Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến biến động sử dụng đất tại huyện miền núi Sa Pa, tỉnh Lào Cai giai đoạn 1993-2006
Tóm tắt Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến biến động sử dụng đất tại huyện miền núi Sa Pa, tỉnh Lào Cai giai đoạn 1993-2006: ... canh tác thảo quả có thể giảm bớt áp lực lên đất nông nghiệp và có thể ảnh hưởng đến lớp phủ rừng. Vì vậy chúng tôi coi “thảo quả” là một biến trong phân tích MLR. Trước khi đưa vào phân tích MLR cần kiểm tra sự đa cộng tuyến giữa các biến độc lập (kiểm tra tương quan giữa các biến. Nếu...sẽ tăng 1.2 lần (10%=10 đơn vị, do đó Odds Ratio = e0,016*10=1,2) trong giai đoạn này. 3.4. Mối quan hệ giữa biến động sử dụng đất và du lịch Kết quả phân tích MLR ở trên đã chỉ ra rằng du lịch là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến biến động đất rừng và đất nông nghiệp bên cạnh cá... địa phương. Kết quả phỏng vấn cho thấy 78% số người được hỏi cho rằng du lịch đã giúp cuộc sống của họ khá lên và 56% nói rằng du lịch giúp họ nâng cao nhận thức. 4.2. Du lịch làm giảm áp lực lên đất rừng Kết quả phân tích MLR chỉ ra rằng tỉ lệ du lịch có mối tương quan âm với suy giả...
lịch là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến biến động đất rừng và đất nông nghiệp bên cạnh các yếu tố khác như dân tộc, địa hình, khả năng tiếp cận. Tuy nhiên, phương pháp trên không cho chúng ta cái nhìn chi tiết về ảnh hưởng của du lịch đến biến động sử dụng đất. Vì vậy, bước tiếp theo chúng tôi sẽ áp dụng phương pháp Phân tích thành phần chính (PCA) để phân tích kỹ hơn ảnh hưởng của yếu tố du lịch đến biến động sử dụng đất dựa trên dữ liệu phỏng vấn 512 hộ gia đình tại 25 thôn bản chìa khóa. Dữ liệu về biến động sử dụng đất tại các điểm chìa khóa được tính toán từ ảnh máy bay năm 1993 và ảnh SPOT năm 2006 với độ phân giải cao. Bảng 3. Kết quả phân tích hồi qui logic đa bậc (MLR) (chỉ liệt kê các biến có tương quan với các loại hình biến động sử dụng đất với độ tin cậy 95%) Các loại hình biến động sử dụng đất Các nhân tố tác động đến biến động sử dụng đất Hệ số hồi qui Pr > Chi² Odds ratio Tỉ lệ du lịch -0,021 0,003 0,997 Dân tộc Dao 0,32 0,046 1,377 Độ cao -0,001 0 0,999 Suy giảm rừng Độ dốc 0,028 <0,0001 1,028 Độ dốc -0,014 <0,0001 0,986 Diện tích thảo quả/hộ gia đình -0,147 0,029 0,863 Phá rừng Dân tộc Tày -0,575 0,008 0,562 Độc dốc 0,009 <0,0001 1,009 Tốc độ tăng dân số -0,083 0,012 0,921 Phục hồi rừng Dân tộc Dáy -1,078 0,038 0,34 Độ cao -0,001 0,038 0,999 Độ dốc -0,085 <0,0001 0,919 Mở rộng ruộng bậc thang Dân tộc Tày -2,524 0,039 0,080 Tỉ lệ du lịch 0,015 0,026 1,015 Tỉ lệ nghèo 0,01 0,045 1,01 Khoảng cách đến đường giao thông -0,001 0 0,999 Bỏ hoang đất canh tác Khoảng cách đến sông suối 0,001 0,046 1,001 H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 9 Kết quả phân tích PCA một lần nữa khẳng định có mối tương quan giữa nhân tố du lịch với biến động đất rừng và đất nông nghiệp. Như phần trên đã trình bày, các biến liên quan đến du lịch gồm: tỉ lệ số người tham gia du lịch, số ngày tham gia du lịch/năm, thu nhập du lịch/năm, thu nhập du lịch/tổng thu nhập của hộ gia đình, tỉ lệ số người tham gia vào từng hoạt động du lịch (bán hàng rong, dệt thổ cẩm, hướng dẫn viên, làm trong nhà hàng, khách sạn,). Các biến này được tính trung bình cho từng thôn bản. a. Du lịch và biến động đất rừng Nếu như phân tích MLR cho thấy tỉ lệ số hộ tham gia du lịch có tương quan tỉ lệ nghịch với “suy giảm rừng” thì phân tích PCA lại cho thấy tỉ lệ số người tham gia vào du lịch tỉ lệ thuận với “phục hồi rừng” (bảng 4). Những thôn bản nào có tỉ lệ số người tham gia vào du lịch càng cao thì tỉ lệ rừng phục hồi càng cao. Như vậy kết quả của cả 2 phương pháp đều khẳng định một điều: du lịch là một nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến việc bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên rừng ở Sa Pa. Ngoài ra, kết quả phân tích PCA còn cho thấy khả năng phục hồi rừng có mối tương quan thuận với các hoạt động du lịch như bán hàng rong và hướng dẫn viên du lịch (bảng 4). Kết quả phân tích PCA ở hình 6 cho thấy sự đối lập giữa các dân tộc trong việc tham gia du lịch và biến động đất rừng. Trục đầu tiên thể hiện sự đối lập giữa dân tộc H’mông và Dao. Nhóm dân tộc H’mông đặc trưng bởi tỉ lệ thu nhập du lịch cao, số ngày tham gia du lịch nhiều và biến động đất rừng mạnh mẽ thì ở nhóm dân tộc Dao lại ngược lại. Trục thứ 2 thể hiện sự đối lập giữa nhóm dân tộc H’mong và Kinh trong việc tham gia du lịch. Bảng 4. Mối tương quan giữa các biến du lịch với biến động sử dụng đất trong phân tích thành phần chính (PCA) Biến động sử dụng đất Biến du lịch Hệ số tương quan Tỉ lệ số người hoạt động du lịch 0.5* Tỉ lệ số người bán hàng rong 0.47* Phục hồi rừng Tỉ lệ số người làm hướng dẫn viên 0.56** Bỏ hoang đất canh tác Tỉ lệ thu nhập du lịch trong tổng thu nhập của hộ gia đình 0.59** * Tương quan chặt với độ tin cậy 95%, ** Tương quan chặt với độ tin cậy 99% Hình 6. Kết quả phân tích PCA giữa các biến dân tộc; tỉ lệ tham gia, thời gian tham gia, thu nhập du lịch và biến động đất rừng H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 10 Hình 7. Kết quả phân tích PCA giữa các biến dân tộc; tỉ lệ tham gia, thời gian tham gia, thu nhập du lịch và biến động đất nông nghiệp. Cùng tham gia du lịch nhưng nhóm người Kinh đạt được thu nhập du lịch/người/năm cao hơn trong khi nhóm người H’mông lại có tỉ lệ du lịch trong tổng thu nhập cao hơn. Điều đó chứng tỏ người Kinh đạt được thu nhập du lịch cao hơn người H’mông nhưng thu nhập từ du lịch không phải là nguồn thu duy nhất của họ. Trong khi đối với người H’mông tuy thu nhập từ du lịch không cao bằng người Kinh nhưng đây là nguồn thu quan trọng. b. Du lịch và biến động đất nông nghiệp Kết quả phân tích PCA ở hình 7 cho thấy nếu tỉ lệ tham gia du lịch và các loại hình du lịch có mối tương quan với biến động đất rừng thì tỉ lệ thu nhập du lịch trong tổng thu nhập của hộ gia đình lại có mối tương quan tỉ lệ thuận với tỉ lệ bỏ hoang đất canh tác. Điều đó có nghĩa khi tỉ lệ thu nhập từ du lịch của hộ gia đình càng cao thì họ có xu hướng bỏ hoang một phần đất canh tác. Kết quả phân tích PCA ở hình 7 cũng cho thấy có sự đối lập giữa dân tộc H’mông và Dao trong việc tham gia vào du lịch và tỉ lệ đất bỏ hoang. Nếu nhóm người H’mông có tỉ lệ thu nhập du lịch trong tổng thu nhập của hộ gia đình cao hơn và tỉ lệ đất bỏ hoang cao hơn thì nhóm người Dao lại ngược lại. Do đề tài chỉ tiến hành khảo sát ở những xã nông nghiệp nơi có rất ít người Kinh cư trú, hơn nữa người Kinh phần lớn hoạt động sản xuất phi nông nghiệp nên kết quả phân tích không cho thấy mối tương quan giữa du lịch và biến động sử dụng đất ở nhóm người Kinh. 4. Thảo luận 4.1. Du lịch làm thay đổi sự phân công lao động xã hội và cơ cấu thu nhập của hộ gia đình Về mặt truyền thống, lao động của các dân tộc thiểu số chủ yếu được chia theo giới [16]. Tên các biến: Dân tộc Hmong: Dân tộc H’mông Dao: Dân tộc Dao Kinh: Dân tộc Kinh Biến động đất nông nghiệp LUC4: Mở rộng diện tích ruộng bậc thang LUC7: Bỏ hoang đất canh tác (nương rẫy) Du lịch T1: Tỉ lệ số người tham gia du lịch T2: Số ngày tham gia du lịch/người/năm T3: Thu nhập du lịch/người/năm T4: Tỉ lệ thu nhập du lịch/tổng thu nhập H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 11 Phụ nữ đảm nhiệm các công việc như nội trợ, đồng áng, may vá, thêu thùa, Đàn ông phụ trách các công việc nặng nhọc hơn như: đi rừng, làm nhà, gia công công cụ lao động [17, 18]. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của du lịch, số lượng phụ nữ dân tộc thiểu số tìm được công việc ổn định tại các khách sạn và nhà hàng tăng lên. Việc bán hàng thổ cẩm và làm hướng dẫn viên du lịch cũng phát triển mạnh trở thành một nghề chứ không còn là việc làm thêm lúc nhàn rỗi [16]. Theo kết quả phỏng vấn tháng 7/2012, thu nhập trung bình từ việc bán hàng rong là 14,8 triệu đồng/người/năm, từ hướng dẫn viên là 20,4 triệu đồng/người/năm, cao hơn rất nhiều so với thu nhập từ nông nghiệp (5-10 triệu đồng/người/năm) (kết quả phỏng vấn tháng 7/2012). Do sự phát triển của du lịch chủ yếu tạo cơ hội việc làm cho phụ nữ dẫn đến sự thay đổi trong phân công lao động xã hội. Một hình thức phân công lao động xã hội mới xuất hiện, đó là người vợ đi ra ngoài kiếm tiền hỗ trợ gia đình, người chồng sẽ ở nhà phụ trách công việc đồng áng và chăm sóc con cái. Du lịch không những làm thay đổi sự phân công lao động xã hội mà còn thay đổi cả cơ cấu thu nhập của các hộ gia đình. Theo kết quả phỏng vấn, thu nhập du lịch chiếm tới 66% tổng thu nhập tiền mặt của các hộ gia đình. Điều đó có nghĩa du lịch đã trở thành một nguồn thu quan trọng của người dân địa phương. Kết quả phỏng vấn cho thấy 78% số người được hỏi cho rằng du lịch đã giúp cuộc sống của họ khá lên và 56% nói rằng du lịch giúp họ nâng cao nhận thức. 4.2. Du lịch làm giảm áp lực lên đất rừng Kết quả phân tích MLR chỉ ra rằng tỉ lệ du lịch có mối tương quan âm với suy giảm rừng. Hay nói cách khác là khả năng xảy ra chặt phá rừng sẽ giảm khi tỉ lệ số hộ tham gia vào du lịch tăng. Đồng thời kết quả phân tích PCA cũng cho thấy có mối tương quan thuận giữa tỉ lệ số người tham gia du lịch với sự phục hồi rừng. Kết quả từ 2 phương pháp giúp chúng ta khẳng định rằng du lịch là một nhân tố có tác động tích cực đến việc duy trì và bảo vệ tài nguyên rừng. Theo kết quả phỏng vấn các hộ gia đình tại điểm nghiên cứu chìa khóa, có tới 12% số người trong độ tuổi lao động tham gia vào hoạt động du lịch. Phần lớn trong số họ tham gia vào bán hàng rong, dệt thổ cẩm và làm hướng dẫn viên du lịch (chiếm 91,3% tổng số người hoạt động du lịch). Những hoạt động này chiếm khá nhiều thời gian: 210 ngày/năm đối với hoạt động bán hàng rong, 250 ngày/năm đối với dệt thổ cẩm và 205 ngày/năm đối với nghề hướng dẫn viên du lịch. Hơn nữa, những hoạt động du lịch như bán hàng rong và làm hướng dẫn viên du lịch đòi hỏi người dân phải làm việc cách xa nơi ở, chủ yếu tập trung tại thị trấn Sa Pa. Vì vậy họ hầu như không còn thời gian để vào rừng khai thác lâm sản. Hơn nữa, nguồn thu nhập từ rừng dần dần trở nên không còn quan trọng đối với người dân địa phương do họ đã có nguồn thu bổ sung từ du lịch cao hơn. Đây là cơ hội làm hạn chế sự khai thác rừng và giúp rừng phục hồi tốt hơn. Mặt khác, rừng được bảo vệ tốt hơn nhờ lệ phí thu được từ các điểm tham quan du lịch như núi Hàm Rồng hay đỉnh Phan Xi Păng hoặc thuế thu được từ hoạt động kinh doanh nhà hàng, khách sạn, dịch vụ du lịch, [8]. Năm 2010, một trung tâm du lịch sinh thái trực thuộc Ban quản lý Vườn quốc gia Hoàng Liên đã được thành lập. Lệ phí tham quan tại các điểm du lịch được trích 15% phục vụ cho công tác bảo tồn. Bên cạnh đó, các xã thường xuyên tổ chức “lễ ăn thề” bảo vệ rừng thiêng và tổ chức các chương trình vệ sinh làng bản khuyến khích cộng đồng địa phương cũng như khách du lịch tham gia. H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 12 4.3. Du lịch thúc đẩy thâm canh nông nghiệp Việc dân số tăng nhanh đã làm cho đất nông nghiệp trở thành vấn đề cấp bách, đất đai sẵn có để mở rộng ruộng bậc thang ngày càng ít ỏi [16]. Tuy nhiên ở Sa Pa từ đầu thập kỷ 90 đến nay, nhờ áp dụng hiện đại hóa nông nghiệp như trồng các giống lúa mới năng suất cao cũng như sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu mà mâu thuẫn này đã được giải quyết. Tuy nhiên, việc hiện đại hóa nông nghiệp chỉ được áp dụng phổ biến từ khi có nguồn thu nhập bổ sung từ du lịch. Kết quả phân tích PCA cho thấy có mối tương quan thuận giữa tỉ lệ thu nhập du lịch với chi phí đầu tư cho nông nghiệp. Khi các hộ gia đình kiếm được càng nhiều tiền từ hoạt động du lịch thì họ sẽ đầu tư nhiều cho sản xuất nông nghiệp như mua lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu giúp cho năng suất cao hơn. Ngày nay, người dân địa phương chỉ tập trung thâm canh trên những thửa ruộng bậc thang và bỏ hoang một phần nương rẫy năng suất thấp để phục hồi thành rừng. Trong tương lại tại những khu rừng tái sinh này, người dân sẽ trồng thảo quả, một loại cây cho thu nhập khá cao mà không mất nhiều công chăm bón, đầu tư. Có thể nói du lịch đã giúp giảm dần phương thức canh tác nương rẫy vốn được coi là hệ thống canh tác kém bền vững trên đất dốc mà Nhà nước đang hạn chế dần phương thức canh tác này [19]. Một lần nữa, chúng ta có thể khẳng định rằng sự phát triển của du lịch đã hỗ trợ cho hiện đại hóa nông nghiệp, giúp người dân địa phương giải quyết được phần nào sự thiếu hụt lượng thực và giúp cho việc sử dụng đất nông nghiệp bền vững, hiệu quả hơn. Kết luận Kết quả phân loại ảnh từ ảnh Landsat cho toàn huyện Sa Pa và từ ảnh máy bay và SPOT cho các điểm chìa khóa đều cho thấy hiện tượng phá rừng đã giảm trong thời kỳ 1993-2006. Cả hai phương pháp phân tích thống kê thực hiện trên 2 cơ sở dữ liệu không gian khác nhau: một từ nguồn ảnh Landsat với độ phân giải trung bình, một từ nguồn ảnh máy bay và ảnh SPOT với độ phân giải cao đều khẳng định du lịch là một trong những nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến biến động lớp phủ rừng và đất nông nghiệp. Phương pháp phân tích hồi qui logic đa bậc MLR cho thấy biến động lớp phủ mặt đất tại huyện Sa Pa trong giai đoạn 1993-2006 là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố địa lý tự nhiên, khả năng tiếp cận và nhân tố kinh tế-xã hội. Trong đó du lịch là nhân tố nổi trội làm giảm sự suy giảm rừng và làm tăng tỉ lệ bỏ hoang đất canh tác. Kết quả phân tích thành phần chính PCA dựa trên nguồn dữ liệu điều tra xã hội học tại các thôn bản chìa khóa cho thấy tỉ lệ phục hồi rừng có tương quan với những hoạt động du lịch chiếm nhiều thời gian của người dân địa phương như bán hàng rong và làm hướng dẫn viên du lịch. Trong khi thu nhập từ du lịch lại ảnh hưởng đến tỉ lệ bỏ hoang đất canh tác theo tỉ lệ thuận. Như vậy kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng định rằng du lịch là một nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến việc duy trì nguồn tài nguyên rừng tại huyện Sa Pa giai đoạn 1993- 2006. Bên cạnh đó, du lịch còn thúc đẩy hiện đại hóa nông nghiệp và giúp cho việc sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả hơn. Đó là bỏ hoang những khu vực nương rẫy cằn cỗi để phục hồi thành rừng và đầu tư nhiều hơn cho ruộng bậc thang để thu được năng suất lương thực cao hơn. Lời cảm ơn Bài báo được hoàn thành trong khuôn khổ đề tài Nghị định thư Việt – Bỉ: “Nghiên cứu tác H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 13 động của hoạt động kinh tế - xã hội tới biến động sử dụng đất và môi trường tự nhiên trong khung cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu (Nghiên cứu trường hợp tại Đồng bằng sông Hồng và vùng núi Tây Bắc Việt Nam)” và đề tài NAFOSTED“Nghiên cứu biến đổi môi trường khu vực Tây Bắc dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu bằng công nghệ viễn thám và GIS”, mã số 105.06-2012.20. Tài liệu tham khảo [1] Tugault-Lafleur C. Diversifying Livelihoods: Hmong use and Trade of Forest Products in Northern Vietnam. PhD Thesis. Montreal, Canada: McGill University, 2007. [2] Meyfroidt P. Forest Transition in Vietnam : Evidence, Theory and Social-Ecological Feedbacks. PhD thesis. Université Catholique de Louvain, Belgium, 2009. [3] Meyfroidt P and Lambin EF. Forest transition in Vietnam and its environmental impacts. Global Change Biology 14(6):1319–1336, 2008b. [4] Meyfroidt P, Lambin EF.. The causes of the reforestation in Vietnam. Land Use Policy 25(2):182-197, 2008a. [5] Niên giám thống kê huyện Sa Pa năm 2010 [6] Stubblefield, L., Rendel, P. & Preddy, H. (eds), A Survey of Ethnic Groups within Nui Hoang Lien Nature Reserve, Sa Pa District. Frontier Vietnam: pp 1, 1994. [7] Grindley, M. (ed.). Constraints and Opportunities for a Nature Trail and Visitor Centre within the Hoang Lien Mountains Nature Reserve, Sa Pa District A Fesibility Study. Frontier Vietnam, 1998 [8] Tordoff, A., Swan, S., Grindley, M. & Siurua, H. (eds), Hoang Lien Nature Reserve Conservation Evaluation 1997/98. Frontier Vietnam: pp viii, 86, 1999. [9] Turner S. Making a Living the Hmong Way: An Actor-Oriented Livelihoods Approach to Everyday Politics and Resistance in Upland Vietnam. Annals of the Association of American Geographers 102(2):403-422, 2011. [10] Nguyễn An Thịnh, Phân tích cấu trúc sinh thái cảnh quan phục vụ phát triển bền vững nông lâm nghiệp và du lịch huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Luận án tiến sĩ Địa lý, Hà Nội, 2007. [11] Richter, R. Atmospheric/Topographic Correction for Satellite Imagery—ATCOR-2/3 User Guide, Version 8.0. Switzerland: ReSe Applications Schla ¨pfer, 2011. [12] Vũ Kim Chi, Nguyễn Thị Thu Trang, Hoàng Thị Thu Hương, Áp dụng mô hình phân tích hồi quy logic đa bậc trong phân tích không gian về sự suy giảm tài nguyên rừng huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Hội nghị Địa lý toàn quốc năm 2012, 2012. [13] Vu Kim Chi. Land use change in the Suoi Muoi catchment. PhD thesis. KULeuven, Belgium, 2007. [14] Bryant and Yarnold (1995). Principal components analysis and exploratory and confirmatory factor analysis. In Grimm and Yarnold, Reading and understanding multivariate analysis. American Psychological Association Books. [15] Castella, J. C, Pham Hung Manh, Suan Pheng Kamb, Lorena Villanob, Nathalie Rachel Tronchea, Analysis of village accessibility and its impact on land use dynamics in a mountainous province of northern Vietnam. Applied Geography 25 (2005): pp 308–326, 2005. [16] Dương Bích Hạnh. Sự thay đổi các mối quan hệ lao động ở một bản H’mong tại Sa Pa, Tây Bắc Việt Nam. Trong “Thomas Sikor, Jenny Sowerwine, Jeff Romm, Nghiêm Phương Tuyến. Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam. Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và Môi Trường, Trang 85-97, 2008. [17] Cooper, Robert, Resource Scarcity and the H’mong Response: Patterns of Settlement and Economy in Transition. National University of Singapore Press, Singapore.4. David S.Moore, George P.McCabe, 2001. Introduction to the practice of statistics, third edition. pp 730, 1984. [18] Symonds, Patricia V., Calling in the Soul: Gender and the Cycle of Life in a H’mong Village University of Washington Press, Seatle and London, 2004. [19] Castella J.C, Nathalie Rachel Tronche, Vũ Nguyên, Biến động cảnh quan tại huyện Chợ Đồn trong thời kỳ đổi mới (1990-2000) và hệ quả của chúng tới việc quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong: (J.C. Castella và Đặng Đình Quang chủ biên) Đổi mới ở vùng miền núi. Chuyển đổi sử dụng đất và chiến lược sản xuất của nông dân tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, Việt Nam. 149-173), 2002. H.T.T. Hương và nnk. /Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 30, Số 2 (2014) 1-14 14 The Impact of Tourism Development on Land Cover Change in Mountainous Area: A Case Study in Sa Pa District, Lào Cai Province, Vietnam in Period 1993-2006 Hoàng Thị Thu Hương1,2,3, Vũ Kim Chi4, Anton Van Rompeay2, Veerle Vanacker3, Isaline Jadin3 1Faculty of Geography, VNU University of Science, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hanoi, Vietnam 2Division of Geography, Department of Earth and Environmental Sciences, K.U. Leuven 3Earth and Life Institute, Georges Lemaître Center for Earth and Climate Research, Université Catholique de Louvain 4 VNU Institute of Vietnamese Studies and Development Sciences, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract: Northern mountainous region of Vietnam has been known as tourism attraction area. Since 1990s, Vietnam has become increasingly more open to international tourism, and the domestic tourism market has also expanded. This research was carried out in Sa Pa District, a famous tourism area in Lào Cai province in order to test if tourism development is a driver of land cover change. The statistical analyses were applied at district and village level to find out the relationship between tourism development and land cover change. The results have confirmed that tourism positively relates to reforestation as well as agricultural abandonment and negatively to forest degradation in the study area. Interview also was applied to get an insight understanding of the mechanism by which tourism impacts on land cover changes. The development of tourism has created more jobs, increased incomes for local people, supported agricultural intensification that lead to land abandonment in the marginal area. Keywords: Tourism, land use/cover change, statistical analysis, livelihood, Sa Pa.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_phat_trien_du_lich_den_bien_dong_su_dung_dat_t.pdf