Bàn về trình độ sáng tạo trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam
Tóm tắt Bàn về trình độ sáng tạo trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam: ...này vẫn quy định việc có thể cấp patent cho các quá trình vi sinh vật hoặc các sản phẩm của chúng [9]. Nhưng điều A4(2) tại Chỉ thị công nghệ sinh học của Cộng đồng châu Âu 1998 (Biotechnology Directive 98/44/EC) lại quy định có thể cấp patent cho giải pháp kỹ thuật, nếu giải pháp này ...ữa lành vết thương mãn tính và cấp tính [14]. - Dữ kiện đã biết: phản ứng của cơ thể đối với thuốc (pharmacokinetics) liên quan đến đặc tính sinh học của củ nghệ; - Trình độ sáng tạo của sáng chế: + Thực nghiệm cho thấy quá trình lành vết thương trên da có liên quan đến các tế bào nội ...xin là hoạt chất chính được đề cập trong patent CN 1227102A như đã nêu trên, do đó tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt của sáng chế thuốc cai nghiện ma túy là không đạt trình độ sáng tạo so với patent đối chứng CN 1227102A. - Mặt khác, giải pháp kỹ thuật nêu trong bản mô tả sáng chế ...
Độ. - Khoản 6 điều 59 Luật SHTT quy định tương đồng với Công ước sáng chế châu Âu 1973 có thể cấp patent cho các quá trình vi sinh. Khác biệt: quy định của Hoa Kỳ cấp patent theo nguyên tắc sáng tạo trước (first to invent) là khác biệt với quy định của Ấn Độ, Việt Nam và một số quốc gia khác. Nguyên tắc này có lợi cho Hoa Kỳ, bởi vì sự tồn tại độc lập của từng hoạt chất thảo dược (mà các nước đang phát triển sở hữu) được coi là không mới, không đạt trình độ sáng tạo, nhưng sự tổ hợp của nhiều hoạt chất thảo dược lại được coi là đạt trình độ sáng tạo (an inventive nature), nếu giải pháp kỹ thuật mà nó giải quyết không phải là sự kết hợp đơn giản của các giải pháp kỹ thuật đã biết. Từ đó, không quá khó để nhận thấy các phòng thí nghiệm công nghệ dược phẩm tiên tiến của các nước phát triển cho phép họ dễ dàng thực hiện việc tổ hợp này, nhưng ngược lại trình độ công nghệ dược phẩm lạc hậu của các nước đang phát triển lại khó thực hiện các thí nghiệm tương tự. Dẫn đến về mặt kinh tế là có lợi cho các nước phát triển và bất lợi cho các nước đang phát triển. 3. Nghiên cứu trường hợp thực tiễn 3.1. Trường hợp sáng chế có liên quan đến củ nghệ tại nước ngoài Bài viết lấy trường hợp sáng chế về củ nghệ (gọi tắt là sáng chế nghệ), sáng chế này có liên quan đến Ấn Độ và Hoa Kỳ để nghiên cứu. T.V.Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 67 Như đã biết, gần như tất cả các gian bếp của người Ấn Độ đều xuất hiện củ nghệ, tác dụng chữa bệnh đa dạng của nghệ đã được người Ấn Độ biết đến 5 ngàn năm nay, nhưng ngày 28.3.1995 Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (US Patent and Trademark Office - USPTO) đã cấp sáng chế nghệ mang ký hiệu US 5.401.504 cho hai đồng tác giả sáng chế là công dân Hoa Kỳ gốc Ấn Độ, trong đó Harihar Cohly là nhà nghiên cứu miễn dịch (immunologist) và Suman K. Das là bác sĩ phẫu thuật (surgeon). Các nhà khoa học Ấn Độ đã phản ứng quyết liệt trước quyết định của USPTO. Trước hết cần thấy rằng những thông tin về tác dụng dược lý của nghệ đã được Ấn Độ lưu giữ tại Thư viện số về tri thức truyền thống (Traditional Knowledge Digital Library), như vậy giải pháp kỹ thuật này là không mới, vấn đề còn lại cần phải nghiên cứu để trả lời câu hỏi giải pháp kỹ thuật mà patent US 5.401.504 đề cập có đạt trình độ sáng tạo hay không? Khi tra cứu trong cơ sở dữ liệu của USPTO [13], chúng tôi đã thu được những thông tin chính về sáng chế này như sau: S Số hiệu patent US5401504 A Số hiệu đơn patent 08/174.363 Ngày cấp patent 28.3.1995 Ngày nộp đơn 28.12.1993 Ngày ưu tiên 28.12.1993 Tác giả sáng chế Harihar Cohly, Suman K. Das Chủ sở hữu patent University of Mississippi Medical Center - Bản chất của sáng chế: sáng chế đề cập đến việc sử dụng nghệ để tăng cường quá trình chữa lành vết thương mãn tính và cấp tính [14]. - Dữ kiện đã biết: phản ứng của cơ thể đối với thuốc (pharmacokinetics) liên quan đến đặc tính sinh học của củ nghệ; - Trình độ sáng tạo của sáng chế: + Thực nghiệm cho thấy quá trình lành vết thương trên da có liên quan đến các tế bào nội mô, những tế bào này không phân chia dễ dàng nhưng lại phát triển nhanh chóng nếu có tác động của dược lý. + Thực nghiệm cho thấy nghệ là một loại dược lý có tác dụng đẩy nhanh quá trình phân bào nguyên nhiễm của các tế bào nội mô. Như vậy, USPTO đã cho rằng sáng chế đã đạt trình độ sáng tạo và đã cấp patent cho nó. Nhưng thực chất, giải pháp mà sáng chế nghệ đề cập không chỉ ra được đặc tính khác biệt của nghệ so với những đặc tính đã biết của nghệ. Việc chỉ ra quá trình lành vết thương trên da có liên quan đến các tế bào nội mô và nghệ có tác dụng làm các tế bào nội mô phát triển không thể coi là đạt trình độ sáng tạo, mà đây chỉ là các thí nghiệm chứng minh tác dụng của nghệ, người Ấn Độ đã biết các tác dụng này của nghệ, tuy nhiên trình độ y học của họ chưa thể chỉ ra mối quan hệ giữa nghệ và tế bào nội mô. Như vậy, trình độ sáng tạo (nếu có) trong trường hợp này thuộc về lĩnh vực y học (ví dụ miễn dịch học hoặc ngoại khoa) chứ không thuộc lĩnh vực dược học, mà sáng chế nghệ thì lại thuộc lĩnh vực dược học. Cần lưu ý thêm, theo quy định của pháp luật thì không thể cấp patent đối với phương pháp chữa bệnh cho người. Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp (Council for Scientific and Industrial Research - CSIR) New Delhi đã đại diện cho Chính phủ Ấn Độ phản đối quyết định của T.V. Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 68 USPTO. CSIR đã dẫn các văn bản được lưu giữ và chứng minh patent US5401504A không mới và không đạt trình độ sáng tạo. Trong vụ này CSIR phải chi khoảng 12.000 USD cho dịch vụ pháp lý. Ngày 13.8.1997 USPTO đã ra quyết định hủy patent US5401504A. 3.2. Trường hợp bị từ chối cấp patent tại Việt Nam Để có tư liệu viết bài này, tác giả đã nghiên cứu 3 sáng chế từ nguồn Công báo sở hữu công nghiệp số 242 tập A (phát hành tháng 5.2008) và số 267 tập A (phát hành tháng 6.2010). Tài liệu do công báo đăng tải không thuộc diện giữ bí mật. 3.2.1. Sáng chế thuốc đông y chữa đau thắt động mạch vành Giải pháp yêu cầu bảo hộ đề cập đến thuốc đông y chữa đau thắt động mạch vành chứa các thành phần đan sâm, tam thất, huyết kiệt, băng phiến tổng hợp (boméon) và polyetylen glycol. Đã biết: - Bài thuốc “Gia vị ích tâm thang” đăng trong sách Thiên gia diệu phương do Viện Thông tin thư viện Y học Trung ương phát hành năm 1989 chứa các thành phần đan sâm, tam thất, huyết kiệt, đẳng sâm, hoàng kỳ, cát căn - Huyết kiệt được biết có tác dụng tán ứ, sinh tân, hoạt huyết, làm hết đau dùng trong trường hợp đau ngực, đau bụng, trừ tà khí trong ngũ tạng đăng trong “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” do Nhà xuất bản Y học phát hành 2005; Đánh giá: người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực đông y có thể dễ dàng kết hợp huyết kiệt với tam thất, băng phiến và đan sâm để thu được thuốc đông y chữa bệnh đau thắt động mạch vành theo giải pháp nêu trong đơn yêu cầu bảo hộ. Như vậy, yêu cầu bảo hộ không đáp ứng trình độ sáng tạo quy định tại điều 25.6.c Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN, do đó sáng chế bị từ chối cấp patent. 3.2.2. Sáng chế thuốc đông y chữa bệnh ra mồ hôi trộm ở trẻ em Giải pháp yêu cầu bảo hộ đề cập đến thuốc đông y chữa bệnh ra mồ hôi trộm ở trẻ em chứa các thành phần dược liệu thục địa, hoài sơn, sơn thù, mẫu đơn, bạch phục linh, trạch trả, ngũ vị tử, mạch môn, đại táo, ma hoàng căn, đường kính trắng, đường lactoza. Đã biết: - Bài thuốc “lục vị địa hoàng hoàn” đăng trong sách Phương tễ học giảng nghĩa do Nhà xuất bản Y học phát hành năm 1994 có tác dụng bổ can thận dùng để chữa các triệu chứng liên quan đến thận âm bất túc, hư hỏa bốc lên, xương nóng đau, váng đầu, chóng mặt, ra mồ hội trộm ở trẻ em, tự ra mồ hôi, đa mộng tinh, tiêu khát, lưỡi khô có chứa các thành phần thục địa, hoài sơn, sơn thù, đơn bì, bạch linh, trạch trả, nếu bổ sung thêm mạch môn, ngũ vị thì gọi là “mạch vị địa hoàng hoàn” dùng để chữa chứng phế thận âm hư, ho ra máu, sốt đêm ra mồ hôi, lao phổi. - Vị thuốc ma hoàng căn được biết có tác dụng điều trị ra mồ hôi và đại táo có tác dụng trị hư phiền, mất ngủ, tự ra mồ hôi. Đánh giá: người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực đông y có thể dễ dàng kết hợp đại táo và ma hoàng căn với bài thuốc “lục vị địa hoàng hoàn” để thu được thuốc đông y chữa bệnh ra mồ hôi trộm ở trẻ em theo giải pháp yêu cầu bảo hộ nêu trong đơn. Như vậy, sáng chế bị từ chối cấp patent vì không đáp ứng trình độ sáng tạo quy định tại điều 25.6.c Thông tư 01/2007. T.V.Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 69 Qua phân tích 2 sáng chế trên cho thấy chúng không đạt trình độ sáng tạo bởi vì giải pháp kỹ thuật mà sáng chế đề cập chỉ là sự kết hợp đơn giản của các giải pháp kỹ thuật đã biết với chức năng, mục đích và hiệu quả cũng là sự kết hợp đơn giản chức năng, mục đích và hiệu quả của từng giải pháp kỹ thuật đã biết. Bài viết xin phân tích trường hợp dưới đây để chứng minh sáng chế không đạt trình độ sáng tạo khi tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt mang tính hiển nhiên, không được coi là sáng tạo so với giải pháp kỹ thuật đã biết. 3.2.3. Sáng chế thuốc cai nghiện ma túy Bản mô tả sáng chế nêu: thuốc cai nghiện ma túy được tạo ra từ việc sử dụng độc tố cá nóc (tetrodotoxin, saxitoxin ở dạng dung dịch chiết được tách từ gan và trứng cá nóc độc) kết hợp với các thảo dược với tỷ lệ phối chế tetrodotoxin, saxitoxin 20mg, đẳng sâm 20mg, hoàng kỳ 12mg, thục địa 20mg, đương quy 12mg, viễn chí 8mg, toan táo nhân 16mg, bình vôi 8mg, trần bì 12mg, mộc hương 12mg, sa nhân 12mg, đan sâm 12mg, xuyên khung 12mg, xích thược 12mg và tá dược 80mg. Thuốc không chỉ loại bỏ được sự đòi hỏi của cơ thể đối với các loại thuốc gây nghiện như thuốc phiện, ma túy và các chất gây nghiện khác mà còn tăng khả năng miễn dịch của cơ thể. Đã biết tetrodotoxin là hoạt chất chính có tác dụng cai nghiện được đề cập trong patent CN 1227102A do Trung Quốc cấp ngày 09.6.1998. Đánh giá: - Người có trình độ trung bình trong lĩnh vực dược phẩm liên quan đến độc tố thần kinh như tetrodotoxin, saxitoxin cũng biết rằng trong các loài cá nóc ở Việt Nam lượng saxitoxin đồng thời có trong dịch chiết xuất là rất nhỏ so với tetrodotoxin, vấn đề này đã được nêu trong tài liệu Nghiên cứu độc tố trong một số loài cá nóc độc ở biển Việt Nam do Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản công bố ngày 10.4.2008. Xin lưu ý tetrodotoxin là hoạt chất chính được đề cập trong patent CN 1227102A như đã nêu trên, do đó tập hợp các dấu hiệu cơ bản khác biệt của sáng chế thuốc cai nghiện ma túy là không đạt trình độ sáng tạo so với patent đối chứng CN 1227102A. - Mặt khác, giải pháp kỹ thuật nêu trong bản mô tả sáng chế thuốc cai nghiện ma túy không chỉ ra tác dụng khác biệt của saxitoxin trong thành phần của thuốc, đồng thời cũng không chỉ ra tác dụng cai nghiện của các thảo dược trong thành phần của thuốc. Như vậy, sáng chế không đạt trình độ sáng tạo so với giải pháp đã biết mà patent CN 1227102A đề cập, theo quy định tại Điều 25.6 Thông tư 01/2007 sáng chế bị từ chối cấp patent. 4. Giải pháp cho vấn đề nghiên cứu 4.1. Giải pháp pháp lý đối với trình độ sáng tạo của bài thuốc cổ truyền Trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, Việt Nam nên sớm ban hành quy định pháp luật về việc văn bản hóa các bài thuốc cổ truyền theo kinh nghiệm của Ấn Độ đã xây dựng Thư viện số về tri thức truyền thống (Traditional Knowledge Digital Library) [15] đồng thời cũng thỏa mãn quy định của Công báo Hiệp ước hợp tác về sáng chế (PCT) về hướng dẫn tìm kiếm quốc tế. Làm được điểm này, chúng ta sẽ loại bỏ nguy cơ các quốc gia khác chiếm đoạt bài thuốc cổ truyền của Việt Nam. Trên bình diện pháp luật quốc tế, như đã biết kể từ năm 2003 Cơ quan Liên Hợp Quốc về hợp tác và phát triển (UNCTAD) đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các quốc gia chậm phát triển (Least developed countries), do đó T.V. Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 70 Việt Nam không được hưởng quy chế cho phép lùi thời hạn chuyển tiếp bảo hộ sáng chế đối với các quốc gia chậm phát triển đến 2016 như đã nêu trong Điều 7 Tuyên bố riêng về TRIPS và sức khỏe cộng đồng của Hội nghị Bộ trưởng Doha (The Doha Declaration on TRIPS and Public Health, paragraph 7). Như vậy, việc Việt Nam cần ban hành các quy định của pháp luật cho phù hợp với quy định của TRIPS (trong đó có cả các ngoại lệ về sáng chế dược phẩm) là điểm cần dự tính. Hiệp định TRIPS quy định ngoại lệ đối với bảo hộ sáng chế dược phẩm trong một số trường hợp, trong đó có sáng chế liên quan đến giống động thực vật. Tuyên bố Doha đã nhấn mạnh “việc thi hành và giải thích Hiệp định TRIPS theo cách hỗ trợ sức khỏe cộng đồng bằng cách thúc đẩy cả việc tiếp cận dược phẩm hiện có và sáng chế ra các dược phẩm mới” [16], xét trên khía cạnh kinh tế thì quy định này mang lại lợi ích cho các quốc gia có nền công nghiệp dược phẩm phát triển. Về trình độ sáng tạo của bài thuốc cổ truyền nên tham khảo điều A4(2) Chỉ thị công nghệ sinh học của Cộng đồng châu Âu 1998 quy định có thể cấp patent cho giải pháp kỹ thuật, nếu giải pháp này không giới hạn trong một giống thực vật cụ thể. Như vậy, nếu trong trường hợp pháp luật Việt Nam quy định có thể cấp patent cho giải pháp kỹ thuật có liên quan đến giống thực vật thì cần cụ thể hóa Điều 25.6.c Thông tư 01/2007 theo hướng: giải pháp kỹ thuật được coi là đạt trình độ sáng tạo nếu chức năng, mục đích và hiệu quả của giải pháp đó không giới hạn trong một giống thực vật cụ thể. 4.2. Giải pháp kỹ thuật đối với trình độ sáng tạo của bài thuốc cổ truyền Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy các đơn đăng ký sáng chế có liên quan đến bài thuốc cổ truyền của Việt Nam bị từ chối bảo hộ vì mất tính mới và/hoặc không đạt trình độ sáng tạo theo quy định của Thông tư 01/2007. Để sáng chế bài thuốc cổ truyền đạt trình độ sáng tạo được bảo hộ, cần thực hiện các giải pháp về mặt kỹ thuật bằng cách loại bỏ yếu tố “hiển nhiên” khi đánh giá trình độ sáng tạo của bài thuốc cổ truyền, với các yêu cầu cụ thể: - Chứng minh được việc tạo ra sáng chế bài thuốc cổ truyền không thuộc tiến trình phát triển thông thường của công nghệ, không mang tính đơn giản hoặc logic từ các giải pháp kỹ thuật đã biết; - Chứng minh sáng chế bài thuốc cổ truyền là sự kết hợp các giải pháp kỹ thuật đã biết với nhau theo cách không hiển nhiên, do đó sáng chế bài thuốc cổ truyền đạt trình độ sáng tạo. 5. Kết luận Trình độ sáng tạo là một trong các điều kiện để sáng chế bài thuốc cổ truyền được cấp patent, việc bảo hộ các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học, mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội. Để các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam được bảo hộ, rất cần nghiên cứu kinh nghiệm, tham khảo pháp luật quốc tế, pháp luật của một số quốc gia trong lĩnh vực có liên quan, để chỉnh sửa các quy định hiện hành của pháp luật về SHTT.,. Tài liệu tham khảo [1] Trần Văn Hải, Tính mới trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc cổ truyền của Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Chuyên san Luật học, Tập 29, Số 2 (2013) 81-89. T.V.Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học,Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 71 [2] WIPO, Report on Fact-finding Missions on IP and Traditional Knowledge, Geneva (2001), p.25: Categories of traditional knowledge could include: medicinal knowledge, including related medicines (Phạm trù tri thức truyền thống có: y học cổ truyền, trong đó có liên quan đến y tế). [3] Xin tham khảo thêm: Jerry I.-H. Hsiao, Queen Mary Intellectual Property Research Institute, University of London, Patent Protection for Chinese Herbal Medicine Product Invention in Taiwan (Bảo hộ patent đối với sáng chế bài thuốc thảo dược Trung Hoa tại Đài Loan), The Journal of World Intellectual Property (2007) Volume 10, number 1, p. 1–21. [4] Biswas, K., I. Chattopadhyay, R. K. Banerjee, U., Bandyopadhyay, Biological Activities and Medicinal Properties of Neem (Azadirachta indica) - Các hoạt động sinh học và dược tính của Neem (Azadirachta indica), Current Sciense, ISSN 1336-1345 (2002), 82. [5] Xin tham khảo thêm mục Total Patents on Neem (tổng số patent được cấp cho cây neem) của các tác giả Ompal Singh, Zakia Khanam, Jamal Ahmad, Neem (Azadirachta indica) in Context of Intellectual Property Rights, Recent Research in Science and Technology, volume 3(6), ISSN 2076-5061 (2011), 80. [6] Jiang F. The Problem with Patents. Traditional Knowledge and International IP Law (Vấn đề đối với Bằng độc quyền sáng chế. Tri thức truyền thống và Luật Sở hữu trí tuệ quốc tế), Harvard International Review, ISSN 0739-1854 (2008) 30. Lợi nhuận mà Eli Lilly & Company thu được mỗi năm đến 20 tỷ USD là con số đến khó tin, bởi vậy tác giả (Trần Văn Hải) xin trích nguyên văn bằng tiếng Anh được ghi tại trang 30 của tài liệu đã nêu: “ Eli Lilly & Company isolated two extracts from Madagascar’s rosy periwinkle (vinblastine and vincristin) that have since become powerful drugs - one to treat childhood leukaemia, and the other to treat Hodgkin’s disease. Together, these drugs generate over 20 billion US dollars in revenue each year”. [7] PCT Gazette International Search Guidelines, Chapter VI, paragraph 1.2. quy định: “traditional knowledge can be used internationally only if the oral accounts are substantiated by a written description” (tri thức truyền thống có thể được sử dụng quốc tế chỉ khi nếu nó được chứng minh thông qua mô tả bằng văn bản). [8] Dennis v Pitner 106 F 2d 142 (7th Cir 1939) 308 US 606/1939 150 [9] Article 53 (b) of the EPC: patent shall not be granted: “For plants or animals varieties or essentially biological processes for the production of plants or animals; this provision does not apply to microbiological processes or the products thereof” (Điều 53b. EPC quy định không cấp patent đối với giống thực vật hoặc giống động vật hoặc các quá trình sinh học cơ bản để sản xuất thực vật hoặc động vật, quy định này không áp dụng cho các quá trình vi sinh vật hoặc các sản phẩm của chúng. [10] A 4(2) Biotechnology Directive 98/44/EC: “Inventions, which concern plants or animals, shall be patentable if the technical feasibility of the invention is not confined to a particular plant or animal variety” (Các sáng chế đề cập đến thực vật hoặc động vật, có thể được cấp patent nếu giải pháp kỹ thuật của sáng chế không giới hạn bởi một giống thực vật cụ thể hoặc giống động vật). [11] Trần Văn Hải (2013), bài đã dẫn. [12] Tham khảo và cụ thể thêm từ: Swaireeta Dutta, The Turmeric Patent is just the first step in stopping Biopiracy (Các Bằng độc quyền sáng chế nghệ chỉ là bước đầu tiên trong việc ngăn chặn Biopiracy), School of Law, Kalinga Institute of Industrial Technology, Bhubaneswar, India (2011). [13] [14] Nguyên văn tiếng Anh: the present invention relates to the use of turmeric to augment the healing process of chronic and acute wounds. [15] Trần Văn Hải (2013), bài đã dẫn. [16] T.V. Hải / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 62-72 72 Discussion on the Innovative Level in Patent Protection for Vietnamese Traditional Medicine Products Trần Văn Hải VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam Abstract: The research proposes the solution so that Vietnam’s traditional medicine products can be able to reash the level where patent is granted in accordance with the law, at the same time to guarantee the legal rights and interests of Vietnam concerning the traditional medicine products when other countrys have the tendency to appropriate the traditional knowledge. To achieve this objective, the article focuses on such tasks as: - To analyze the regulations under international law, the law of Vietnam and other countries in order to find out the differences and inadequacies for the assessment of innovative level of Vietnamese trasitional medicine products. - To analyze practical cases occurred abroad and in Vietnam when assessing the innovative level of the traditional medicine products, analyzing reasons in the legal perspective that leads to the fact that a number of applications of registering the protection of the innovation and patent of the Vietnam traditional medicine products has been denied - To propose the solutions to achieve the research objectives. Keywords: Innovative, patent protection, traditional medicine products.
File đính kèm:
- ban_ve_trinh_do_sang_tao_trong_viec_bao_ho_sang_che_doi_voi.pdf