Bài giảng Tổng quan du lịch - Phạm Trọng Lê Nghĩa
Tóm tắt Bài giảng Tổng quan du lịch - Phạm Trọng Lê Nghĩa: ...hững sản phẩm du lịch mới được nghiên cứu xây dựng có sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. 4. Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được tăng cường: Những năm qua, Ngành Du lịch đã chú trọng xúc tiến quảng bá du lịch ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Công tác xúc tiến qu... từ 220C - 270C, tổng lượng nhiệt hoạt động lên tới 8.0000C, tổng số giờ nắng 1.400 giờ. Điều đó cho thấy các bãi biển luôn chan hòa ánh nắng và thu hút một lượng khách trong nước và quốc tế đến đến nghỉ dưỡng, chủ yếu là vào mùa hè. Tuy nhiên, khí hậu Việt Nam cũng có sự phân hóa phúc tạp về ...ên phải hiều và biết về đối tượng mình quản lí. Xác định rõ nhu cầu, mục tiêu, hiểu rõ bản chất cũng như cách thức vận dụng công nghệ du lịch chính là một trong những chiến lược quan trọng nhằm phát triển ngành du lịch, giúp ngành du lịch Việt Nam hòa nhập nhanh chóng vào xu hướng phát triển...
Một khách du lịch có được một ấn tượng rất tốt đẹp về chuyến đi của họ không có nghĩa là thứ tạo nên ấn tượng đó là vẻ đẹp thiên nhiên, sự sang trọng của khách sạn, những món ăn ngon và những trò tiêu khiển, giải trí hấp dẫn, mà còn là sự hài lòng, sự thoả mãn sau một chuyến đi với những điều kiện dịch vụ tuyệt hảo, sự tận tình, chu đáo và thân thiện của những người phục vụ trong suốt cuộc hành trình,... Mức độ hài lòng của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn sàng cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện được ý nguyện của khách hàng. Trong những trường hợp này thái độ và sự giao tiếp với khách hàng còn quan trọng hơn cả các tiêu chí kỹ thuật, sản xuất và tiêu dùng những loại dịch vụ này đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản xuất với khách hàng. Trong thời gian cung cấp dịch vụ những chức năng truyền thống đã gắn liền hai người bạn hàng (đối tác) với nhau trên thị trường. Người tiêu dùng đồng thời trở thành người đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ. Người tiêu dùng tham gia hoặc là về mặt thể chất, trí tuệ hay là về mức độ tình cảm trong quá trình tạo ra dịch vụ, xác định thời gian cũng như các khả năng sản xuất. Các vấn đề có tính chất biểu trưng dó có thể thấy được tại các quán ăn nhanh Mcdonald, khách sạn, cửa hàng, ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ giao thông vận tải. Ở đây, sự tham gia về trí tuệ của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ này được xác định như sự phối hợp cùng sản xuất. Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ Đólà sự khác biệt rõ nét nhất với các hàng hoá vật chất thông thường mà con người hàng ngày vẫn tiêu dùng, sử dụng. Với các mặt hàng được sản xuất ra tại một thời điểm và sau đó được đem bán tới người tiêu dùng Ở một thời điểm khác thông qua các kênh phân phối sản phẩm, thì người tiêu dùng chỉ cần bỏ tiền ra mua hàng hoá đó là được quyền sở hữu sản phẩm. Nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì không có quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là đang mua quyền đối với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn, khi đi du lịch, khách du lịch được Ở trong những khách sạn sang trọng, được sử dụng phương tiện vẫn chuyển để đi lại, được chơi các trò chơi giải trí hấp dẫn, được thoải mái tắm và nghỉ ngơi trên bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối với chúng. Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được, khách muốn tiêu dùng dịch vụ thì phải đến các cơ sở du lịch. Chẳng hạn, dịch vụ du lịch là một cơ sở lưu trú hay dịch vụ tài nguyên du lịch . Do đó để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh doanh khi xây dựng các điểm du lịch cần lựa chọn địa điểm thoả mãn các điều kiện tự nhiên: địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài nguyên, môi trường sinh thái và điều kiện xã hội: dân số, dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung cấp lao động, cơ sở hạ tầng. Đặc điểm này của dịch vụ du lịch đòi hỏi các cơ sở (doanh nghiệp) du lịch tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo được du khách đến với điểm du lịch. Tính thời vụ của dịch vụ Dịch vụ có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ, ví dụ các khách sạn ở các khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại rất đông khách vào mùa hè, các nhà hàng trong khách sạn thường đông khách ăn vào trưa hoặc chiều tối, hoặc các khách sạn gần trung tâm thành phố thường đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần. Chính đặc tính cầu cao điểm của dịch vụ dẫn đến tình trạng cung cầu dịch vụ dễ mất cân đối vừa gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút khi gặp cầu cao điểm. Vì vậy, các đơn vị thường đưa ra các chương trình khuyến mại khách đi nghỉ trái vụ khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lý tốt hàng chờ khi cầu cao điểm. Tính trọn gói của dịch vụ du lịch Dịch vụ du lịch thường là dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ bản, dịch vụ bổ sung, dịch vụ đặc trưng. Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ chính mà nhà cung ứng du lịch cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản, không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng, bar v v ... Dịch vụ bổ sung là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn các nhu cầu không bắt buộc như dịch vụ cơ bản nhưng phải có trong chuyến hành trình của du khách. Nhiều khi dịch vụ bổ sung lại có tính chất quyết định cho sự lựa chọn của khách và có ảnh hưởng quan trọng đến sự thoả mãn toàn bộ của khách hàng đối với dịch vụ trọn gói của doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu khách sạn có số lượng dịch vụ bổ sung càng phong phú, chất lượng của dịch vụ cao thì ngay cả khi giá cả không rẻ khách vẫn đến đông và khi đó khách sạn kinh doanh sẽ rất có hiệu quả vì hệ số sử dụng phòng cao, khách lưu trú dài ngày và tỷ lệ khách quay lại thường cao hơn so với loại khách sạn có ít dịch vụ. Dịch vụ đặc trưng là những dịch vụ thoả mãn nhu cầu đặc trưng của du khách như tham quan, tìm hiểu, vui chơi giải trí .v.v... Việc thoả mãn các nhu cầu này cũngchính là nguyên nhân và là mục đích của chuyến du lịch. Tính chất trọng gói của dịch vụ du lịch xuất phát từ nhu cầu đa dạng và tổng hợp của du khách. Mặt khác nó cũng đòi hỏi tính chất đồng bộ của chất lượng dịch vụ. Dịch vụ du lịch có những đặc điểm như tính phi vật chất, tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch, tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ, đặc tính của khách hàng khi tham gia tiêu dùng sản phẩm du lịch, tính tổng hợp cao... Dưới đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết từng đặc tính của dịch vụ du lịch: Tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) thông thường thì quá trình sản xuất và tiêu dùng là tách rời nhau, không cùng trong một thời điểm. Người ta có thể sản uất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời gian khác với nơi bán và tiêu dùng. Còn đối với dịch vụ du lịch thì gần như thời gian sản xuất ra sản phẩm du lịch trùng khớp với thời gian tiêu dùng sản phẩm. Bản thân sản phẩm du lịch cũng mang tính vô hình, phi vật chất nên không thể đem sản phẩm du lịch bán từ nơi này sang nơi khác như các hàng hoá vật chất thông thường mà chúng ta vẫn luôn tiêu dùng hàng ngày. Do tính đồng thời, trùng khớp như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví dụ như một chương trình du lịch 3 ngày 2 đêm được chào bán cho khách du lịch thì thời gian ấy chính là lúc sản phẩm du lịch vừa được hình thành đồng thời với hành trình của khách và cảm nhận của khách về chất lượng sản phẩm. Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung - cầu cũng không thể tác rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự săn khớp giữa cung và cầu trong du lịch là hết sức quan trọng. NÂNG CAO HIỂU QUẢ KHAI THÁC TÍNH PHI VẬT CHẤT TRONG SẢN PHẨM DU LỊCH Việt Nam, một quốc gia với bề dày truyền thống văn hóa với nhiều công trình kiến trúc, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh đẹp nhưng lượng khách quốc tế tới tham quan so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Sinhgapo, Malaixia là rất thấp. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên? Do chính sách phát triển du lịch? Do năng lực quả l ý chưa hiểu quả? Do cách quảng bá tiếp thị chưa tốt? .v.v.v Theo quan niệm của tôi các nguyên nhân trên chưa phải là câu trả lời xác đáng. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định "Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn" và đưa ra những chính sách phát triển du lịch hợp lí thể hiện qua Luật Du lịch và các văn kiện khác. Bên cạnh đó, chúng ta nhận được sự giúp đỡ trong lĩnh vực đào tạo, phát triển nguồn nguồn nhân lực du lịch Việt Nam từ các đối các nước ngoài như dự án như VIE (chính phủ Lucxembourg), dự án EU (Cộng đồng châu Âu – 2005). Lịch sử dân tộc cùng với việc toàn cầu hóa về công nghệ thông tin ngày càng làm cho thương hiệu Việt Nam với "vẻ đẹp tiềm ẩn" gây ấn tượng mạnh cho con tim và khối óc của rất nhiều người dân ở khắp mọi miền trên thế giới với một sự thừa nhận hoàn hảo "Việt Nam – Điểm đền an toàn, thân thiện". Một trong những nguyên nhân chính khiến ngành du lịch Việt Nam chưa lay chuyển được bước chân của khách du lịch các nước tới tham quan chính là những người làm du lịch chưa phát huy hết tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch. Vậy tính phi vật chất của sản phẩm du lịch do những yếu tố nào tạo nên? Sản phẩm du lịch là loại sản phẩm đặc biệt. Trong mỗi một sản phẩm du lịch luôn tồn tại hai yếu tố vật chất và phi vật chất. Nó phong phú và đa dạng, đa chủng loại, đa lọai hình với mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách du lịch. Yếu tố tạo nên tính phi vật chất sản phẩm du lịch: Thứ nhất: Trình độ, thái độ, phong cách phục vụ của nhân viên đối với khách du lịch. Nhân viên vụ phải có kiến thức sâu về chuyên môn, có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phán đoán tâm từng đối tượng khách (giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, tôn giáo, quốc gia .v.v.v..), nền văn hóa từng vùng, miền, lãnh thổ .v.v.v... để đưa ra cách phục vụ tối ưu nhất. Nếu các nhân viên phục vụ có các kỹ năng trên khi phục vụ sẽ đem lại nhiều lợi ích cho chính doanh nghiệp mình và cho du khách. Tránh cho khách có sự hiểu lầm và xung đột về sắc tộc tôn giáo. Bên cạnh đó là nét ứng xử văn hóa "thân thiện, cở mở, hiếu khách" của người dân nơi có điểm du lịch. Thứ hai: Không gian, vị trí thưởng thức sản phẩm du lịch. Mỗi sản phẩm du lịch muốn hấp dẫn khách phải có một không gian, vị trí phù hợp tức là chúng ta phải biết cách tạo hiệu ứng, cách trang trí ấn tượng, bắt mắt, tuân thủ các giá trị văn hóa thẩm mỹ. Không gian, vị trí càng hợp lí, hiểu quả thì chất lượng sản phẩm càng đẹp, thậm chí nó truyền thụ được các giá trị mà sản phẩm du lịch muốn hướng tới khách. Thứ ba: Sự kết hợp của các hợp phần văn hóa du lịch: Văn hóa của khách du lịch trong mối quan hệ với sản phẩm du lịch, văn hóa cộng đồng dân cư nơi có điển du lịch; văn hóa của người làm du lịch thể hiện qua cách "sản xuất" các sản phẩm, dịch vụ du lịch; văn hóa của bản thân người làm văn hóa thể hiện qua trình độ thẩm mỹ, kiến thức lịch sử văn hóa trong du lịch. Đối với sản phẩm du lịch văn hóa, yếu tố phi vật chất chính là những cộng hưởng của nhiều giá trị văn hóa cộng hưởng lại. Theo TS. Trần Nhoãn, để trở thành sản phẩm du lịch văn hóa đúng nghĩa thì bản thân sản phẩm đó phải tồn tại các giá trị " độc đáo, đơn nhất, nguyên bản, huyền thọai, tâm linh" (Giáo trình Nghệp vụ Kinh doanh Du lịch Lữ hành – Nxb Chính trị Quốc gia, 2002). Hòn Vọng Phu (Lạng Sơn) trở thành một sản phẩm du lịch văn hóa khi nó mang trong mình giá trị lịch sử, huyền thoại, độc đáo (Nàng Tô Thị đứng bồng con chờ chồng). Nếu chúng không "khoác" lên nó những giá trị đó thì Hòn Vọng Phu chẳng qua chỉ là những tảng đá vô tri vô giác, một cái "xác vô hồn, vô cảm". Một ngôi chùa, một ngôi đình muốn trở thành một điểm thu hút khách du lịch một khi bản thân nó phải chứa đựng giá trị tâm linh của tôn giáo; độc đáo, đơn nhất của kiến trúc. Như vậy, trong một sản phẩm du lịch, yếu tố phi vật chất luôn chiếm tỷ trong cao hơn yếu tố vật chất. Và chính yếu tố tố phi vật chất quyết định tới lượng khách tới tham quan, giá trị của sản phẩm du lịch. Và là nhân tố quan trọng hàng đầu để các doanh nghiệp du lịch khai thác, tạo thương hiệu và cạnh tranh nguồn khách. Từ những phân tích trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm năng cao hiểu quả khai thác tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch. Thứ nhất: Nâng cao hơn nữa trình độ nhân lực du lịch, trình độ nhận thức của người dân tham gia họat động du lịch trong bối cảnh hội nhập. Ngoài kiến thức chuyên môn, những người làm du lịch phải có kỹ năng giao tiếp đạt chuẩn quốc tế, đi sâu tìm hiểu về kiến thức văn hóa lịch sử của từng dân tộc. Đối với những người quản l ý, điều này giúp cho họ có kiến thức cơ bản để tìm hiểu thị trường khách và đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp. Người phục vụ du lịch sẽ có cách "đối nhân xử thế", cách ứng xử linh họat hơn với từng đối tượng khách vì khi đi đi du lịch, mục đích chính của khách là thưởng thức cái "hồn" của sản phẩm. Cái "hồn" ấy cáng ấn tượng thì "sự quay lại" của khách là một tất yếu. Thực tế cho thấy Việt Nam, một quốc gia có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa, tài nguyên du lịch phong phú không kém gì các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Sinhgapo, Malaixia, thậm chí còn vượt trội hơn hẳn về "sự an toàn" song sự tham quan và quay lại của khách quốc tế là rất thấp. Cái mà ta thua họ chính là cách làm du lịch, cách nâng cao tính phi vật chất của sản phẩm du lịch. Vấn đề đặt ra là trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nhìn chung chúng ta vẫn còn nặng về l y thuyết, đặc biệt là môn Kỹ năng giao tiếp trong Du lịch học sinh, sinh viên chưa có những buổi thảo luận chuyên đề, các tình huống với những người có thâm niên trong ngành cũng như các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch nên khi đi làm, đặc biệt là phục vụ khách nước ngòai còn rụt rè, chưa có sự tin và bản lĩnh. Các môn bổ trợ như kiến thức về văn hóa, lịch sử, nhiều học sinh, sinh viên chỉ học đối phó mà chưa thấy được vai trò mà nó đem lại. Thậm chí một nhân viên lễ tân khi được khách du lịch hỏi về điểm du lịch, kiến thức văn hóa lịch sử của địa phương mình để đi tham quan cũng không biết trả lời làm cho khách bị thất vọng ngay từ lần đầu gặp. Sự yếu của nhân viên lễ tân đó kéo theo những thất bại về quảng cáo, tiếp thị "dây chuyền" trong thu hút khách. Muốn "phát triển du lịch bền vững", duy trì được "nguồn khách bền vững" thì khâu đầu tiên là phải tạo ra những "nhân lực du lịch bền vững". Thứ hai: Tạo không gian, quy họach du lịch phù hợp với từng lọai hình, sản phẩm du lịch. Không gian du lịch chung nhất chính là không gian "văn hóa trong du lịch". Những nhà làm du lịch cần phối kết hợp với chính quyền địa phương nơi có điểm du lịch giáo giục ý thức cho người dân thấy được vai trò mà khách du lịch quốc tế đem lại cho địa phương và bản thân mình đó là nguồn thu, việc làm, là cơ hội được mở rộng "cánh cửa nhận thức" để giao lưu, được học hỏi những hiện thực mới mẻ, những phong tục tập quán của các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Vì lợi ích trước mắt, tình trạng chèo kéo khách, chạy theo và ép khách mua hàng, tình trạng ăn xin làm đánh mất lòng tin ở khách du lịch về một quốc gia giàu truyền thống văn hóa. Và hiện nay chúng ta còn tồn tại tình trạng những người kinh doanh sản phẩm du lịch tại các điểm du lịch, khu du lịch cứ thấy khách du lịch mang nhãn hiệu "quốc tế" là ra sức "chặt, chém" khiến cho họ "một đi không trở lại". Điều này xuất phát từ nhận thức, từ sự kém hiểu biết và cho rằng khách du lịch quốc tế không hiểu gì về giá cả sản phẩm, dịch vụ du lịch tại nơi họ tham quan. Đó là quan điểm sai lầm ví hầu hết khách du lịch trước chuyến đi họ đều tìm hiểu trước hệ thống giá cả, dịch vụ tại nơi mình muốn đến. Lọai hình du lịch văn hóa dần đang chiếm chĩnh vị trí và cảm tình đối du khách nước ngoài. Tham gia lọai hình du lịch này, khách có cơ hội được tìm hiểu về lịch sử, phong tục tập quán của đất nước và con người Việt Nam "bốn ngàn năm lịch sử". Ấy vậy mà bản thân các sản phẩm du lịch văn hóa lại còn tồn đọng một số vấn đề đi ngược lại trình độ thẩm mỹ, kiến thức lịch sử văn hóa. Phục vụ khách du lịch cũng chính là mang cái Đẹp đến cho họ và cho bản thân mình. Vậy tại sao chúng ta, những người làm du lịch không nâng cao hiểu quả khai thác tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch để mang cái Đẹp cho khách du lịch. Có được cái Đẹp ắt sẽ thành công trong việc thu hút khách và tìm kiếm lợi nhuận. Phạm Trọng Lê Nghĩa (Tạp chí Du lịch Việt Nam - Số 11/207) TÀI LIỆU THAM KHẢO (Dùng để soạn bài giảng môn học) 1. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2000) – Kinh tế Du lịch & Du lịch học – NXB Trẻ - TP. Hồ Chí Minh 2. GS.TS Nguyễn Văn Đính (2004) – GT. Kinh tế Du lịch – NXB Lao động – Hà Nội 3. Luật Du lịch Việt Nam (1/2006) 4. Nguyễn Văn Lưu (1998) - Thị trường Du lịch – NXB Đại học Quốc gia – Hà Nội 5. Nguyễn Minh Tuệ (1999) - Địa lý du lịch – NXB TP. Hồ Chí Minh 6. PGS.TS Phạm Trung Lương (2000) - Tài nguyên và môi trường du lịch – NXB Giáo dục – Hà Nội 7. PGS.TS Phạm Trung Lương (2002) – Du lịch Sinh thái, Những vấn vấn đề về ý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam – NXB Giáo dục – Hà Nội 8. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2007) – ”Nâng cao hiểu quả khai thác tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2007, trang 53-54 9. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2008) – ”Để thể thao trở thành ”đòn bẩy” phát triển du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 10/2009, trang 28-29 10. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2008) – ”Phát huy nội lực học sinh, sinh viên ngành du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2008, trang 28-29 11. Phạm Trọng Lê Nghĩa (BD: Trọng Thanh) (2008) – ”Nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng công nghệ trong du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2008, trang 54-55 12. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2009) – ”Du lịch ảo – Món khai vị kích cầu” - Tạp chí Du lịch TPHCM, số 1/2009, trang 44-45 13. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2009) – ”Đi tìm sự gặp gỡ giữa cung và cầu trong lao động du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3/2009, trang 58- 59 14. Phạm Trọng Lê Nghĩa (2009) – ”Đi tìm sự gặp gỡ giữa cung và cầu trong lao động du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 4/2009, trang 58- 59 15. Trần Nhạn (1995) – Du lịch và kinh doanh du lịch – NXB Văn hóa thông tin – Hà Nội 16. Trần Nhạn (2002) - Nghiệp vụ Kinh doanh Lữ hành – NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 17. Tổng cục Du lịch (2002) - Non nước Việt Nam – NXB Văn hóa thông tin – Hà Nội 18. Trường THNV Du lịch Vũng Tàu (1998) - Công nghiệp Du lịch 19. Trang web: www.vtr.org.vn 20. Trang web: www.vietnamtourism.com.vn 21. Vũ Đức Minh (1999) - Tổng quan Du lịch – NXB Giáo dục – Hà Nội 22. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang Bài 1: Khái quát về hoạt động du lịch 6 1.1 Các khái niệm cơ bản về Du lịch 6 1.2 Lịch sử hình thành phát triển du lịch thế giới và Việt Nam 12 1.3 Vai trò của du lịch đối với nền kinh tế xã hội 26 Bài 2: Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển Du lịch 30 2.1 Điều kiện chung 2.1.1 An ninh chính trị - an toàn xã hội 30 2.1.2 Kinh tế 31 2.1.3 Văn hóa 34 2.1.2 Đường lối, chính sách phát triển du lịch 35 2.2 Điều kiện riêng 2.2.1 Tài nguyên du lịch 37 2.2.2 Nhân lực du lịch 43 2.3.3 Cơ sở hạ tầng – CSVCKT Du lịch 45 2.5.2 Các sự kiện đặc biệt 46 Bài 3: Các loại hình Du lịch 3.1 Căn cứ theo môi trường tài nguyên 3.1.1 Du lịch văn hóa 48 3.1.2 Du lịch sinh thái 49 3.2 Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ 3.2.1 Du lịch nội địa 51 3.2.2 Du lịch quốc tế 51 3.3 Căn cứ theo vị trí địa l ý 3.3.1 Du lịch nông thôn 51 3.3.2 Du lịch thành thị 52 3.3.3 Du lịch biển 52 3.3.4 Du lịch miền núi 52 3.4 Căn cứ theo hình thức tổ chức 3.4.1 Du lịch cá nhân 53 3.4.2 Du lịch theo đoàn 53 3.5 Căn cứ theo phương thức hợp đồng 3.5.1 Du lịch trọn gói 53 3.5.2 Du lịch từng phần 53 3.6 Căn cứ theo phương tiện vận chuyển 3.6.1 Du lịch đường bộ 54 3.3.2 Du lịch đường thủy 54 3.3.3 Du lịch đường không 54 3.7 Căn cứ theo mục đích chuyến đi 3.7.1 Theo mục đích chung 55 3.7.2 Theo mục đích riêng 56 3.7.2 Theo trách nhiệm 58 Bài 4: Các lĩnh vực kinh doanh & sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch 59 4.1 Các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch 4.1.1 Kinh doanh lữ hành 59 4.1.2 Kinh doanh lưu trú 60 4.1.3 Kinh doanh ăn uống 60 4.1.4 Kinh doanh vận chuyển 60 4.1.5 Kinh doanh dịch vụ bổ sung 6 4.2 Sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch 4.2.1 Khái niệm 62 4.2.2 Phân loại 63 4.2.3 Đặc điểm 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
File đính kèm:
- bai_giang_tong_quan_du_lich_pham_trong_le_nghia.pdf