
Dial Transplant, 14(4), 881. 
3. Gomi K, Tokue Y, Kobayashi T et al 
(2004). Mannose-binding lectin gene 
polymorphism is a modulating factor in 
repeated respiratory infections. Chest, 126(1), 
95 - 99. 
4. Berger J, Hinglais N (2000). 
Intercapillary deposits of IgA-IgC.1968. J. Urol. 
Nephrol. (Paris) 74: 694 - 695 (with comments 
by Liliane Striker)]. Reprinted in J Am Soc 
Nephrol, 11(10), 1957 - 1959. 
5. Donadio JV, Grande JP (2002). IgA 
nephropathy. N Engl J Med, 347(10), 738 - 748. 
6. Hisano S, Matsushita M, Fujita T et al 
(2007). Activation of the lectin complement 
pathway in post-streptococcal acute 
glomerulonephritis. Pathol Int, 57(6), 351 - 357. 
7. Liu LL, Liu N, Chen Y, Wang LN et al 
(2013). Glomerular mannose binding lectin 
deposition is a useful prognostic predictor in 
IgA nephropathy. Clin Exp Immunol. 2013 Jun 
10. doi: 10.1111/cei.12154. 
8. Anja Roos, Maria Pia Rastaldi, 
Novella Calvaresi et al. Glomerular Activation 
of the Lectin Pathway of Complement in IgA 
Nephropathy Is Associated with More Severe 
Renal Disease. J Am Soc Nephrol 17: 1724–
1734, 2006. doi: 10.1681/ASN.2005090923. 
9. Liu LL, Jiang Y, Wang LN et al. 
Urinary mannose-binding lectin is a biomarker 
for predicting the progression of 
immunoglobulin (Ig)A nephropathy. Clinical and 
Experimental Immunology, 169, 148 - 155. 
 38 TCNCYH 86 (1) - 2014 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Summary 
THE INFLUENCE OF MANNOSE-BINDING LECTIN 2 (MBL2) 
CONCENTRATION ON SUSCEPTIBILITY TO IGA NEPHROPATHY 
The purpose of this study was to investigate the influence of MBL2 concentration on suscepti-
bility to IgA nephropathy. 39 serum samples from patients with IgA nephropathy and 39 serum 
samples of healthy controls were analysed by ELISA technique. We did not find any significant 
difference in serum MBL levels between IgA nephropathy group and the control group. In 
addition, we found no difference of serum MBL2 levels between IgA nephropathy patients and the 
control group when stratified by age groups. Our results suggested that MBL2 is unlikely a 
possible biomarker for prediction of susceptibility to IgA nephropathy. 
Keywords: MBL2, IgA nephropathy 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_nong_do_mannose_binding_lectin_2_mbl2_trong_co.pdf
Ebook liên quan