Bài tiểu luận Lịch sử Triết học

Tóm tắt Bài tiểu luận Lịch sử Triết học: ...Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển Đức đưa ra được những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng, nó không đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên. Nếu các nhà tư tưởng pháp... của triết học sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta xuất phát từ luận điểm:” Các sự vật phải phù hợp với nhận thức của chúng ta” (nhận thức tiên nghiệm duy tâm-N.V.H). Điều này sẽ đáp ứng tốt hơn cái việc mà triết học đòi hỏi là phải có được tri thức tiên nghiệm về vật tự nó”. Như vậy, với ý đồ xây... Mỗi nhóm được sắp xếp theo trình tự : chính đề – phản đề – hợp đề. Giữa 4 khối có mối liên hệ bên ngoài bên trong, chiều hướng cách thức. Cantơ cho đây là những phạm trù cơ bản để từ đó triển khai ra những phạm trù mới, đáp ứng đòi hỏi của khoa học và hoạt động của con người. Bởi vì, Cantơ...

pdf25 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 321 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài tiểu luận Lịch sử Triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 phân tích, và lý tính. 
3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm 
trong toán học. 
 Cấp độ đầu tiên của quá trình nhận thức, theo Cantơ, gắn liền với lý thuyết 
về không gian và thời gian. 
 Không phải là sự vật hiện tượng tồn tại một các khách qua trong không gian 
và thời gian, khái niệm không gian và thời gian được hình thành nhờ cảm tính chủ 
quan xác định khi có sự vật tồn tại và được lĩnh hội. 
 Như vậy – thời gian xuất hiện là do cảm giác chủ quan. Nhưng cái gây nên 
cảm giác chủ quan và chính cảm giác đó lại ở bên ngoài, cho nên không gian và là 
cái có trước kinh nghiệm, là điều kiện cho mọi kinh nghiệm có thể xảy ra chúng là 
những khái niệm tiên thiên. Không gian là hình thức bên ngoài của kinh nghiệm 
cảm tính tiên nghiệm. 
Hình thức nhận thức cảm tính theo Cantơ chính là cấp độ phán đoán tổng hợp tiên 
nghiệm trong toán học, không gian thời gian là nền tảng cho toán học. Theo 
Cantơ, các biểu tuợng không gian là cơ sở của tri thức hình học : Thời gian là 
biểu tượng của tri thức số học và đại số. 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 16
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
 3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận 
thức của khoa học tự nhiên lý thuyết. 
 Trong cấp độ thứ nhất của nhận thức, theo Cantơ, do những sự vật khách 
quan tác động đến giác quan của chúng ta mà xuất hiện những cảm giác lộn xộn. 
Những cảm giác lộn xộn đó được trực giác cảm tính đưa vào trật tự không gian 
thời gian, trở thành các tri giác. Những tri giác đó còn mang tính chủ quan của cá 
thể. Để chúng trở thành kinh nghiệm tức trở thành một cái gì đó khách quan hơn 
thì nhận thức phải bước lên hình thức cao hơn – giác tính. 
 Tư duy sử dụng khái niệm phạm trù là tư duy của giác tính phân tích. Đây 
là loại hoạt động tư duy khoa học, nó có nhiệm vụ quy tụ các tri giác đa dạng biến 
các tri giác cảm tính thành những tri thức khách quan được mọi người thừa nhận 
 Để làm được điều đó, trước hết giác tính phải xây dựng một hệ thống các 
phạm trù. 
 Cantơ nêu lên 12 phạm trù, chia thành bốn nhóm, mỗi nhóm 3 phạm trù, 
Những phạm trù đó là : 
 Các phạm trù Lượng : thống nhất, đa dạng chỉh thể. 
 Các phạm trù Chất : hiện thực, phủ định, giới hạn. 
 Các phạm trù Quan hệ : cố định và tồn tại độc lập. Quan hệ nhân quả và 
phụ thuộc, tiếp xúc. 
 Các phạm trù tình thái: khả năng, tồn tại, tất yếu. 
 Ở hệ thống phạm trù đó, trong mỗi nhóm và giữa các nhóm phạm trù dù 
chưa có sư tương tác biện chứng thực sự, song về hình thức đã có được các tố của 
các mối quan hệ, ràng buộc có tính biên chứng. Mỗi nhóm được sắp xếp theo trình 
tự : chính đề – phản đề – hợp đề. Giữa 4 khối có mối liên hệ bên ngoài bên trong, 
chiều hướng cách thức. 
 Cantơ cho đây là những phạm trù cơ bản để từ đó triển khai ra những phạm 
trù mới, đáp ứng đòi hỏi của khoa học và hoạt động của con người. Bởi vì, Cantơ 
viết : “ đối với tôi, điều quan trọng khong phảilà đưa ra một hệ thống đầy đủ các 
phạm trù, mà chỉ là sự đầy đủ có tính nguyên lý của hệ thống”. 
 Nhưng các phạm trù mới chỉ đơn thuần lànhững hình thức của tư tưởng 
chưa bao chứa một nội dung nào cả. Vì thế, để có nội dung và trở thành tri thức 
các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính. Cantơ coi nhiệm vụ 
cơ bản ở đây là dùng phép phán đoán tiên nghiệm các phạm trù, tức vận dụng 
chúng vào kinh nghiệm quy tụ các tư liệu cảm tính đa dạng dưới sự thống nhất của 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 17
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
khái niệm, và bằng cách khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy cảm và duy 
lý trước đây. 
 Cantơ kết luận : Không một hình thức cảm tính trực giác nào, không một 
phạm trù khoa học nào, thậm chí không một loại tri thức nào dù cao đến đâu, lại 
có thể xác định được, với tới được thế giới khách quan. Giới tự nhiên với tư cách 
là đối tượng của tri thức phổ biến và tất yếu từ phía các hình thức của tri thức 
được xây dựng nên bằng chính tri thức của chúng ta. Chúng ta chỉ nhận thức thế 
giới đó. Nhận thức của khoa học tự nhiên lý thuyết cũng chỉ nằm trong khuôn khổ 
tri thức đó mà thôi. 
3.1.5 Lý tính ( hay biện chứng tiên nghiệm ). Về khả năng của siêu hình học. 
 Vấn đề cơ bản thứ ba trong triết học phê phán của Cantơ là vấn đề khả năng 
phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học, tức là trong triết học tự biện. 
Đây cũng chính là vấn đề về năng lực biện chứng tiên nghiệm. 
 Luật tương phản ( antinomi) 
 Lý tính con người luôn khao khát vươn tới lĩnh vực vật tự nó để đạt tới tri 
thức tuyệt đối. Song quá trình vươn tới tri thức đó luôn luôn nẩy sinh những mâu 
thuẫn, những nghịch lý( antinomi). 
 Cantơ khẳng định có 4 antinomi cơ bản của lý tính. Mỗi antinomi đuợc kết 
cấu từ 2 luận đề đối lập : Dĩ nhiên, học thuyết antinomi của Cantơ có nhiều hạn 
chế. Ông chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng của con người, chưa thấy mâu 
thuẫn luôn luôn tồn tại trong thế giới tự nhiên. Các atinomi đó chưa hoàn toàn là 
những mâu thuẫn biện chứng, vì giữa các chính đề và phản đề của chúng chưa có 
sự thống nhất và chuyển hoá lẫ nhau. Giải quyết mâu thuẫn cũng không phải chỉ 
dừng lại ở việc phân tích từng mặt đối lập rồi kết luận đúng sai như ông đã làm. 
Trên thực tế, quá trình nẩy sinh và giả quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự 
vật phát triển. 
 Tuy nhiên, học thuyết biện chứng tiên nghiệm bao hàm nhiều tư tưởng tích 
cực. Ông thấy antinomi là bản chất của lý tính con nguời chứ không phải những 
lỗi lôgic thông thường. Cantơ là người đầu tiên tìm cách bao quat toàn bộ những 
nguyên lý tư duy đối lập nhau của thời đại trên quan niệm thống nhất, vạch ra 
những vấn đề còn bỏ ngỏ trong các vấn đề về bản chất của tư duy. Hêghen đánh 
giá rằng “ việc tìm ra các antinnomi cần đươc xem như một thành tựu rất quan 
trọng của nhận thức, bởi bằng việc đó..vận động biện chứng của tư duy đựơc đề 
cao’’. 
3.2 Triết học thực tiễn. 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 18
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
 Nếu triết học lý thuyết nghiên cứu khả năng nhận thức của con người, thì 
triết học thực tiễn nghiên cứu các hoạt động thực tiễn của con người nhằm giải 
đáp vấn đề “ tôi cần phải làm gì? ’’. 
 Nếu nhận thức của con người chỉ dừng lại ở giới hạn hiện tượng luận, thừa 
nhận vật tự nó là bất khả tri, thì trong hoạt động thực tiễn của mình, con người vẫn 
thường xuyên tác động đến các sự vật xung quanh ta, không chỉ nhận thức thế giới 
hiện tượng mà còn luôn hướng tới, vươn tới thế giới vật tự nó như là đối tượng 
hoạt động của mình. 
 Chính điều đó làm cho Cantơ thấy quan hệ giữa triết học lý thuyết và triết 
học thực tiễn trở nên hết sức phức tạp. Một mặt, ông muốn xây dựng một hệ thống 
triết học thực tiễn thực sự khoa học. Mặt khác, “ thực tiễn’’ theo Cantơ, về cơ bản 
độc lập với quá trình nhận thức của con người. Bản thân thực tiễn cũng được 
Cantơ hiểu theo hiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đó là toàn bộ các hoạt động chính trị, 
pháp quyền, văn hoá của con người. Mặc dầu thiếu xót của Cantơ trong lĩnh vực 
này là ở chỗ, hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất hầu như chưa được ông quan 
tâm. 
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ. 
 Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với học 
thức và giáo dục của Rutxo, Cantơ cho rằng, các nguyên lý đạo đức là độc lập với 
mọi lĩnh vực hoạt động khác của con nguời. Nếu trong triết học lý thuyết, cảm 
giác là nguồn gốc duy nhất của tri thức, của giác tính với các phạm trù và quy luật 
của hiện tượng luận, thì ở đây, lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên 
tắc và chuẩn mực đạo đức. Trong lĩnh vực này, “ các nguyên lý cảm tính nói 
chung không thích hợp để có thể từ đó người ta xây dựng nên các quy luật đạo đức 
’’. 
 Nguyên lý đạo đức cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm 
theo yêu cầu của lý trí, cái mà Cantơ gọi là “ mệnh lệnh tuyệt đối ’’. Mệnh lệnh 
tuyệt đối đòi hỏi người ta phải hành động như thế nào đó để những hành vicủa 
mình phù hợp với một pháp chế – phổ biến : Mỗi người hãy hành động tới mức tối 
đa sao cho điều đó được đưa vào cơ sở pháp chế phổ biến’’. 
 Theo Cantơ, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh 
tuyệt đối nói trên mới được coi là hành động có đạo đức. Cụ thể,một mệnh lệnh 
tuyệt đối đòi hỏi hoạt động của con người phải tuân theo các quy tắc sau: 
- Mỗi ngưòi đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý muốn 
sao cho ai cũng lam được như thế. 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 19
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
- Mỗi người đều có quyền và cần cho phép người khác cũng có được quyền 
như thế, đồng thời tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó. 
- Mỗi người điều có quyền và cần phải ngăn chặn những người khác hành 
động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong khả năng có thể làm được. 
 Phạm trù trung tâm của đạo đức học của Cantơ là Tự do. Hai mạt mâu thuẫn 
trong con người của đạo đức theo quan niệm của Rútxô được Cantơ giải quyết 
bằng cách ông chuyển cái đạo đức trong tình cảm, lương tâm thành mệnh lệnh 
của lý trí. Cái lý trí mà ông hiểu là có sức mạnh từ bên ngoài. Thực chât, sự vươn 
tới đạo đức của cpn người đối với Cantơ chính là khát vọng vươn tới Tự do – hiểu 
theo con người vươn tới các ý niệm phổ quát và tất yếu cũng như theo nghĩa con 
người vươn tới lý tưởng cao đẹp của mình. 
 Ngay từ cuối thời kỳ Tiền phê phán, Cantơ đã hình thành tư tưởng chia lý 
tính ra những thành tố khác nhau, tư đó hình thành các bộ phận khác nhau trong 
triết học. Bất kỳ một triết học nào theo ông cũng hoặc là triết học lý thuyết hoặc là 
triết học thực tiễn. Triết học lý thuyết là ly luận về nhận thức và từ đó tim ra 
nguyên tắc nhận thức. Triết học thực tiễn là lý luận về phẩm hạnh và tim ra 
nguyên tắc vươn tới phẩm hạnh – sự lựa chọn Tự do. Sự khác nhau giữa hai loại 
triết học đó là do ở đối tượng của chúng. Đối tượng của triết học lý thuyết chủ yếu 
là thế giới hiện tượng, của triết học thực tiễn là hành vi tự do và phẩm hạnh tự do 
– vươn tới vật tự nó. 
 Tự do như vậy có thể hiểu theo ba cấp độ: 
 1. là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giới tính hoạt động độc lập đối 
với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện luận. 
 2. Là cái tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận, nơi ma 
mọi cái điều diễn ra một cách tất yếu. 
 3. Tự do với tư cách là cái thuộc lĩnh vực vật tự nó. Nếu trong lĩnh vực hiện 
tượng luận, tự do chỉ là tương đối thì trong lĩnh vực vật tự nó tự do là tuyệt đối. 
 Tóm lại, đạo đức học của Cantơ tuy có nhiều điểm duy tâm, không mang vì 
tính phi lịch sử phi giai cấp cũng như thiếu cơ sở thực nghiệm nhưng nó chữa 
đựng nhiều tang nhân đạo sâu sắc. Đối lập với những quan niệm ích kỷ, thực 
dụng, hẹp hòi, nó là sự kết tinh những giá trị đạo đức chugcủa loài người trong 
lịch sử, đồng thời thể hiện những khát vọng của giai cấp tư sản ở Đức cuối thế kỷ 
XVIII đầu thế kỷ XIX nhằm giải phóng con người khỏi gông cùm của chế độ 
phong kiến, xây dựng một xã hội mới, đem lại tự do và hạnh phúc cho loài người. 
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền. 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 20
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
 Các lĩnh vực lịch sử, xã hội pháp quyền của con người được Cantơ coi lĩnh 
vực đạo đức học ứng dụng ; vì theo ông, con người vơi tư cách là chủ thể đạo đức 
tích cực được thể hiện trong lĩnh vực đó. 
 Các quan niệm về lịch sử, xã hôi, pháp quyền của Cantơ, một mặt có ý 
nghĩa triết học và xã hội to lớn, mặt khác nó mang tinh hai mặt và mâu thuẫn. 
 Chịu ảnh hưởng của các nhà cách mạng tư sả pháp, Cantơ cụ thể hoá mệnh 
lệnh tuyệt đối trong đạo đức học thành theo yêu cầu chung ở mọi lĩnh vực thực 
tiễn: chính tri, xã hôi. Mỗi người hãy hành đông sao cho tự do của bạn phải tồn tại 
cùng với tự do của tất cả mọi người. 
 Quan niệm về lịch sử, xã hội:Lịch sử, theo Cantơ là phương thức tồn tại của 
loài người mà cụ thể là của từng cá nhân như một chủ thể. lịch sử chính vì vậy tập 
trung cao ở lịch sử xã hội. Một mặt, lịch sử là quá trình mà ở đó, bằng hoạt động 
của chính mình, con người ngay càng phát triển bản chấtvà khả năng của mình ; 
mặt khác, đây là lĩnh vực để con người thể hiện mục đích và lý tang đạo đức. Cho 
nên, tiến trình lịch sử nhân loại là sự tiếp tục cho quá trình phát triển của lịch sử tự 
nhiên, nó diễn ra theo hướngngày càng tiến bộ và hoàn thiện, nó gạt bỏ dần những 
cản trở và đi ngược lại nó. Cách mạng tư sản pháp là môt bằng chứng điển hình về 
điều đó : Nó tiêu diệt ché độ chuyên chế bất công mở đường cho xã hội tiến lên 
một bước mới. 
 Quan niệm về nhà nước, pháp quyền: Theo Cantơ, nhà nước là công cụ liên 
kết mọi thành viên của nó vào khuôn khổ pháp luật, nhằm giám sát và bảo đảm sự 
tự do và bình đẳng cho mọi công dân. Sự hình thành nhà nước một mặt là do khế 
ước mặt khác đó là sự hình thành có tính tất yếu, do yêu cầu xã hội yêu cầu – con 
người đòi hỏi. Theo Cantơ nói đến nhà nước là nói đến nhà nước pháp quyền nhân 
dân tập hợp lại để thực hiện tự do và bình đẳng Cantơ con cho rằng: Chế độ cộg 
hoà là chế độ phù hợp nhất với nhu cầu phát triể của xã hội, nhằm mục đích vì 
hạnh phúc con người 
 Quan niệm về quyền sở hữu và bình đẳng: Phát triển quan điểm tư sản về xã 
hội, Cantơ bảo vệ chế độ tư hữu và cố gắng củng cố nó bằng những lập luận theo 
kiểu tư sản : Sự tồn tại của xã hội tư sản là có tính tiên thiên, tính tự nhiên và do 
đó nó có tính bất khả xâm phạm. Ông chứng minh rằng, quyền tư hữu tài sản là có 
nguồn gốc tiên thiên do đó nó là vĩnh cửu, phổ biến và tuyệt đối câng thiết. 
 Cantơ cũng nêu lên tư tưởng độc đáo và sâu sắc về quyền bình đẳng của con 
người. Bình đẳng không phải là về tài năng mà là về cơ hội để phát triển và áp 
dụng tài năng ông cũng xác định là có quyền độc lập của người công dân. Nhưng 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 21
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
quyền độc lập đó được ông hiểu theo kiểu cá nhân chủ nghĩa vốn có trong xã hội 
tư sản. 
 Cantơ chia nhân dân trong xã hội ra hai loại nguời: Người công dân và 
người chỉ có quốc tịch. Người chỉ có quốc tịch không hề có một quyền thông 
thường nào trong xã hội. Người lao động thuộc loại người này. 
 Quan niện về hoà bình về chiến tranh : Trong cuốn “Về hoà bình vĩnh viễn 
’’1975 Cantơ kêu gọi tất cả các dân tộc hãy thiết lập mối quan hệ hoà bình hữu 
nghị. Ông phê phán các thế lực phản động ở Tây âu cuối thế kỷ XVIII đang liên 
kết chống cách mạng tư sản Pháp. Theo Cantơ, các cuộc chiến tranh nhiều khi phá 
hoại chuẩn mực đạo đức con người. Ông khẳng định “không cần có bất kỳ một 
cuộc chiến tranh nào cả.’’ cho nên ông kêu gọi tất cả các quốc gia trên hành tinh 
hãy đoàn kết xây dựng một “liên bang’’ tất cả các dân tộc trong khi vẫn đảm bảo 
cho mỗi dân tộc được độc lập và tự do về chính trị. Xây dựng một thế giới hoà 
bình và hữu nghị theo những lý tang nhân đạo cao cả phải được coi là mục đích 
cap đẹp nhất.Song ông lại thấy rằng việc thực hiện mục đích đó trong tình hình 
hiện tại có tính chất là một nghĩa vụ luân lý luôn là một nghĩa vụ lịch sử cụ thể 
 Với những tư tang nêu trên Cantơ thự sự là người đặt nền móng cho nhiều 
quan niệm duy vật lịch sử sau này của Mác –Engen 
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người 
 Mặc dù có mâu thuẫn, có tính chủ quan và tính hình thức của nó, mỹ học 
của Cantơ vẫn là một sự đề xuất mới với những ý tưởng sâu sắc và độc đáo, là một 
bước tiến rất quan trong trong sự phat triển tư tưởng thẩm mỹ. Lý thuyết về thiên 
tài nghệ thuật mặc dù dựa trên cơ sở duy tâm chủ nghĩa, nhưng về mặt nhận thức 
luận lại quan trọng ở chỗ nó bác bỏ xu hướng tĩnh quan đặc tính của lý thuyết sao 
chép tự nhiên. Xu hướng chủ yếu trong phếp phân tích cái đẹp thuần khiết là xu 
hướng hình thức, nhưng phép phân tích ấy cũng vạch rõ chỗ khác nhau giữa chủ 
nghĩa duy tâm siêu nghiệm nói về timnhs tất yếu và tính phổ biến của phê phán 
thẩm mỹ – với xu hướng tương đối chủ nghĩa của cảm giác luận duy tâm chủ 
quan. Với lý thuyết về cái đẹp nương tựa –cái cao cả chứng tỏ trong chừng mực 
nào đó, Cantơ đã tiến sát tới quan niệm biện chứng và những phạm trù thẩm mỹ 
và mối liên hệ lẫn nhau giữa những yếu tố khách quan và cgủ quan trong những 
khái niệm thẩm mỹ. 
 Cũng như các nhà tư tưởng khác Cantơ muốn trả lời câu hỏi: Con người từ 
đâu đến và nó sẽ đi về đâu? cái gì đang đợi nó?và nó sẽ đi tơi tương lai như nthế 
nào. 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 22
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
 Đối với chúng ta khog ai chờ đón chỉ ở một cá nhân lại có thể trả lời được 
câu hỏi lớn lao của cả loài người. Điều quan trọng là những vấn đề đã được nhà 
triết học nêu lên Cantơ đã đi sâu vào các quan hệ con ngưòi không chỉ từ khía 
cạnh nhận thức luận mà cả khiá cạnh bản thể luận, làm rã quan hệ tác động qua lại 
giữa cái sinh học và cái xã hộ trong con người. Nếu Cantơ chưa giải quyết được 
những vấn đề đó tì chỉ là vì ông chưa giải quyết được chúng trên cơ sở lý luận 
nhận thức duy vật biện chứng và duy vật lịch sử một cách triệt để. 
 Ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu con người của Cantơ là ở chỗ, Cantơ 
đã: Thứ nhất, quan tâm đặc biệt tới những điều kiện tự nhiên – vật chất của sự nảy 
sinh và sự phát triển xã hội ; Thứ hai, Xây dựng học thuyết về vai trò của tính mâu 
thuẫn xã hộivà tính đối kháng như là động lực của tiến trình lịch sử;Thứ ba, tin 
vào tiến bộ xã hội và thắng lợi của các yếu tố đạo đức trong con người; thứ tư, 
xem mục đích của lịch sử là xây dựng một xã hội công bằng và con người phát 
triển hài hoà. 
 Các qua điểm của Cantơ về tiến trình lịch sử là một trong những bứoc tiến 
lớn lao trên con đường loài người xây dựng lý thuyết duy vật –Biện chúng về sự 
phát triể 
 C. KẾT LUẬN 
Giá trị lớn lao trước hết của triết học Cantơ là nó đã đặt ra một loạt vấn đề 
căn bản của nhận thức luận, về phương pháp biện chứng,về nguồn gốc của những 
khái niện và các phạm trù lôgíc chủ yếu và vị trí của chúng trong tư duy khoa học 
cũng như trong quá trình nhận thức. 
Cantơ cũng đã đề xuất nhiều tư tưởng có ý nghĩa quan trong trong các lĩnh 
vực chính trị, xã hội, pháp quyền, những vấn đề tôn giáo, chiến tranh và hoà 
bìnhTrên con đường tim tòi đó Cantơ đã đư ra nhiều tư tưởg mới mẻ có ý nghĩa 
vạch thời đại 
Đóng góp quan trọng của Cantơ là đã phát ra được bức tranh của quá trình 
nhận thức qua ba giai đoạn từ thấp đến cao. Công lao của Cantơ là đã khẳng định 
tính phổ biến của các cặp phạm trù tìm ra những yếu tố của mối liên hệ biện 
chứng giữa các cặp phạm trù đó, Cantơ là một trong những người đầu tiên trong 
lịch sử triết học đặt ra ván đề mâu thuẫn trong nhận thức luận giải vân đề đó theo 
tinh thần biện chứng. 
 Ý tưởng nhân đạo của triết học Cantơ cho đến hôm nay vẫn còn nguyên 
tính chất thời sự. No cho ta phương pháp nhìn nhận t ương lai để đấu tranh chống 
lại chủ nghĩa phi nhân đạo của thuyết vị khoa học-kỹ thuật hiện đại: chống lại 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 23
Cơ 
Bài tiểu luận: Lịch sử Triết học 
quan niệm tách biệt mâu thuẫn và đối lập giữa tiến bộ khoa học –công nghệ với 
tiến bộ xã hội loài người; và ý ghĩa lớn lao nhất có tính quyết định có tính nhân 
loại bao trùm nhất là nó cho ta thấy rằng, ý nghĩa cuộc sống con người không phải 
là cái gì trừu tượng mà là thực tiễn cụ thể ; hơn nữa, không chỉ là cụ thể của hiện 
tại mà còn của tương lai, của những khả năng. 
2. Tài liệu tham khảo: 
 - Giáo trình Lịch sử Triết học, Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, NXB GDHN 
2001 
 - Giáo trình Lịch sử Triết học, Học viện Báo chí tuyên truyền - Khoa Triết 
học xuất bản năm 1998 
 - Lịch sử triết học, tập 1,2,3 - NXB Tư tưởng văn hoá Hà Nội 1992 
 - I.Kant các tác phẩm gồm VI tập Maxcơva 1963 - 1966 
 - V.F.Axmut. Mỹ học I.Kant - NXB nghệ thuật Maxcơva 1962 
 - A.A Karapetian Phân tích phương pháp triết học I.Kant erevan 1958 
 - Triết học I.Kant và thời đại Maxcơva 1974 
 - Triết học cổ điển Đức, NXB sự thật Hà Nội 1963 
Nguyễn Quốc Võ K16 Cao học Hoá Hữu 24
Cơ 

File đính kèm:

  • pdfbai_tieu_luan_lich_su_triet_hoc.pdf