Bài giảng Siêu âm tổng quát - Trần Quỵ (Phần 1)

Tóm tắt Bài giảng Siêu âm tổng quát - Trần Quỵ (Phần 1): ... hay không đều có những chỗ lõm vào hay không, hay có những hốc nham nhở hay không và mục đích là tìm những hình loét của mảng xơ vữa. Cấu trúc âm mảng xơ vữa: được mô tả là đồng âm, giảm âm thậm chí rỗng âm, và tăng âm. Các mảng xơ vữa tăng âm có thể có bóng cản âm hay không có bóng cản âm.... các tế bào nhu mô lành xung quanh. Siêu âm là phương pháp cơ bản để phát hiện và theo dõi di căn gan của một u nguyên phát. Cấu trúc âm của khối di căn rất thay đổi: Di căn tăng âm là hay gặp nhất (60%), di căn giảm âm (20%). Di căn có thể có hình “bia bắn” với trung tâm giảm âm, ngoại vi t...c tháp thận và mỡ cạnh cổ đài thận sang bên cạnh. Mặc dù chưa được chứng minh, người ta thấy hình thái tưới máu bình thường trên Doppler năng lượng với phì đại cột Bertin khác với tưới máu trong u. Bờ ngoài thận trái gồ và có khối đồng âm, cần nhớ tới thận hình bướu lạc đà. Trong trường hợ...

pdf156 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài giảng Siêu âm tổng quát - Trần Quỵ (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạch chủ và tĩnh mạch chủ dưới 
ĐM: Động mạch chủ dưới 
TM: Tĩnh mạch chủ dưới 
 144 
2.3.1. Chẩn đoán phân biệt: 
 Các hạch riêng biệt cần phải chẩn đoán phân biệt với tất cả các cấu trúc hình 
tròn hay bầu dục cho hình ảnh giống như hạch như: các quai ruột có dịch bên trong, 
cơ đái chậu hai bên không đều nhau, trụ cơ hoành phồng lên ở đoạn dưới.. 
Hình 5. Nhiều hạch to ở bệnh nhân 
lymphome 
a. Cắt dọc: thấy nhiều hạch (H) giữa 
động mạch chủ và động mạch mạc treo 
tràng trên 
b. Cắt ngang: nhiều hạch quanh động 
mạch chủ, chèn ép niệu quản gây giãn 
bể thận phải( hai đầu mũi tên) 
c. Cắt ngang: động mạch gan và động 
mạch lách bị kéo dài do nhiều hạch 
to(H) 
d. Cắt quặt ngược gan: nhiều hạch 
quanh tĩnh mạch chủ dưới 
 a b 
 Hình 4. Hạch to di căn từ ung thư thận 
 a. Cắt dọc qua tĩnh mạch chủ dưới hạch to sau tĩnh mạch chủ dưới đẩy TMCD ra trước; 
b. Cắt ngang 
 145 
Hay nhầm hình hạch to với hình cắt ngang của mạch máu( tĩnh mạch thận 
trái đi bất thường sau động mạch chủ hay quanh động mạch chủ, tĩnh mạch chủ 
dưới nằm bên trái hay có hai tĩnh mạch chủ dưới, hình cắt ngang tĩnh mạch mạc 
treo tràng trên hay tĩnh mạch Azygos ). Hình niệu quản giãn to trên lớp cắt 
ngang cũng có thể nhầm. Tất cả các cấu trúc mạch máu này có thể phân biệt 
được dễ dàng khi có siêu âm Doppler, nếu không có Doppler thì ta có thể thay 
đổi các hướng cắt khác nhau sẽ dễ dàng tách ra được các cấu trúc mạch máu. 
Khối do nhiều hạch tập trung lại cũng cần phải chẩn đoán phân biệt với 
xơ hoá quanh phình động mạch chủ, xơ hoá sau phúc mạc, rách túi phình, giả túi 
phình, u sau phúc mạc... 
Chẩn đoán nguồn gốc: 
Phì đại hạch không ác tính : hay gặp trong các nhiễm trùng thông thường, 
phản ứng hạch to trong lao, trong bệnh saccoit, trong bệnh nấm. Trong bệnh suy 
giảm miễn dịch cũng hay có hạch to. Trong bệnh lymphôm thì siêu âm bổ trợ 
cho chụp cắt lớp vi tính để theo dõi tiến triển của bệnh và theo dõi kết quả điều 
trị, cũng như phát hiện các trường hợp tái phát bằng thăm khám định kỳ. 
Giá trị của siêu âm trong chẩn đoán hạch to sau phúc mạc thấp hơn so với 
chụp cắt lớp vi tính, ngược lại để phát hiện hạch to vùng mạc treo thì rất tốt nên 
nó hay được dùng để thăm khám những bệnh nhân lymphôm không 
hodgkin(trong bệnh Hodgkin thì tổn thương hạch vùng mạc treo tràng rất hiếm 
gặp). Ngoài nghiên cứu sau phúc mạc thì siêu âm còn nghiên cứu cả gan và lách 
trong bệnh lymphôm. Nhưng dù sao thì siêu âm có độ nhạy thấp hơn chụp cắt 
lớp vi tính, nhưng nó là phương pháp thăm khám rất kinh tế hơn nữa không độc 
hại cho bệnh nhân và thầy thuốc nên càng ngày nó càng được xử dụng rộng rãi 
để chẩn đoán nhiều bệnh lý khác nhau . 
Trên siêu âm các hạch lymphô biểu hiện bằng hình tổ chức đặc ít âm, có 
thể nhiều âm, nhưng trong đa số các trường hợp là hình ít âm và đôi khi nó rất ít 
âm như dạng giả nang. 
 146 
Siêu âm hay bất kỳ phương pháp chẩn đoán hình ảnh nào khác kể cả chụp 
cộng hưởng từ thì cũng thường rất khó chẩn đoán được nguồn gốc của khối u, và 
thường rất khó để quyết định thái độ xử trí (mổ, chọc sinh thiết, hay theo dõi 
bằng hình ảnh) nếu chỉ dựa vào hình ảnh, cũng giống như các phương pháp chẩn 
đoán hình ảnh khác thì siêu âm có độ nhạy rất cao để phát hiện tône thương, 
nhưng tính đặc hiệu không cao lắm. 
Các di căn vào hạch sau phúc mạc thường từ cơ quan sinh dục: các ung 
thư tinh hoàn hay buồng trứng, có u tinh hoàn thì nhất thiết phải thăm khám tìm 
hạch sau phúc mạc để có hướng điều trị thích hợp (ví dụ u tinh hoàn chưa có di 
căn thì điều trị tia xạ, nếu có di căn hạch thì điều trị hoá chất và lấy bỏ hạch), 
các u tinh hoàn thường có hạch rất to nên rất dễ phát hiện bằng siêu âm. Các ung 
thư khác như ung thư hắc tố bào, ung thư đại tràng, trực tràng cũng có thể có di 
căn hạch sau phúc mạc và thường là hạch to và đôi khi có hoại tử trong hạch. 
2.2. U nguyên phát sau phúc mạc: 
Các u sau phúc mạc nguyên phát có nguồn gốc từ tổ chức liên kết thần 
kinh, tổ chức di tích bào thai ở trong khoang dưới phúc mạc và không thuộc cơ 
quan noà sau phúc mạc, cũng phải kể các mạch máu lớn, hạch bạch huyết vào 
khoang sau phúc mạc. 
Các u sau phúc mạc hiếm và được xếp theo nguồn gốc phôi thai: 
 - U trung sản mạc (Tumeurs mésodermiques): thường gặp nhất là u xơ 
(fibrome), u mỡ (lipome), u cơ trơn (leiomyome), u máu (hémangiome), u bạch 
huyết (lymphangiome), u tổ chức lưới nội mô xơ (histiocytofibrome) và các laọi 
u này nhưng ác tính. 
-U thần kinh ngoại mạc (neuro-ectodermiques) gồm các u: neurofibrome, 
schưannome, ganglionẻuome, và các dạng ác tính của nó. 
- Các u tế bào mấm: vestigiales, tératome, choriocarcinome. 
Chẩn đoán và đánh giá tổng thể tỏn thương được tiến hành bằng siêu âm 
và chụp cắt lớp vi tính, hai phươnmg pháp này cho phép chẩn đoán dương tính 
và đánh giá lan toả của u và tìm thâm nhiễm u vào các cơ quan lân cận.Trong 
 147 
một số trường hợp điển hình thì siêu âm có thể đánh giá bản chất của u, còn 
trong phần lớn các trường hợp không thể chẩn đoán được nguồn gốc, nhưng nó 
hướng dẫn cho chọc sinh thiết, và đặc bệt siêu âm cho phép theo dõi bệnh trước 
và sau điều trị. 
Các u có nguồn gốc trung sản mạc (lipome, fibrome, 
leiomyome,histiocytome và các u ác tính của nó khi được phát hiện thì thường 
có kích thước lớn nên siêu âm thường không đánh giá được đầy đủ do trường 
thăm khám của siêu âm hẹp, vì vậy mà hay phải nhờ đến các phương pháp chẩn 
đoán hình ảnh khác như chụp cắt lớp vi tính hay chụp cộng hưởng từ. 
Có ba loại u mà siêu âm dễ thấy nhất đó là: u mỡ, u cơ và u lưới nội mô xơ 
- U mỡ: 
Đó là các lipome và liposarcome, lipome biểu hiện trên siêu âm bằng hình 
khối gianh giới rõ tăng âm, chụp cắt lớp vi tính có tỷ trọng mỡ( tỷ trọng âm), 
nhưng với những u mỡ lớn lại biểu hiện bằng khối giảm âm. 
U lành tính biểu hiện bằng khối gianh giới rõ và đồng đều không thâm 
nhiễm các cơ quan lân cận, còn tổn thương ác tính thường thâm nhiễm rộng, 
không đồng đều có hoại tử trong u. Tuy nhiên dấu hiệu này cũng không có ý 
nghĩa tiên lượng bệnh vì nó không đặc hiệu cho các u ác tính ngay cả trên chụp 
cắt lớp vi tính. Như u mỡ nhầy ác tính (liposarcome myxoide) có hình ảnh trên 
siêu âm rất giống u lành tính với gianh giới rõ mà chỉ có xét nghiệm tế bào học 
mới cho phép định hướng tới tổn thương ác tính, ngược lại u mỡ ác tính không 
biệt hoá (liposarcome indifférencié) thì lại có hình ảnh rất gợi ý một tổn thương 
ác tính trên siêu âm. 
- Các u cơ: 
Cùng với u cơ trơn (leiomyome) hiếm gặp thì các u cơ vân ác tính 
(rhabdomyosarcome) cũng gặp trong khoang sau phúc mạc ở vùng giữa. Tổn 
thương là khối đặc lớn thường có hoại tử ở giữa và không có dấu hiệu đặc hiệu 
trên siêu âm cũng như trên chụp cắt lớp vi tính, khối u rất khó lấy hết được bằng 
 148 
phẫu thuật nên hay tái phát và thường được đánh giá trên siêu âm để theo dõi 
tiến triển của bệnh. 
- U lưới nội mô xơ ác tính: (histiocytome fibreux malin): 
Đây là u hay gặp nhất ở phần mềm, ở khoang sau phúc mạc nó là khối đặc 
lớn không rõ gianh giới, thâm nhiễm các mạch máu lớn , các dấu hiệu trên siêu 
âm như vậy không đặc hiệu về bản chất u. Cũng giống như các u sau phúc mạc 
khác thì loại u này cũng cần phải chụp cắt lớp vi tính để đánh giá tổn thương và 
nhất là lan toả của tổn thương. 
3. Cơ đái chậu 
2.3. Cơ đái chậu: 
2.3.1. Nhắc lại giải phẫu: 
Cơ đái chậu là một trong những giới hạn phía sau của khoang sau 
phúc mạc, một đầu ở trên vùng thắt lưng và đầu kia ở vùng hố chậu. Bó 
thắt lưng cơ đái chậu đi từ L1 đến mấu chuyển nhỏ, và thường có cơ đái 
chậu bé bắt chéo phía trước trong 60% các trường hợp, cùng các bó chậu 
trải rộng ở hố chậu để tạo thành cơ thắt lưng chậu. 
Nằm ngoài phúc mạc, cơ đái chậu có ở hai bên cột sống và cân đối nhau, 
nó ngăn cách với khoang quanh thận và cạnh thận bằng cân chậu. Như vậy ô đái 
chậu mở ra ở phía trên và phía dưới: 
Hình 6. 
U cơ trơn ác tính của tĩnh mạch chủ dưới 
Hình 7 
U cơ vân ác tính nằm giữa động mạch chủ và 
tĩnh mạch chủ dưới 
AO: Động mạch chủ; VCI: Tĩnh mạch chủ dưới 
 149 
- Phía trên: Cơ đái chậu bám từ thận L2 đến mỏm ngang L1, nó tiếp nối 
với cơ vuông thắt lưng và cột trụ cơ hoành và nối với khoang dưới trung thất sau 
và khoang sau màng phổi. 
- Phía dưới: là cung đùi và tiếp theo là gốc đùi 
Như vậy là có đường nối liền các vùng giải phẫu khác nhau và các thương 
tổn có thể lan toả từ vùng đái đi các nơi khác. 
Những điểm giải phẫu này giúp ta hiểu vì sao vùng hố cơ đái chậu thường 
bị thâm nhiễm vì các tổn thương lân cận (do các cân phân chia các vùng khác 
nhau sau phúc mạc rất dễ bị tổn thương do các quá trình bệnh lý của các tổ chức 
lân cận), và mặt khác các bệnh lý của vùng đái chậu cũng dễ lan ra nơi khác 
nhất là qua phía đầu trên và đầu dưới cơ đái chậu. 
Các thay đổi bình thường: 
- Cơ đái chậu bé: đó là bó phụ của cơ đái chậu mà ngay trên chụp cắt lớp 
vi tính cũng không thấy, tuy nhiên nó có thể làm lồi bờ cơ đái chậu lên mà 
không nên nhầm là hình hạch to. 
Phì đại hai bên cơ đái chậu : gặp ở người luyện tập thể thao, có có thể làm 
cho hai niệu quản bị đẩy lệch vào giữa, cần phải phân biệt với xơ hoá sau phúc 
mạc( trong phì đại cơ đái chậu thì hai niệu quản bình thường, không có ứ nước 
hai thận và thấy hai bờ trước trong cơ đái chậu phì đại bờ đều nhẵn) 
Kích thước cơ đái chậu không cân đối có thể do phì đại một bên ở một số 
vận động viên, hay do teo cơ một bên do nhiều nguyên nhân khác nhau như: gù 
vẹo cột sống, sau bệnh thần kinh, sau cứng khớp háng... 
2.3.2. Một số bệnh lý hay gặp 
2.3.2.1. Tụ máu vùng cơ đái chậu 
Chẩn đoán 
Chảy máu do chấn thương, do dùng thuốc chống đông..., siêu âm có độ 
nhạy rất cao để phát hiện tụ máu nên nó được dùng như phương pháp thăm 
khám đầu tiên khi nghi ngờ có tổn thương. 
Trên siêu âm thấy hình cơ đái chậu to ra, không đối xứng nhau( vì thường 
chỉ tụ máu ở một bên), có hình rỗng âm của khối tụ máu mới, khi tụ máu có cục 
 150 
máu đông sẽ thấy hình khối tăng âm trong hình rỗng âm của cục máu đông, tụ 
máu mãn tính thì cục máu đông tiêu đi hết và chỉ còn hình rỗng âm có thể có 
lắng căn bên trong. 
Tụ máu ít có thể khi khu trú ở vùng đái chậu, nếu tụ máu nhiều quá thì 
máu sẽ lan sang các khoang khác sau phúc mạc như: tụ máu cơ đái chậu trên L3 
thì máu sẽ lan sang khoang quanh thận và canh thận làm cho các cân Gérota và 
Zuckerkandl dày, nếu tụ máu dưới L3 thì máu tụ thường lan xuống khoang sau 
phúc mạc vùng tiểu khung. 
Chẩn đoán nguyên nhân 
 -Tụ máu sau chấn thương: thường hay gặp sau chấn thương có vỡ khung 
chậu, trong trường hợp đụng dập chảy máu lan toả cơ đái chậu thì chỉ thấy khối 
cơ to ra không đồng đều. 
- Tụ máu do thầy thuốc gây ra: sau chọc sinh thiết thận và nhất là sau 
chụp động mạch chủ bụng qua đường thắt lưng thường hay có tụ máu trong cơ 
đái chậu. 
- Nứt, rách phình động mạch chủ bụng cũng là một trong những nguyên 
nhân gây tụ máu cơ đái chậu. Chỗ bị nứt thường hay ở mặt sau bên của phình 
động mạch chủ bụng, nhưng cũng có thể ở động mạch chậu hay động mạch đùi. 
Tụ máu thứ phát do vỡ phình động mạch chủ bụng thường nằm trong bao cơ thắt 
lưng chậu, và cân chậu chắc nên có thể làm ngừng chảy máu, chảy máu có thể 
tràn vào khoang quanh thận và vào cơ thắt lưng, chảy máu có thể vào khoang 
cạnh thận sau và đôi khi vào khoang quanh thận bên đối diện( rất hiếm gặp). 
- Các biến chứng đặt prothèse động mạch chủ bụng cũng có thể gây tụ 
máu sau phúc mạc, khi đó tụ máu thường hai bên. Tụ máu có thể gậy nhiễm 
trùng và lúc đó có thể thấy hình hơi bên trong khối tụ máu biểu hiện bằng những 
hình cản âm nhỏ. 
- Các xuất huyết tạng, bệnh ưa chảy máu hêmôphili là nguyên nhân 
thường gặp, tạo lên khối tụ máu lớn cùng với biểu hiện thần kinh ở đùi. 
 151 
- Điều trị chống đông cũng là một trong những nguyên nhân hay gặp của 
tụ máu vùng cơ đái chậu, và thường kèm theo tụ máu trong khoang cạnh thận 
sau, bệnh cảnh lâm sàng hay nhầm lẫn vì triệu chứng giống như viêm tắc tĩnh 
mạch. 
2.3.2.2. Bệnh lý viêm nhiễm vùng cơ đái chậu: 
Viêm nhiễm vùng đái chậu có thể là hữu trùng hay vô trùng do viêm tuỵ 
cấp hay do viêm tắc tĩnh mạch vùng tiểu khung lan lên. 
Nếu là viêm nhiễm trùng đó là viêm cơ, thường tạo thành khối áp xe, 
thường là thứ phát sau nhiễm trùng máu( thường ở người suy giảm miễn dịch) 
hay gặp hơn so với nhiễm trùng từ tổ chức lân cận lan sang. 
Vi khuẩn thường là tạp khuẩn đường ruột và tụ cầu chiếm 1/4 đến 1/3 các 
trường hợp, và nguyên nhân do nấm cũng được nhắc tới nhất là trong những 
trường hợp điều trị suy giảm miễn dịch. Cuối cùng lao cũng là một nguyên nhân 
khá thường gặp ở Việt nam. 
Chẩn đoán dương tính: 
Trong các trường hợp viêm tuỵ cấp thì dịch viêm tuỵ hay dịch vỡ nang giả 
tuỵ có thể gây viêm vùng đái chậu. 
 Khối máu tụ giảm âm trong cơ đái chậu cắt 
dọc (mũi tên) 
Cùng bệnh nhân trên lớp cắt ngang. Khối máu 
tụ nằm sau thận trong cơ đái chậu (mũi tên) 
 152 
Trong nhiễm trùng: 
-Siêu âm thấy cơ đái chậu một bên phì đại, có thể to hơn bên đối diện 2-3 
lần, đây là dấu hiệu quan trọng nhất và dễ phát hiện nhất trên siêu âm. 
- Cơ đái chậu sẽ giảm âm và tuỳ theo từng giai đoạn thì nếu chưa áp xe 
vùng viêm sẽ to ra hình thoi và giảm âm so với vùng lân cận, nếu đã áp xe hoá 
thì sẽ biểu hiện bằng hình rỗng âm và có ít âm không đồng đều bên trong 
- Nếu phát hiện thấy hình hơi trong vùng cơ đái chậu thì gợi ý có ổ áp xe 
- Nếu tổn thương thấy cả hai bên thì phải tìm tổn thương bệnh lý cột sống, 
và thường hay gặp là lao cột sống nhất là thấy tổn thương cả hai bên và có vôi 
hoá. 
- Trong trường hợp nghi ngờ thì tiến hành chọc dò dưới hướng dẫn của 
siêu âm cho phép chẩn đoán xác định. 
 Chẩn đoán nguyên nhân: 
 - Các viêm bạch mạch vùng đái chậu: Các hạch vùng chậu là những trạm 
của các đường dẫn lưu bạch mạch vùng tiểu khung, của vùng đùi và của các tạng 
trong ổ bụng. Khi viêm bạch mạch vùng tiểu khung thì có thể lan toả viêm 
nhiễm vào vùng cơ đái chậu gây viêm cơ đái chậu. 
- Các viêm nhiễm của thận và khoang quanh thậncó thể lan vào vùng cơ 
đái chậu, các viêm nhiễm của cơ quan sinh dục la lên cơ đái chậu cũng gặp nhất 
là sau đẻ. 
- Các bệnh của ống tiêu hoá: viêm ruột thừa, viêm túi thừa, viêm ruột 
Crhon cũng được tìm thấy. Một áp xe cơ đái chậu có thể là một biểu hiện gợi ý 
của một ung thư đại tràng hay lymphôm manh tràng. Cuối cùng thì một viêm 
tuỵ cấpđặc biệt là viêm tuỵ cấp hoá mủ có thể tạo ra dòng mủ chảy xuống vùng 
cơ đái chậu. 
- Các áp xe sau mổ: sau mở tử cung, phẫu thuật tiêu hoá, prothèse động 
mạch chủ bị nhiễm trùng, ghép thận, viêm nhiễm trùng da, tĩnh mạch đùi bằng 
phương pháp Seldinger...có thể là nguyên nhân gây viêm cơ đái chậu. 
 153 
- Các tổn thương xương: có trường hợp viêm khớp háng cùng bên với 
viêm cơ đái chậu, thường gặp nhất là viêm đốt sống và đĩa đệm ( 
spondylodiscite) gây phá huỷ mạch đốt sống và đĩa đệm, mủ có thể chảy lan dọc 
theo cả chiều dài vùng đái chậu và có thể lan xuống cả cung đùi. 
2.3.2.3. Bệnh lý u vùng đái chậu: 
Chẩn đoán dương tính u vùng đái chậu: 
Trên siêu âm chủ yếu thấy cơ đái chậu hai bên không cân xứng và giảm 
âm, thường không đều âm, cấu trúc âm thay đổi tuỳ thuộc loại u và mức độ hoại 
tử của u. 
Có thể có các nốt vôi hoá trong u đặc biệt là trong di căn của ung thư đại 
tràng vào cơ đái chậu, nhưng cũng có thể gặp vôi hoá trog u máu. 
Chẩn đoán nguồn gốc u: 
Nói chung khó chẩn đoán nếu chỉ dựa trên chẩn đoán hình ảnh 
- Các u nguyên phát: chỉ chiếm 30%, u thường lớn và không đồng đều 
trên siêu âm hay trên chụp cắt lớp vi tính, và không có phối hợp với hạch to bệnh 
lý. Có thể là u cơ vân ác tính (rhabdomyosarcome), cũng có thể là các u khác 
của vùng này như u mỡ, u thần kinh (schwannome lành và các tính)... 
- Các u thứ phát: thường gặp nhất là các di căn ung thư, các lymphôm, các 
di căn từ tổ chức lân cận. Di căn thường thấy hình tổn thương lan toả và có hoại 
tử phối hợp với các hạch to bệnh lý dọc theo mạch chậu và sau phúc mạc. Có thể 
có hình hơi trong di căn do hoại tử và nhiễm trùng 
Các ung thư hay gây di căn vùng này: có thể là u phổi, u đại tràng, nhưng 
thường gặp nhất là các u vùng sinh dục tiết niệu như u tinh hoàn, u tiền liệt 
tuyến, ung thư dương vật, ung thư tử cung buồng trứng. 
áp xe cơ đái chậu bó chậu trên lớp cắt 
ngang, khối hỗn hợp bờ rõ (mũi tên) 
Cùng bệnh nhân trên lớp cắt dọc 
 154 
Các u lymphô hodgkin hay không hodgkin có thể biểu hiện ở vùng đái 
chậu bằng nhiều hạch to. 
Thâm nhiễm đái chậu của các ung thư lân cận thường là từ u sau phúc 
mạc (u mỡ, u thận, ung thư cột sống...) 
2.4. Xơ hoá sau phúc mạc: 
Đây là bênh lý hiếm, thể tự phát thường do phản ứng xuất tiết của tổ chức 
sau phúc mạc đối với tổn thương tại chỗ hay toàn thân. Phản ứng này đầu tiên chỉ 
là viêm, sau đó tiến tới tạo thành lớp xơ hoá nằm trước cột sống, giữa các mạch 
chậu và vùng rốn thận, hiếm gặp hơn ở vùng tiểu khung hay trung thất. 
Lan toả của tổn thương có thể một hay hai bên đường giữa, thâm nhiễm 
xung quanh các mạch máu và thường có co kéo niệu quản vào đường giữa. 
Nguyên nhân : có nhiều nguyên nhân gây xơ hoá sau phúc mạc, có thể do 
thâm nhiễm u, do bệnh miễn dịch, bệnh Crhonn, viêm loét đại tràng, bệnh tạo 
keo, phồng động mạch chủ bụng có rò, sau tạo hình động mạch chủ, thoát nước 
tiểu sau chấn thương thận niệu quản, di căn ung thư, sau điều trị tia xạ... 
Hình ảnh siêu là đám tổ chức ít âm bao quanh động mạch chủ và tĩnh 
mach chủ dưới, trên chụp cắt lớp vi tính là đám tỷ trọng tổ chức bao quanh động 
mạch chủ và tĩnh mạch chủ dưới. Khác với hình đám hạch to ở chỗ bờ ngoài của 
đám hạch thì có nhiều vòng và không đều, có nhiều thuỳ to nhỏ không đều. Tổn 
thương có thể ở một hay cả hai bên đường giữa, thường là bao quanh động mạch 
chủ và tĩnh mạch chủ dưới. kích thước có khi tới 10cm chiều dày nên rất có thể 
nhầm với hình hạch to, nhưng ở xơ hoá sau phúc mạch thì động mạch chủ và 
tĩnh mạch chủ dưới hầu như không bị đè đẩy ra trước, đây là dấu hiệu quan 
trong để chẩn đoán phân biệt với khối hạch to. 
Đánh giá lan toả: siêu âm kém hơn nhiều so với chụp cắt lớp vi tính hay 
cộng hưởng từ. Chụp cắt lớp dễ dàng thấy tổn thương hơn và dễ dàng đánh giá 
lan toả của nó, tổn thương thâm nhiễm khoang quanh thận và cạnh thận , niệu 
quản, và niệu quản có thể bị kéo lệch vào đường giữa. Tổn thương có thể lan 
 155 
rộng hơn vào khoang cạnh thận trước, quanh tuỵ và tá tràng, gốc rễ mạc treo và 
có thể vào cả cuống gan. 
Chụp cắt lớp vi tính và siêu âm đều có thể thấy hình xơ hoá và hình cây 
đài bể thận một hay cả hai bên có thể giãn ra thậm chí giãn nhiều đến mức ứ 
nước rõ, thận ứ nước không có liên quan đến các nguyên nhân khác như sỏi niệu 
quản hay ứ nước sau mổ thận, niệu quản... 
ở nước ta, chúng tôi có gặp một số trường hợp xơ hoá sau phúc mạc sau 
chấn thương thận niệu quản thoát nước tiểu ra ngoài, sau ứ mủ lâu ngày do sỏi 
niệu quản gây viêm quanh đài bể thận và lan vào khoang sau phúc mạc, chúng 
tôi cũng gặp xơ hoá sau phúc mạc do ung thư thận lan vào. 
Hậu quả của xơ hoá sau phúc mạc không rầm rộ nhưng ảnh hưởng đến 
các cơ quan của khoang sau phúc mạc như: niệu quản, thận, động mạch , tĩnh 
mạch và hệ bạch mạch 
Ung thư thận phải thâm nhiễm khoang 
sau phúc mạc gây xơ hoá 
Động mạch chủ và tĩnh mạch chủ bị bao 
bọc bởi khối xơ hoá sau phúc mạc dày. 
Xơ hoá sau phúc mạc gây 
tắc tĩnh mạch chủ dưới hình 
mũi tên 
 156 
Mục tiêu: 
1. Học viên nắm được cách thăm khám siêu âm khoang sau phúc mạc 
2. Học viên nắm được các dấu hiệu trên siêu âm của các u nguyên phát sau 
phúc mạc, u hạch cũng như xơ háo sau phúc mạc. 
Câu hỏi: 
1. Các loại u nguyên phát sau phúc mạc và dấu hiệu tren siêu âm 
2. Chẩn đoán siêu âm hạch to sau phúc mạc, chẩn đoán bản chất hạch to 
3. Dấu hiệu siêu âm cuar xơ hoá sau phúc mạc 
Hình xơ hoá sau phúc mạc cắt dọc Cùng bệnh nhân trên lớp cắt ngang 
Chụp cắt lớp vi tính không tiêm thuốc thấy rõ tổn thương bao 
quanh động mạch chủ và tĩnh mạch chủ dưới 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_sieu_am_tong_quat_tran_quy_phan_1.pdf
Ebook liên quan