Bài giảng môn Tài chính quốc tế - Nguyễn Thị Thúy Việt

Tóm tắt Bài giảng môn Tài chính quốc tế - Nguyễn Thị Thúy Việt: ...ài trực tiếp có thể bị đẩy ra khỏi thị trường.Trường hợp 2: “Châu Âu pháo đài” - trả đũa.Nếu các quốc gia không phải Châu Âu trả đũa đối với khẩu hướng “Châu Âu pháo đài”, lúc đó thay đổi trong xuất khẩu thuần của các quốc gia Châu Âu khó dự đón hơn. Trong khi nhập khẩu từ các quốc gia không phải ...suất của mỗi tỷ suất sinh lợi có hiệu lực có thể xảy ra nếu công ty Mỹ đầu tư vào krona Thụy Điển. Lưu ý rằng lãi suất ở Mỹ là 11% đã được biết chắc chắn. Qua hình này ta có thể thấy có 30% xác suất lãi suất ở Mỹ cao hơn tỷ suất sinh lợi có hiệu lực từ việc đầu tư vào krona Thụy Điển và 70% xác su...e sẽ ảnh hưởng ngược đối với khối lượng hàng hóa xuất khẩu của công ty mẹ11. Thu được lợi ích về mặt chính trịXuất khẩu sang thị trường mà chính phủ không kiểm soát giá cả sản phẩmThiết lập các công ty con ở những thị trường nơi chính phủ không kiểm soát giá cả sản phẩmTừ những phân tích trên, sự đa...

ppt629 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài giảng môn Tài chính quốc tế - Nguyễn Thị Thúy Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên sử dụng một suất chiết khấu trong việc lập ngân sách vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn đã được điều chỉnh theo rủi ro của dự án đề nghị. 	Có nhiều yếu tố khác nhau liên hệ đến một công ty đa quốc gia có thể ảnh hưởng đến chi phí sử dụng vốn của công ty này, bao gồm: Quy mô của doanh nghiệp:Các công ty đa quốc gia thường vay những khoản tiền lớn có thể được các chủ nợ dành cho những ưu đãi, do đó có thể giảm được chi phí sử dụng vốn. 	Thêm vào đó, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu tương đối lớn của họ cho phép họ giảm thiểu các chi phí phát hành trong công chúng. 	Tuy nhiên, đây là do quy mô của các công ty này, chứ không phải việc kinh doanh của họ được quốc tế hóa. 	Tức là, một doanh nghiệp trong nước cũng có thể được dành cho những ưu đãi này nếu quy mô doanh nghiệp này đủ lớn. 	Tuy nhiên, tăng trưởng của một doanh nghiệp sẽ bị hạn chế hơn nếu doanh nghiệp này không sẵn sàng hoạt động ở tầm mức quốc tế. 	Do các công ty đa quốc gia có thể đạt được tăng trưởng một cách dễ dàng hơn, các công ty này có nhiều khả năng đạt một quy mô cần thiết để nhận các ưu đãi từ các chủ nợ hơn là các doanh nghiệp trong nước. Tiếp cận các thị trường vốn quốc tế:Các công ty đa quốc gia thường có thể nhận được vốn qua các thị trường vốn quốc tế. 	Nếu vốn hoàn toàn lưu thông giữa các nước, có thể sẽ không có lợi thế về tiếp cận này. 	Nhưng vốn thì không thể hoàn toàn lưu thông theo nghĩa toàn cầu, do đó chi phí sử dụng vốn có thể khác nhau giữa các thị trường. 	Vì lý do này, việc các công ty đa quốc gia tiếp cận được các thị trường vốn quốc tế có thể cho phép họ thu hút được vốn với một chi phí thấp hơn các doanh nghiệp trong nước khác. 	Ngoài ra, các công ty con có thể nhận được vốn từ địa phương với một chi phí thấp hơn công ty mẹ nếu lãi suất hiện hành ở nước chủ nhà tương đối thấp. 	Một hình thức tài trợ như vậy có thể hạ thấp chi phí sử dụng vốn, và sẽ không nhất thiết gia tăng rủi ro tỷ giá hối đoái của công ty đa quốc gia, vì các thu nhập do công ty con phát sinh hầu như sẽ tính bằng cùng một loại tiền. 	Trong trường hợp này, công ty con không dựa vào tài trợ của công ty mẹ, mặc dù hầu như luôn luôn nhận được sự hỗ trợ tập trung về mặt quản lý từ công ty mẹ.Đa dạng hóa quốc tế:Chi phí sử dụng vốn của một doanh nghiệp chịu tác động của xác suất về phá sản của doanh nghiệp này. 	Nếu các luồng tiền thu vào của doanh nghiệp đến từ các nguồn ở khắp nơi trên thế giới, các luồng tiền thu vào này sẽ ổn định hơn. 	Lập luận này căn cứ trên tiền đề là tổng doanh thu sẽ không chịu tác động mạnh của một nền kinh tế riêng biệt nào đó. 	Do các nền kinh tế riêng lẻ độc lập với nhau, các lưu lượng tiền tệ ròng từ một danh mục các công ty con sẽ cho thấy ít biến động hơn, do đó làm giảm xác suất phá sản và nhờ vậy, giảm thiểu được chi phí sử dụng vốn. 	Đương nhiên lập luận này loại trừ ảnh hưởng do cuộc khủng hoảng tài chính tác động đến hàng loạt các nước Châu Á trong năm 1997.Ưu đãi thuế khóa:Thu nhập ròng của một công ty đa quốc gia có thể chịu ảnh hưởng rất lớn của luật lệ về thuế của các địa phương mà công ty hoạt động. 	Thực ra, công ty có thể lựa chọn các địa phương có các luật lệ về thuế thuận lợi. 	Công ty cũng có thể tận dụng các lợi thế về thuế không dành cho một doanh nghiệp thuần túy nội địa, nhờ đó giảm thiểu chi phí sử dụng vốn, vì các chủ nợ và các cổ đông quan tâm nhiều nhất đến lưu lượng tiền tệ sau thuế.Rủi ro tỷ giá hối đoái:Lưu lượng tiền tệ của một công ty đa quốc gia có thể dễ biến động hơn của một doanh nghiệp nội địa ở cùng một ngành nếy lưu lượng này chịu tác động cao của rủi ro tỷ giá hối đoái. 	Như đã trình bày trước đây, nếu thu nhập ở nước ngoài của các công ty con được chuyển về cho một công ty đa quốc gia mẹ đặt tại Mỹ, thu nhập này sẽ không có giá trị như cũ khi đồng đô la Mỹ tăng tăng so với đồng tiền chính. 	Như vậy, khả năng thanh toán lãi vay cho nợ tồn đọng bị giảm bớt, và xác suất phá sản cũng cao hơn. 	Điều này có thể buộc các chủ nợ và và cổ đông đòi hỏi một tỷ suất lợi nhuận cao hơn, do đó làm tăng chi phí sử dụng vốn của công ty đa quốc gia.Các lưu lượng tiền tệ của một doanh nghiệp nôi địa sẽ không chịu tác động trực tiếp của các dao động tiền tệ. 	Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn có thể chịu ảnh hưởng gián tiếp, vì cạnh tranh từ các doanh nhgiệp nước ngoài có thể tăng hoặc giảm tùy theo các dao động này. 	Cần nhấn mạnh rằng các dao động tỷ giá hối đoái sẽ không luôn luôn tác động bất lợi đến lưu lượng tiền tệ.	Chúng ta có thể minh họa điều này bằng việc đổi lại thí dụ trên đây bằng một đồng đô la giảm giá.	Trong trường hợp này thu nhập từ nước ngoài chuyển về sẽ chuyển đổi thành một số tiền đô la lớn hơn và vì vậy, cải thiện lưu lượng tiền tệ của công ty mẹ. 	Nhìn chung người ta nghĩ rằng một doanh nghiệp dễ bị tác động của dao động tỷ giá hối đoái hơn nên phân phối các lưu lượng tiền tệ có thể có rộng hơn(hay phân tán hơn) qua các thời kỳ trong tương lai.	Bởi vì, chi phí sử dụng vốn sẽ phản ánh xác suất phá sản, và vì xác suất này sẽ cao hơn nấu các dự kiến về lưu lượng tiền tệ ít chắc chắn hơn cho nên việc dễ bị tác động bởi các dao động tỷ giá hối đoái có thể đưa đến một chi phí sử dụng vốn cao hơn.Rủi ro quốc gia.Một công ty đa quốc gia lập các công ty con ở nước ngoài sẽ phải chịu một khả năng là chính phủ nước chủ nhà có thể tịch biên tài sản của công ty con của mình.	Xác suất của một biến cố như vậy chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm cả thái độ của chính phủ nước chủ nhà và của ngành công nghịệp có liên quan.	Nếu các tài sản bị tich biên không được đền bù thỏa đáng, xác suất phá sản của công ty đa quốc gia tăng.	Phần trăm của tài sản của một công ty đa quốc gia đầu tư vào nước ngoài cao, và rủi ra quốc gia chung của hoạt động ở các nước này càng ca, thì xác suất phá sản (và chi phí sử dụng vốn ) của công ty đa quốc gia càng cao, nếu các yếu tố khác bằng nhau. 	Có các hình thức rủi ro quốc gia khác không nghiêm trọng bằng việc chiếm hữu của chính phủ nước chủ nhà có thể tác động đến các lưu lượng tiền tệ của công ty con của một công ty đa quốc gia.	Những loại rủi ro ít nghiêm trọng này (chẳng hạn như việc chính phủ nước chủ nhà sửa đổi luật thuế,) 	Không nhất thiết phải được bao gồm trong các dự kiến lưu lượng tiền tệ, vì có khả năng là các sự kiện này có thể xảy ra, quá trình lập danh sách vốn nên tính đến rủi ro này. 	Nếu công ty không phát hiện một thay đổi triệt để trong chính phủ hay trong chính sách thuế, công ty sẽ cộng thêm một phần bù vào tỷ suất lợi yêu cầu của các dự án có liên quan. Các nhà hoạch định tài chính và các nhà phân tích chính trị sẽ ấn định múc bù này.Trên đây, chúng ta đã đánh giá sáu yếu tố có thể phân biệt giữa chi phí sử dụng vốn của một công ty đa quốc gia với chi phí sử dụng vốn của một doanh nhgiệp nội địa trong một ngành nào đó.	Nói chung, bốn yếu tố đầu (quy mô, tiếp cận các thị trường vốn quốc tế, đa dạng hóa quốc tế và ưu đãi thuế khóa ) có lợi cho chi phí sử dụng vốn của một công ty đa quốc gia, trong khi rủi ro tỷ giá hối đoái và rủi ro quốc gia lai bất lợi. 	Tác động của từng yếu tố có thể thay đổi theo các đặc tính riêng của từng doanh nghiệp. 	Như vậy, không thể nói chắc rằng các mặt thuận lợi sẽ vượt trội các mặt không thuận lợi hay ngược lại.5.2.2.2 CÁC ĐẶC ĐIỂM QUỐC GIA ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI PHÍ SỬ DỤNG VỐNVấn đề then chốt trong thẩm định chi phí sử dụng vốn của một công ty đa quốc gia là sự phân cách của thị trường tài chính.	Nếu các thị trường tài chính hoàn toàn phân cách, các điều kiện cung và cầu vốn ở bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ độc lập với điều kiện của tất cả quốc gia khác. 	Trong trường hợp này, các quyết định của công ty đa quốc gia về việc nên nhận vốn từ đâu có thể có một ảnh hưởng quan trọng đối với chi phí sử dụng vốn của mình .Ở thái cực ngược lại, nếu các thị trường tài chính không phân cách theo bất cứ nào, và nếu tất cả các nước cùng sử dụng chung một đồng tiền, chi phí sử dụng vốn danh nghĩa sẽ bằng nhau ở tất cả các nước. 	Trong trường hợp này, công ty đa quốc gia không thể cắt giảm chi phí sử vốn bằng cách chuyển dịch nguồn vốn của mình từ nước này sang nước khác .Trên thục tế, vị trí của các thị trường tài chính quốc tế là ở giữa hai thái cực này. 	Một vài bất hoàn hảo thị trường như chênh lệch thuế và các biện pháp kiểm soát ngoại hối tạo ra các hàng rào giữa các thị trường tài chính, do đó chi phí sử dụng vốn sẽ không giống nhau giữa các quốc gia.	Điều này làm cho các công ty đa quốc gia có khả năng nhận được nguồn tài trợ với chí phí sử dụng vốn thấp hơn. 	Tuy nhiên, rủi ro tỷ giá hối đoái không khuyến khích các doanh nghiệp vay các đồng tiền khác với các đồng tiền mà các doanh nghiệp này sẽ nhận được trong tương lai do kềt quả của hoạt động hiện tại.	Tuy vậy, cũng có cách để các công ty đa quốc gia có thể cố gắng tiếp cận các nguồn vốn có chi phí thấp.	Họ có thể phát hành trái phiếu ở nước đó, hay họ có thể phát hành cổ phiếu ở đó, hay họ có thể phát hành cổ phiếu ở đó và đăng ký cổ phiếu ở thị trường chứng khoán địa phương. 	Các chính sách này sẽ đòi hỏi việc trả lãi vay trong tương lai hay chia lợi tức cổ phần cho cổ phiếu được tính bằng ngoại tệ . 	Để cắt giảm rủi ro tổn thất do tỷ giá hối đoái, các công ty đa quốc gia có thể lập các dự án ở các nước này, các lưu lượng tiền tệ tương lai từ các dự án này có thể dùng để thanh toán lãi vay cho các chủ nợ hay chia lợi tức cổ phần cho các cổ đông địa phương ở nước đó. 	Tóm lại, theo chiến lược này các công ty đa quốc gia nên tập trung việc phát triển hoạt động của mình ở những nước có chi phí sử dụng vốn tương đối thấp. 	Dĩ nhiên, chiến lược này chỉ hợp lý khi các dự án sẽ được thực hiện ở các nước này có một NPV dương.Sự khác biệt giữa các quốc gia đối với chi phí sử dụng vốn vayChi phí sử dụng vốn vay của một doanh nghiệp thường được ấn định bởi lãi suất phi rủi ro của đồng tiền vay và phần bù trừ cho rủi ro do ác chủ nợ đòi hỏi, Chi phí sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp ở một vài nước cao hơn ở các nước khác vì lãi suất không rủi ro tương ứng cao hơn hay vì tiền bù trừ rủi ro cao hơn .Sau đây là giải thích về các khác biệt do các quốc gia trong lãi suất phi rủi ro và tiền bù trừ rủi ro.Sự khác biệt trong lãi suất phi rủi ro.Lãi suất phi rủi ro được ấn định bởi tác động qua lại của cung cầu vốn. 	Bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng đến cung hoặc cầu sẽ ảnh hưởng đến lãi suất phi rủi ro, một số yếu tố ảnh hưởng khác nhau giữa các nước là luật thuế, dân số , chính sách tiền tệ, và các điều kiện kinh tế .Luật thuế ở vài quốc gia dành nhiều khuyến khích cho việc tiết kiệm hơn các quốc gia khác, từ đó có thể ảnh hưởng đến lượng cung tiền tiết kiệm và vì vậy ảnh hưởng đến lãi suất. 	Luật thuế công ty của một nước liên quan đến khấu hao và khấu trừ thuế cho đầu tư cũng có thể ảnh hưởng đến lãi suất qua ảnh hưởng đối với nhu cầu của doanh nghiệp.Dnâ số của một nước ảnh hưởng đến lượng cung tiền tiết kiệm có sẵn và lượng vốn có thể cho vay cần thiết . 	Do dân số giữa các nước khác nhau, các điều kiện cung và cầu cũng sẽ khác nhau và vì vậy, lãi suất danh nghĩa cũng khác nhau. 	Các nước có dân số trẻ hơn có thể có lãi suất cao hơn, vì các hộ gia đình trẻ hơn có khuynh hướng tiết kiệm ít hơn và vay mượn nhiều hơn.Chính sách tiền tệ do ngân hàng trung ương mỗi nước thực hiện ảnh hưởng đến lượng cung các nguồn vốn có thể cho vay vốn do đó ảnh hưởng đến lãi suất. 	Các nước sử dụng một chính sách tiền tệ nới lỏng (tăng trưởng cung tiền tệ cao) có thể đạt được lãi suất danh nghĩa thấp hơn nếu họ có thể duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp. 	Theo một vài lý thuyết thì một chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm cho lãi suất cao hơn do làm gia tăng các dự kiến lạm phat và nhu cầu các nguồn vốn có thể cho vay. 	Vấn đề ở đây là bất kể một chính sách tiền tệ ảnh hưởng thế nào đến lãi suất, mỗi ngân hàng trung ương điều áp dụng chính sách tiền tệ của mình, và điều này có thể gây nên chênh lệch lãi suất giữa các nước .Do các điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến lãi suất, chúng cũng sẽ làm cho lãi suất thay đổi giữa các nước. 	Chi phí sử dụng vốn vay ở nước đang phát triển cao hơn nhiều so với các nước công nghiệp hóa, chủ yếu do các điều kiện kinh tế. 	Tỷ lệ lạm phát dự kiến cao làm cho các chủ nợ đòi hỏi một lãi suất phi rủi ro cao.Sự khác biệt trong phần bù rủi ro.Phần bù rủi ro cho nợ vay phải đủ lớn để đền bù cho các chủ nợ về rủi ro người đi vay không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán nợ. 	Rủi ro này có thể khác nhau giữa các nước do sự khác biệt giữa các nước trong các điều kiện kinh tế, quan hệ giữa các doanh nghiệp và các chủ nợ, sự can thiệp của chính phủ và độ nghiêng đòn cân nợ .Nếu các điều kiện kinh tế ở một quốc gia nào đó có xu hướng ổn định hơn, rủi ro suy thoái tương đối thấp. 	Như vậy, xác suất một doanh nghịêp không thể đáp ứng các nghĩa vụ sẽ thấp hơn, cho phép có một mức bù rủi ro thấp hơn.	Liên hệ giữa các doanh nghiệp và các chủ nợ ở một vài quốc gia cũng gắn bó hơn so với một vài quốc gia khác. 	Ở Nhật chẳn hạn, các chủ nợ sẵn sàng gia hạn nợ trong trường hợp một doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính. 	Điều này làm giảm rủi ro mất khả năng thanh toán . 	Chi phí của các vấn đề tài chính của một doanh nghiệp Nhật có thể được chia sẽ bằng nhiều cách khác nhau cho cấp điều hành doanh nghiệp, các khách hàng kinh doanh, và người tiêu dùng. 	Do các chủ nợ không gánh chịu toàn bộ các khó khăn tài chính,tất cả mọi bên có liên quan đều có động cơ để cùng tìm bịện pháp giải quyết vấn đề. 	Như vậy, ít có khả năng các doanh nghiệp Nhật sẽ đi đến chỗ phá sản (đối với một mức độ nào đó), và điều này cho phép một mức bù rủi ro thấp hơn đối với nợ của các doanh nghiệp Nhật. 	Mặc dù vậy, cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 cũng đã làm bộc lộ mặt trái của chính sách này. 	Có sự liên kết quá mức bình thường của MNC Nhật và các ngân hàng , còn lại là các Kereitsu . 	Hàng loạt các vụ phá sản của MNC và các ngân hàng Nhật xảy ra trong giai đoạn này, làm trầm trọng thêm suy thoái kinh tế Nhật mãi đến những năm 2001.Chính phủ của một vài nước sẵn sàng can thiệp và cứu giúp các doanh nghịêp đang gặp khó khăn. 	Thí dụ, ở Anh nhiều doanh nghiệp do chính phủ sỡ hữu một phần. 	Vì vậy, việc nghiên cứu giúp cho các doanh nghiệp này cũng là lợi ích vì chính phủ. 	Ngay cả khi chính phủ không phải là chủ sở hữu một phần. 	Chính phủ cũng có thể trợ cấp trực tiếp hay cho các doanh nghiệp khó khăn vay, ở Mỹ vịêc chính phủ cứu giúp các doanh nghiệp không được hoan nghênh người những nguời đóng thuế không thích phải gánh chịu các chi phí của việc quản lý tồi của doanh nghiệp. 	Trong hki cũng có một số can thiệp của chính phủ ở Mỹ để bảo hộ vài ngành công nghiệp nào đó, xác suất một doanh nghiệp thất bại sẽ được chính phủ giúp đỡ thấp hơn ở các nước khác. 	Vì vậy, mức bù rủi ro đối với một mức nợ nào đó của các doanh nhghiệp Mỹ cao hơn các doanh nghiệp các nước khác.Các doanh nghiệp ở một vài quốc gia có khả năng vay lớn hơn bởi vì các chủ nợ của họ sẵn sàng chấp nhận một độ nghiêng đòn cân nợ lớn hơn. 	Thí dụ, các doanh nghiệp ở Nhật và Đức có độ nghiêng đòn cân nợ lớn hơn các doanh nghiệp ở Mỹ. 	Nếu tất cả các yếu tố khác bằng nhau, các doanh nghiệp có đòn cân nợ cao sẽ phải trả một phần bù trừ rủi ro cao hơn. 	Nhưng do các yếu tố khác không bằng nhau, trên thực tế, các doanh nghiệp này được phép sử dụng một độ nghiêng đòn cân nợ cao hơn do mối liên hệ đặc thù của họ với các chủ nợ và các chỉnh phủ.Khác biệt giữa các nước trong chi phí sử dụng vốn cổ phần.Theo McCauley và Zimmer, chi phí sử dụng vốn cổ phần của một nước có thể được ước tính bằng cách : Đầu tiên, áp dụng bội số giá / lợi nhuận cho một dòng thu nhập sẵn.	Sau đó điều chỉnh theo các ảnh hưởng của lạm phát, tăng trưởng lợi nhuận và các yếu tố khác của một nước.Kết hợp chi phí sử dụng vốn vay và chi phí sử dụng vốn cổ phần.Các chi phí nợ và vốn cổ phần có thể được kết hợp để cho ra một chi phí sử dụng vốn bình quân. 	Tỷ lệ tương ứng giữa nợ và vốn cổ phần do các doanh nghiệp ở các nước sử dụng phải được áp dụng để đánh giá chi phí sử dụng vốn này một cách hợp lý.	Ngoài ra, một yếu tố khác ảnh hưởng chi phí sử dụng vốn của một nước là giá trị của các khoản khấu trừ thuế cho đầu tư và là lá chắn thuế cho chi phí khấu hao.5.2.2.3 SO SÁNH CHI PHÍ SỬ DỤNG VỐN DÙNG MÔ HÍNH ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VỐNCó thể áp dụng mô hình định giá tài sản vốn CAPM để đánh giá tỷ suất lợi nhuận của các công ty đa quốc gia khác với tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước như thế nào. 	Theo mô hình này, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu (re) đối với một chứng khoán là : re = rf +  (rm – rf) Trong đó: rf : Tỷ suất lợi nhuận phi rủi rorm: Tỷ suất lợi nhuận thị trường  : chỉ số beta của chứng khoánTheo mô hình CAPM, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu đối với chứng khoán của một doanh nghiệp là một hàm số dương của (1) lãi suất phi rùi ro, (2) tỷ suất lợi nhuận thị trường, (3) chỉ số beta của chứng khoán. 	Chỉ số beta tiêu biểu độ nhạy cảm của tỷ suất lợi nhuận của chúng khoán đối với tỷ suất lợi nhuận thị trường (chỉ số chứng khoán thường được sử dụng như là một tiêu biểu cho thị trường). 	Một công ty đa quốc gia không kiểm soát được lãi suất phi rủi ro hay lợi nhuận thị trường nhưng có thể tác động đến chỉ số beta của mình. 	Các công ty đa quốc gia gia tăng doanh số ở nước ngoài có thể giảm thiểu đựơc chỉ số beta của mình và nhờ vậy giảm thiểu được tỷ suất lợi nhuận do các nhà đầu tư yêu cầu. 	bằng cách này, các công ty có thể cắt giảm chi phí sử dụng vốn.Những người ủng hộ mô hình định giá tài sản có thể cho rằng chỉ số beta của một dự án có thể được dùng để xác định tỷ suất lợi nhuận yêu cầu cho dự án đó. 	Chỉ số beta của một dự án biểu thị độ nhạy cảm của lưu lượng tiền tệ của các dự án đối với lưu lượng tiền tệ toàn bộ của doanh nghiệp. 	Một dự án có lưu lượng tiền tệ tách biệt với các ảnh hưởng tác động đến lưu lượmg tiền tệ chung của doanh nghiệp sẽ có một chỉ số beta thấp.Đối với một công ty đa quốc gia đa dạng hóa tốt có lưu lượng tiền tệ phát sinh từ nhiều dự án chứa 2 rủi ro: 	(1) khả năng dễ biến động không mang tính hệ thống trong lưu lượng tiền tệ do đặc thù của doanh nghiệp 	và (2) rủi ro có hệ thống. 	Theo lý thuyết mô hình định giá tài sản, có thể bỏ qua rủi ro không có tính hệ thống của các dự án, vì nó sẽ được bù trừ nhờ đa dạng hóa.	Tuy nhiên, rủi ro có tính hệ thống không đa dạng hóa được vì tất cả các dự án đều bị tác động như nhau. 	Chỉ số beta của một dự án càng thấp, rủi ro có hệ thống của dự án càng thấp, tỷ suất lợi nhuận đòi hỏi của các dự án đó sẽ càng thấp. 	Nếu các dự án của công ty đa quốc gia cho thấy có chỉ số beta thấp hơn các dự án của các doanh nghiệp nội địa, lúc đó tỷ suất lợi nhuận yêu cầu đối với các dự án của công ty đa quốc gia sẽ thấp hơn. 	Điều này cho thấy chi phí sử dụng vốn chung cũng thấp hơn.Lý thuyết mô hình định giá tài sản cũng cho rằng chi phí sử dụng vốn của công ty đa quốc gia thường thấp hơn của các doanh nghiệp trong nước do lý do vừa nêu trên. 	Tuy vậy, cũng nên nhấn mạnh rằng một số công ty đa quốc gia cho rằng cần tính cả rủi ro không hệ thống của dự án. 	Nếu loại bỏ rủi ro này được tính đến trong khi thẩm định rủi ro của một dự án, tỷ suất lợi nhuận yêu cầu sẽ không nhất thiết thấp hơn đối với các dự án của công ty đa quốc gia so với tỷ suất lợi nhuận yêu cầu đối với các dự án của các doanh nghiệp nội địa. 	Như vậy, vấn đề vẫn không được giải quyết.Nói tóm lại, chúng ta không thể nói chắc rằng một công ty đa quốc gia sẽ có một chi phí sử dụng vốn thấp hơn chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp hoàn toàn nội địa trong cùng một ngành hay không. 	Tuy nhiên, chúng ta có thể thảo luận để hiểu tại sao một công ty đa quốc gia có thể nổ lức tận dụng các mặt thuận lợi để cắt giảm chi phí sử dụng vốn, trong khi tối thiểu hóa các rủi ro có thể của các mặt không thuận lợi mà những bất lợi này làm gia tăng chi phí sử dụng vốn. 	Các doanh nghiệp nổ lực tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn. 	Các doanh nghiệp nổ lực tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn họ đạt được để hỗ trợ công việc kinh doanh của mình. 	Các công ty đa quốc gia có thể dùng các cấu trúc vốn nhằm mục tiêu “địa phương” cho các công ty con ở nước ngoài, khác với cấu trúc vốn nhằm mục tiêu “toàn cầu” của mình, do sự có sẵn của các nguồn tài trợ vốn vay và vốn cổ phần khác nhau giữa các nướcGOOD LUCK

File đính kèm:

  • pptbai_giang_mon_tai_chinh_quoc_te_nguyen_thi_thuy_viet.ppt