Bài giảng Cơ điện nông nghiệp - Đinh Vương Hùng
Tóm tắt Bài giảng Cơ điện nông nghiệp - Đinh Vương Hùng: ...Ống xả dùng để dẫn khí xả từ các xy lanh đến ống giảm thanh. Ống giảm thanh Không khí Xăn g 1 2 3 4 5 6 7 8 9 43 dùng để giảm tiếng kêu của khí đã làm việc khi xả ra ngoài. Bên trong ống giảm thanh thường có các tấm ngăn và có một ống nằm dọc theo chiều dài với nhiều lỗ nhỏ...g của truyền lực cuối cùng). Hai đĩa ép không liên quan đến trục phanh, nhưng ở giữa có các viên bi đặt trong các rãnh nông dần. Hình 3.8 Phanh đĩa a . Khi chưa phanh b . Khi đang phanh 1- Đĩa ma sát, 2- Đĩa ép, 3- Trục phanh 4- Viên bi, 5- Vỏ phanh, 6- Thành xe, máy Khi hãm phan...ợp an toàn Lưỡi phay là chi tiết làm việc nặng nề nhất, chịu tác dụng mài mòn mãnh liệt của đất khi cắt. Lưỡi phay có nhiều loại: Lưỡi dao thẳng, lưỡi dao cong, lưỡi dạng máng nhọn, lưỡi dạng xoắn. Do đó, lưỡi phay thường chế tạo bằng thép tốt và được tôi cạnh sắc. Hình dáng, kích thước lưỡ...
đến 60 - 70 0C. Sau đó nếu vẫn tiếp tục được chiếu sáng, mặt hấp thụ sẽ không nóng lên nữa, nhiệt độ cao nhất có thể đạt được gọi là nhiệt độ cân bằng. Sở dĩ nhiệt độ dừng lại ở nhiệt độ cân bằng là do khi nóng lên chính mặt hấp thụ lại trở thành vật bức xạ hồng ngoại đồng thời lại còn truyền nhiệt ra môi trường (nếu có nhiệt độ thấp hơn) theo cơ chế dẫn nhiệt và đối lưu. Như vậy ở nhiệt độ cân bằng năng lượng nhận vào đúng bằng năng lượng thải ra. Muốn tăng nhiệt độ cân bằng hoặc phải 1 2 3 4 5 6 137 tăng mật độ dòng năng lượng tới hoặc giảm hao tổn nhiệt năng bằng cách đặt lên mặt bôi đen một vài lớp che trong suốt thích hợp. Các lớp che trong suốt cho bức xạ mặt trời đi qua dễ dàng song lại cản bức xạ hồng ngoại phát ra từ vật do đó có tác dụng như là một bẫy nhiệt. Nhờ bố trí các nắp che trong suốt mà nhiệt độ cân bằng có thể lên tới 90 - 100 0C. Ngoài ra để tăng hiệu quả của mặt hấp thụ có thể uốn thành dạng gợn sóng hoặc sử dụng chất bôi đen đặc biệt gọi là chất hấp thụ chọn lọc. Các loại mặt hấp thụ này sẽ hấp thụ rất mạnh bức xạ có bước sóng thuộc giả i phổ ánh sáng mặt trời song lạ i bức xạ hồng ngoại ít hơn nhiều so với mặt hấp thụ bôi đen bằng vật liệu thông thường ở cùng nhiệt độ. Do đó cân bằng năng lượng nằm ở nhiệt độ khoảng 170 - 180 0C. Nhìn chung colector phẳng có nhiệt độ làm việc không cao nhưng rất dễ chế tạo và có giá thành rẻ, sử dụng dễ dàng, làm việc được cả trong điều kiện bức xạ trực tiếp hay khuếch tán. *. Bộ góp nhiệt zic-zắc Để khắc phục nhược điểm của colector phẳng người ta đã thiết kế loại colector zic zắc gồm các lá kim loại bôi đen ghép lại với nhau. Nhờ vậy colector zic zắc có thể bẫy hầu hết các tia nắng kể cả lúc sáng sớm và khi chiều muộn, do đó nó có thể cấp nhiệt lâu hơn theo thời gian trong ngày. Cấu trúc của colector zic zắc làm giảm mạnh dòng nhiệt đối lưu làm giảm hao tổn nhiệt và tạo điều kiện truyền nhiệt lớn nhất cho chất mang nhiệt. *. Các bộ góp nhiệt hội tụ Khi mặt nhận là mặt phản xạ (không phải là mặt hấp thụ) tập trung bức xạ về một điểm (vùng hẹp) hoặc một dải thì đó là một colector hội tụ. Muốn sử dụng năng lượng bức xạ cần đặt một vật hấp thụ tại vùng tập trung ánh sáng. Người ta thường gọi mặt nhận là bộ phản xạ hay bộ hội tụ, còn vật hấp thụ là bộ nhận, lúc đó colector hội tụ được hiểu là tổ hợp của bộ nhận và bộ hội tụ. Bộ hội tụ đảm nhận việc tập trung dòng năng lượng còn bộ nhận chuyển đổi dòng năng lượng thành dạng năng lượng thích hợp. Colector với bộ hội tụ dạng mặt tròn xoay có độ hội tụ cao, có nghĩa là có tỉ số giữa diện tích qui phẳng của mặt hội tụ với diện tích hấp thụ của mặt nhận cao. Do đó cho phép nhiệt độ có thể tăng tới hàng ngàn độ, song như đã phân tích loại này khó chế tạo và sử dụng. Colector trụ có mặt phản xạ là mặt trụ có độ hội tụ trung bình, tập trung bức xạ thành một dải sáng với nhiệt độ khoảng 350 - 500 0C. Colector trụ có rất nhiều ưu điểm: dễ chế tạo và qui mô lớn. Nếu colector đủ dài có thể đặt theo một hướng xác định, không đòi hỏi điều chỉnh thường xuyên, phần mất mát năng lượng không đáng kể. Hiện nay có nhiều phương án sử dụng năng lượng mặt trời trên qui mô lớn đã đề 138 cập đến colector hội tụ. Đặc biệt để đun nước, colector hội tụ dùng rất thích hợp và cho hiệu suất cao (60 - 70%), vì có thể sử dụng dễ dàng hiệu ứng lồng kính với bộ nhận. Theo số liệu thực nghiệm cho thấy với một colector trụ có diện tích hứng nắng qui phẳng 1m2 vào ngày nắng trung bình có thể đun sôi 3 lít nước trong thời gian 20 - 30 phút. Thiết bị có thể hoạt động từ 8 giờ sáng đến 16 giờ chiều và đạt năng suất 50 - 60 lít/ngày. 6.1.2.3. Ứng dụng năng lượng mặt trời để sấy nông sản *. Đặc tính của các collector không khí Để sử dụng năng lượng mặt trời trong lĩnh vực sấy khô sản phẩm, năng lượng mặt trời thường được chuyển đổi thành dòng nhiệt năng của chất mang nhiệt là không khí. Không khí mang nhiệt được đưa đến các bộ phận sấy (trực tiếp hoặc gián tiếp) để làm khô sản phẩm. Đảm nhận việc trao nhiệt là các collector không khí. Các collector không khí được thiết kế khác nhau sẽ cho hiệu suất khác nhau. Hiệu suất của collector không khí phụ thuộc vào vật liệu, khả năng hấp thụ, độ cách nhiệt và do đó sẽ phụ thuộc giá trị hệ số dẫn nhiệt của vật liệu cách nhiệt k, nếu k < 5 w/m2 sẽ cho hiệu suất cao với khoảng nhiệt độ rộng. Với nhiệt độ thấp của dòng không khí, các collector đơn giản rất phù hợp với việc sấy hạt nông sản. Các kiểu máy sấy loại này có hiệu suất cao ứng với độ chênh lệch nhiệt độ và độ ẩm môi trường nhỏ. Các collector có lớp kính kép, vỏ được che phủ, thậm chí có cách nhiệt chân không cũng không thể hoạt động tốt hơn trong dãy nhiệt độ thấp do việc mất mát nhiệt. Tuy nhiên, chúng lại làm việc có hiệu quả hơn trong khoảng nhiệt độ cao. Do đó các loại collector phức tạp, đắt tiền rất phù hợp cho việc làm nóng ngoài công việc sấy hạt. Đối với việc sấy hạt nông sản, theo các kết quả nghiên cứu có thể chấp nhận được hao tổn áp suất dòng khí qua collector ở khoảng 30- 40mm cột nước. *. Sấy bằng năng lượng mặt trời Ứng dụng năng lượng mặt trời để sấy khô đã được sử dụng từ lâu đời. Sản phẩm thường được rải thành lớp mỏng phơi dưới nắng mặt trời. Ban ngày sản phẩm được đảo trộn định kỳ, ban đêm được che phủ nhằm đạt được độ khô đồng đều và rút ngắn thời gian sấy. Phương pháp này thường kéo dài từ 2 đến 8 ngày. Sản phẩm sau khi sấy thường bị nhiễm bẩn và bị vi khuẩn, nấm, mốc xâm nhập. Việc sấy bằng năng lượng mặt trời trong hộp được che đậy sẽ cải thiện được hiệu suất sấy và chất lượng sản phẩm cũng như tiết kiệm lao động. Bộ phận sấy bằng năng lượng mặt trời đơn giản là một hộp được che bằng tấm nắp trong suốt, tuy nhiên trong nhiều trường hợp bộ phận sấy kiểu này không tạo đủ cường độ sấy. 139 Nước ngọt ra Nước biển vào Mực nước Khay chứa Lớp cách nhiệt Kính Sấy khô nhờ năng lượng mặt trời với dòng không khí đối lưu tự nhiên. Trong hệ thống sấy kiểu hút, vật liệu sấy được sử dụng như một collector. Không khí nằm giữa những lỗ hổng của sản phẩm của lớp trên cùng được làm nóng lên. Một phần năng lượng của không khí đi qua sản phẩm làm bốc hơi nước. Do nhiệt độ ở cửa ra của không khí mặc dù đã giảm song vẫn còn cao hơn nhiệt độ môi trường nên được hút qua ống thải. 6.1.2.4. Sử dụng năng lượng mặt trời để chưng lọc nước mặn Người ta ước lượng mức sử dụng nước ngọt cho sinh hoạt ở nông thôn các vùng nhiệt đới là 20- 50 lít/ ngày/ người. Việc chưng lọc nước (ngọt và mặn) có thể góp phần vào việc cung cấp nước sạch sinh hoạt cho các vùng khó khăn. Hình 6.6 Sơ đồ nguyên lý thiết bị lọc nước bằ g năng lượng mặt trời kiểu 2 mái Phương pháp phổ biến cho các thiết bị lọc nước là sự bay hơi, thẩm thấu ngược chiều. Thiết bị lọc nước mặn đã được biết đến khoảng trên 100 năm nay với rất nhiều kết quả lý thuyết và thực hành. Việc lọc nước mặn bằng năng lượng mặt trời dựa trên nguyên lý bay hơi và ngưng đọng chất lỏng, (hình 6.6). Nhiệt lượng chuyển pha nước trong cả hai trường hợp là như nhau và bằng 2430 kJ/kg. Năng lượng bức xạ mặt trời đưa đến một phần được hấp thụ bởi thảm, phần hao tổn do đối lưu, phần phản xạ và một phần hao tổn dẫn nhiệt. Thất thoát nhiệt chủ yếu là bức xạ nhiệt từ mặt nước tới nắp bể lọc và bức xạ phản xạ từ đáy nước tới nắp hầm. Mất nhiệt do dẫn nhiệt và đối lưu nhiệt tới môi trường xung quanh. Hiệu suất của bể lọc nước mặn bằng năng lượng mặt trời khoảng 30%. 140 Hình 6.7 Sơ đồ nguyên lý thiết bị lọc nước kiểu bấc thấm Kiểu bể lọc một hố phẳng là một kiểu thiết kế phổ biến. Nước được làm nóng bằng các tia mặt trời chiếu vào, bốc hơi và ngưng tụ lại dưới mái che trong suốt. Nước ngưng chảy theo mái, rơi xuống rảnh gom và được bơm lên bể chứa. Độ sâu của nước ở trong hố là 3- 5cm. Với kiểu thiết bị này lượng nước được lọc tính cho 1m2 hấp thụ nhiệt là 3 lít/ngày... Thiết bị bốc hơi bằng năng lượng mặt trời kiểu bấc thấm hấp thụ năng lượng mặt trời tốt hơn, hoạt động ở nhiệt độ cao hơn và có tốc độ lọc nước cao hơn 5 lit/ngày. m2 . 6.2. NĂNG LƯỢNG TỪ VẬT LIỆU SINH HỌC - BIOM ASS 6.2.1 Khái niệ m về Biomass Việc sử dụng năng lượng từ Biomass như gỗ, củi khô, cây cỏ, rơm rạ, phân khô... đã biết đến từ lâu. Tuy nhiên Biomass đã bị quên lãng do sự lấn át của các loại thiết bị chuyển đổi năng lượng cả về phương diện kỹ thuật, công nghệ lẫn tính kinh tế. Theo lý thuyết, năng lượng hữu ích được lấy ra từ khối lượng Biomass trên trái đất gấp khoảng 6 lần nhu cầu năng lượng hiện nay trên thế giới. Tuy nhiên để có thể thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng năng lượng từ Biomass là một vấn đề lớn và lâu dài. Hiện Năng lượng mặt trời Tấm phủ Máng chứa Cách nhiệt Bậc thấm Tấm hấp thụ nhiệt Ống phân phối nước Nước vào Nước ngọt Nước thải 141 nay sản xuất năng lượng từ những chất thải hữu cơ chỉ có ý nghĩa bổ sung vào nguồn năng lượng chính (dầu mỏ, khí đốt và than đá) và có ý nghĩa lớn hơn về môi trường. Nói chung Biomass có thể chế biến thành các dạng nhiên liệu rắn, nhiên liệu lỏng và nhiên liệu khí, không kể đến việc sử dụng dạng trực tiếp làm củi đun, nhóm lò... Vật liệu phế thải từ công nghiệp chế biến gỗ, các xenlulô phế thải từ nông - lâm nghiệp có thể dùng để chế biến thành nhiên liệu rắn hoặc khí. Các cây có dầu như cọ dầu, lạc, đậu tương,... cây chứa đường hoặc tinh bột có thể làm nguyên liệu để sản xuất nhiên liệu lỏng và dầu bôi trơn. Các chất thải hữu cơ của cây công nghiệp, thực phẩm hoặc cây xanh nhờ phân hủy yếm khí từng phần thành khí sinh vật - Biogas. Biogas có thể dùng để đun nấu hoặc sử dụng cho động cơ nhiên liệu khí sau khi đã tách lưu huỳnh. Nhờ chuyển đổi nhiệt nghèo ôxy, từ nhiên liệu rắn có thể sản xuất ra một hỗn hợp khí đốt có nhiệt trị tương đối thấp gọi là khí yếu. Nếu sử dụng ôxy trong không khí dẫn vào lò hóa khí thì tạo ra được một loại hỗn hợp khí có thành phần theo thể tích như sau: 10 - 15%H2 ; 20 - 30%CO; 2 - 15%CO2; 0 - 4%CH4 ; 40 - 60%N2 Nếu sử dụng không khí giàu ôxy hoặc ôxy tinh khiết để hóa khí nhiên liệu rắn thì có thể giảm hoặc loại bỏ thành phần Nitơ, thành phần "loãng" khí đốt sản xuất ra. 6.2.2. Sản xuất năng lượng từ Biogas 6.2.3.1 Khái niệm chung về Biogas Biogas là sản phẩm của quá trình lên men phân động vật và các loại phế thải hữu cơ khác. Thành phần chủ yếu của Biogas gồm khoảng 55-70% Metan, 45-30% CO2 và một phần nhỏ chất lưu huỳnh. Quá trình lên men vật liệu hữu cơ để tạo thành Biogas bao gồm ba gia i đoạn sau: - Giai đoạn thứ nhất: Dưới tác dụng của các enzym thủy phân, các chất hữu cơ phân tử lớn được phân giải thành các chất hữu cơ phân tử nhỏ (axit béo, axit amin). - Giai đoạn thứ hai: Dưới tác dụng của các vi khuẩn tạo axit, các chất hữu cơ phân tử nhỏ được phân giải thành các axit béo dễ bay hơi. - Giai đoạn thứ ba: Các axit béo dễ bay hơi được chuyển hóa thành khí Metan (CH4) và khí Cacboníc (CO2) nhờ các vi khuẩn sinh metan (Metanogen). Trong đó gia i đoạn thứ hai và giai đoạn thứ ba xảy ra dưới điều kiện yếm khí chặt chẽ (kín hoàn toàn), người ta chia quá trình lên men sinh metan thành hai pha như sau: 142 - Pha không kỵ khí (giai đoạn 1), các nguyên liệu để tạo Biogas được ủ ở bể hở. - Pha kỵ khí (gia i đoạn thứ hai và thứ ba), quá trình sinh metan xảy ra trong không gian kín hoàn toàn. Do vậy, để tạo thành Biogas người ta thiết kế hầm ủ cho cả hai pha của quá trình lên men (hai pha hỗn hợp hoặc có vách ngăn hai pha) hoặc ủ nguyên liệu ở bể hở khoảng một tuần cho pha không kỵ khí rồi mới chuyển sang hầm kín, như vậy sẽ giảm được thể tích của bể ủ kín. Sự tạo thành Biogas do hai nhóm vi khuẩn metanogen khác nhau đảm nhận, hoặc xảy ra ở 30-35 0C (mesophil) hoặc xảy ra ở 55-60 0C (thermophil). Trong cả hai trường hợp cần thiết phải làm nóng nguyên liệu. Bên cạnh yêu cầu bảo đảm thời gian phân hủy đủ dài để khai thác hết Biogas (không ít hơn 20 ngày) và giữ đúng độ pH ở khoảng trung tính còn yêu cầu nguyên liệu phải được giàn đều trong hầm phản ứng. Việc giàn đều nguyên liệu nhằm giữ đúng sự đối xứng sinh học giữa các vi khuẩn acetogen và metanogen cần thiết cho quá trình tạo thành Biogas. 6.2.3.2 Nguyên liệu để sản xuất Biogas Nguyên liệu để sản xuất Biogas có thể là phân động vật, cây cỏ, rơm rác, rau, củ, quả bỏ đi, phế thải hữu cơ ở các đơn vị sản xuất thực phẩm, các bếp ăn... Đối với sự phân hủy về mặt nguyên lý thì các vật liệu chứa nhiều nước sẽ phù hợp nhất. Nhiệt trị của Biogas khi đốt cháy giảm đi khi hàm lượng nước tăng. Việc thủy phân yếm khí xảy ra tốt nhất khi tỷ lệ C/N trong vật liệu nằm ở khoảng 30, vi khuẩn trong quá trình lên men sử dụng C nhanh hơn N đến 30 lần. Việc tận thu Biogas còn phụ thuộc mạnh vào loại vật liệu đưa vào phản ứng. Một số chất có thể không thủy phân được như trấu..., độ chứa N và C có thể thay đổi theo tuổi và điều kiện phát triển của thực vật hoặc mức độ ăn uống, tuổi, chế độ nuôi nhốt của súc vật. Khả năng khai thác Biogas còn chịu tác động của thời gian ủ. Nói chung thời gian ủ tăng sẽ làm tăng khả năng khai thác Biogas. 6.2.3.3 Các bộ phận chính của hệ thống sản xuất Biogas - Bể nạp liệu: là nơi thu nhận nguyên liệu và pha trộn thành dung dịch lỏng tỷ lệ 50% với nước. Mức dung dịch tại bể nạp liệu là cao nhất rồi đến mức dung dịch của bể tạo áp và mức thấp nhất là trong hầm phân hủy. - Hầm phân hủy (hầm phản ứng Biogas), ở đó xảy ra quá trình tạo khí. Hầm phân hủy là một thiết bị lưu giữ nạp liệu hàng ngày hoặc là thiết bị lưu chuyển với nạp liệu định kỳ đảm bảo sinh khí liên tục, cũng có thể hoạt động theo mẻ. Hầm phân hủy cần hoàn toàn kín và có năng suất tạo khí biogas phụ thuộc dung tích của hầm. Phần 143 9 4 3 3 trên của hầm chứa khí, phần dưới chứa dung dịch phân hủy. Khi quá trình sản xuất khí đã hoàn thành chất liệu đã phân hủy được lấy ra qua cửa thông với bể tạo áp. - Bể tạo áp: có mức dung dịch cao hơn hầm phân hủy nhằm tạo ra áp suất khí Biogas trong hầm phân hủy trong khoảng 1,2-1,4 kG/cm2, thông qua cửa nối phía dưới dung dịch. Bể tạo áp cũng là nơi lấy chất thải ra sau phân hủy (chủ yếu là nước và các chất vô cơ còn lại). - Van và đường ống dẫn khí gas đến nơi tiêu thụ (bếp đun gas, chạy động cơ khí gas, thắp sáng bằng đèn khí...) 6.2.3.4 Một số mẫu hầm biogas phổ biến Hầu hết các loại hệ thống Biogas có bể nạp liệu và bể tạo áp có cấu tạo, nguyên lý làm việc cơ bản giống nhau, chỉ khác về kết cấu của bể phân hủy. - Loại hầm nắp nổi: Loại này có phần chứa khí dạng vòm kín ở phía trên bể phân hủy, khi làm việc phần nắp vòm có xu hướng nổi trên dung dịch. Nắp hầm thường dùng vật liệu nhẹ như composít hoặc tôn, chất dẻo. Áp suất trong hầm phụ thuộc diện tích mặt thoáng của dung dịch và khối lượng của nắp. - Loại túi khí: Phần chứa khí dạng bao kín đặt rời với bể phân hủy gọi là túi khí. Túi khí thường dùng là các loại bao chất dẻo hoặc thùng kim loại, composit. Loại này thường dùng ở các vùng thấp lụt. Tuy nhiên túi khí mau hư hỏng do ngoại cảnh. - Loại nắp cố định: Hầm và nắp hầm được xây dựng liền bằng bê tông, gạch, vữa trát kín phần chứa khí. Trên vòm có ống nối kín dẫn khí gas ra ngoài. Hình 6.8 Sơ đồ hệ thống biogas nắp cố định kiểu vòm cầu Hầm phân hủy nắp cố định có nhiều loại, song phổ biến hơn cả là loại vòm cầu và vòm trụ do có nhiều ưu điểm như : tự phá váng, bền vững và dễ xây dựng. 144 Lượng nạp liệu hàng ngày phụ thuộc dung lượng cũng như khả năng phân hủy của hầm. Hầm cần xây chìm trong đất để ổn định nhiệt độ trong hầm và dễ nạp liệu (chất thải từ nền chuồng trại chảy vào thuận lợi). Người sử dụng cần tuân thủ quy trình công nghệ chặt chẽ để bảo đảm sự ổn định của hệ thống biogas. Với dung tích hầm khoảng 6-8 m3 là đủ lượng khí đốt cho một nông hộ trong đun nấu hàng ngày (sử dụng chất thải của 3-6 người và 5-10 đầu gia súc). ơ6.3. CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG KHÁC Ngoài các nguồn năng lượng truyền thống từ khoáng vật được con người khai thác và sử dụng với số lượng lớn (than đá, dầu mỏ..), gần đây do thiếu hụt năng lượng nên nhiều quốc gia quan tâm nhiều đến các nguồn năng lượng mới có tiềm năng lớn chưa được khai thác. Trong các nguồn năng lượng mới, ngoài năng lượng mặt trời, năng lượng từ Biomass, còn có các nguồn năng lượng khác, đó là năng lượng dòng chảy của các sông suối, năng lượng gió, năng lượng sóng biển và thủy triều, năng lượng địa nhiệt. 6.3.1 Năng lượng dòng chảy của các sông suối: Động năng của dòng chảy các con sông đã trở thành nguồn năng lượng thủy điện chiếm đến 40% công suất phát điện trên thế giới. Đây là nguồn năng lượng sạch và có giá thành rẻ so với nhiệt điện. Những nhà máy thủy điện hiện nay đang đứng đầu về công suất phát điện, từ vài trăm Oát đến vài triệu kW. 6.3.2 Năng lượng gió: Do sự thay đổi khí hậu theo mùa của các vùng lục địa và biển tạo thành gió. Nhiều quốc gia đã sử dụng sức gió để phát điện như Hà Lan, Mỹ, Úc. Người ta sử dụng các tuốc bin cánh quạt để phát điện ở những vùng có gió mùa đi qua ổn định. Hiện nay đã có những tuốc bin phát điện công suất lên đến hàng nghìn kW. 6.3.3 Năng lượng sóng biển và thủy triều: Các quốc gia phát triển (Anh, Mỹ, Nhật, Pháp) đang triển khai nhiều mô hình thiết bị sử dụng sóng biển để phát điện. Các nguyên lý đã được thử nghiệm như: “tường chắn sóng”, “rồng biển”, “con lắc sóng”, “cá mập” đã làm tiền đề cho nhiều dự án lớn về xây dựng các nhà máy phát điện bằng sóng biển. Gần đây, Mỹ và Anh là hai quốc gia đi đầu trong nghiên cứu ứng dụng dòng chảy của các dòng hải lưu và thủy triều để phát điện. 6.3.4 Năng lượng địa nhiệt Sự chênh lệch nhiệt độ từ mặt đất với độ sâu vài km trong lòng đất lên đến hàng trăm độ C. Vấn đề sử dụng nguồn nhiệt này cũng đang được nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới đặt ra và trong tương lai gần sẽ có những trạm thu nhiệt theo nguyên lý tuần hoàn nước được sử dụng ở các vùng phù hợp. Năng lượng mới là nguồn năng lượng sạch, không gây ô nhiễm môi trường và có trữ lượng vô cùng lớn do tính tái tạo của nó. Hiện nay, một số công nghệ sử dụng 145 năng lượng mới đòi hỏi chi phí cao nhưng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thì năng lượng mới sẽ nhanh chóng được hoàn thiện và giá thành sẽ giảm dần. Ngoài ra, do sự cạn kiệt của năng lượng hoá thạch nên cơ hội cạnh tranh của năng lượng mới là một hiện thực. Cùng với nhiều chính sách mới của Nhà nước, hy vọng trong thời gian tới, Việt Nam sẽ là một trong những nước phát triển mạnh các nguồn năng lượng mới. Đây cũng là sự lựa chọn đúng đắn cho tương lai. Lời nói đầu Bài giảng Cơ điện Nông nghiệp được biên soạn theo đề cương chi tiết thuộc khung chương trình của Dự án NUFFIC tại khoa Nông học, trường Đại học Nông Lâm Huế. Bài giảng Cơ điện Nông nghiệp nhằm trang bị cho sinh viên ngành Khoa học cây trồng, Khoa học nghề vườn và sinh vật cảnh, (bao gồm hệ dài hạn tập trung, hệ vừa học vừa làm và một số hệ khác) của Trường Đại học Nông Lâm Huế, những kiến thức về cơ điện nông nghiệp, giúp cho họ nắm vững vai trò, tầm quan trọng của cơ điện trong sản xuất nông nghiệp, thấy rõ tính ưu việt của việc cơ khí hóa, điện khí hóa các qúa trình sản xuất. Trên cơ sở đó nâng cao trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các loại máy móc, thiết bị dùng trong nông nghiệp. Ngoài ra, nó còn là tài liệu tham khảo đối với các cán bộ khoa học kỹ thuật quan tâm đến lĩnh vực này. Trong bài giảng này, có sử dụng nguồn tư liệu chính từ Giáo trình Cơ điện nông nghiệp(2006) do PGS -TS Phan Hòa (chủ biên) và TS Đinh Vương Hùng biên soạn. Chúng tôi trân trọng cám ơn các bạn đồng nghiệp đã đóng góp những ý kiến quý báu trong quá trình biên soạn bài giảng này. Chắc chắn tập "Bài giảng Cơ điện nông nghiệp" còn có những khiếm khuyết nhất định. Chúng tôi hy vọng nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc để cập nhật và điều chỉnh được hoàn thiện hơn. TS Đinh Vương Hùng
File đính kèm:
- bai_giang_co_dien_nong_nghiep_dinh_vuong_hung.pdf