Bí quyết nghe tiếng Anh tốt

Tóm tắt Bí quyết nghe tiếng Anh tốt: ...nghe lại rồi chép ra nhiều chừng nào hay chừng nấy nhớ là đừng tra cứu tự điển hay tìm hiểu nghĩa vội. Đoán nghĩa trong nội dung câu, và nhớ lại âm thanh của từ, hay cụm từ đó, sau này tự nó sẽ rõ nghĩa, nếu trở đi trở lại hoài. (Ngày xưa, trên đài VOA, sau mỗi chương trình tôi thường nghe m...t sounds very different! Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và từ mà ta nghe là „oubou‟ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ không cần phải tra từ điển!) Ps: Đây cũng là vấn đề „hiểu‟ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch được tiếng ấy ra ...ai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc You're joking/kidding! Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể được hiểu l...

pdf14 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bí quyết nghe tiếng Anh tốt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iờ mới khám phá rằng những câu mình viết thì 
ai cũng hiểu, như khi mình nói thì chỉ có mình và  Thượng Đế hiểu thôi, còn 
 người bản xứ (tiếng Anh) thì „huh - huh‟ dài cổ như cổ cò! 
Sau thời gian dài thật dài, mình khám phá rằng mình từng biết tiếng Anh, và nói ra 
thì người khác hiểu tàm tạm, nhưng khi họ nói thì mình không nghe được gì cả 
(nghĩa là nghe không hiểu gì cả). Lúc bấy giờ mới tập nghe, và rồi đành bỏ cuộc vì 
cố gắng mấy cũng không hiểu được những gì người ta nói. 
Vấn đề là ở đó: chúng ta đã học tiếng Anh ngược với tiến trình tự nhiên, vì quá 
thông minh và có quá nhiều kinh nghiệm. Tiến trình ấy là Viết - Đọc - Nói - Nghe! 
Vì thế, muốn nghe và nói tiếng Anh, chuyện đầu tiên là phải quên đi kinh nghiệm 
và trí thông minh, để trở lại trạng thái „sơ sinh và con nít‟, và đừng sử dụng quá 
nhiều chất xám để phân tích, lý luận, dịch thuật! 
Bí quyết nghe A. Nghe thụ động: 
1. - „Tắm‟ ngôn ngữ. Nghe không cần hiểu: Hãy nghe! Đừng hiểu. 
Bạn chép vào CD một số bài tiếng Anh (vì dụ từ trên forum này). Mỗi bài có thể 
dài từ 1 đến 5 phút. 
Khi nào bạn ở nhà một mình, thì mở các bài đó ra vừa đủ nghe, và cứ lặp đi lặp lại 
mãi ra rả như âm thanh nền suốt ngày. Bạn không cần để ý đến nó. Bạn cứ làm 
việc của mình, đánh răng, rửa mặt, học bài làm bài, vào internet với tiếng lải 
nhải của bài tiếng Anh. (thậm chí, trong lúc bạn ngủ cũng có thể để cho nó nói). 
Trường hợp bạn có CD player, USB player hay iPod, thì đem theo để mở nghe khi 
mình có thời gian chết - ví dụ: di chuyển lâu giờ trên xe, đợi ai hay đợi đến phiên 
mình tại phòng mạch. 
 Công việc „tắm ngôn ngữ‟ này rất quan trọng, vì cho ta nghe đúng với từng âm của 
một ngôn ngữ lạ. Tai của chúng ta bắt rất nhanh một âm quen, nhưng loại trừ 
những âm lạ. Ví dụ: Nếu bạn nghe câu: „mặt trời mọc cánh khi chim voi truy cập 
chén chó‟, một câu hoàn toàn vô nghĩa, nhưng bảo bạn lặp lại thì bạn lặp lại được 
ngay, vì bạn đã quá quen với các âm ấy. Nhưng khi một người nói một câu bằng 
chừng ấy âm (nghĩa là 11 âm/vần), trong ngôn ngữ bạn chưa từng học, và bảo bạn 
lặp lại thì bạn không thể nào lặp lại được, và bảo rằng không nghe được! (Bạn 
có điếc đâu! Vấn đề là tai bạn không nhận ra được các âm!) Lối 'tắm ngôn ngữ' đó 
chỉ là vấn đề làm quen đôi tai, và sau một thời gian (lâu đấy chứ không phải vài 
ngày) bạn sẽ bắt được các âm của tiếng Anh, và thấy rằng âm ấy rất dễ nghe, 
nhưng hoàn toàn khác với âm Việt. Đừng nản lòng vì lâu ngày mình vẫn không 
phân biệt âm: hãy nhớ rằng bạn đã tắm ngôn ngữ tiếng Việt ít ra là 9 tháng liên tục 
ngày đêm trước khi mở miệng nói được tiếng nói đầu tiên và hiểu được một hai 
tiếng ngắn của cha mẹ; và sau đó lại tiếp tục 'tắm ngôn ngữ' Việt cho đến 4, 5 năm 
nữa! 
2 - Nghe với hình ảnh động. 
Nếu có giờ thì xem một số tin tức bằng tiếng Anh (một điều khuyên tránh: đừng 
xem chương trình tiếng Anh của các đài Việt Nam, ít ra là giai đoạn đầu, vì xướng 
ngôn viên Việt Nam, phần lớn, nói rất gần với âm Việt Nam (kể cả 
pronounciation), nên mình dễ quen nghe, và từ đó lỗ tai mình lại hỏng, về sau lại 
khó nghe người bản xứ nói tiếng Anh - thế là phải học lại lần thứ hai!). Các hình 
ảnh đính kèm làm cho ta „hiểu‟ được ít nhiều nội dung bản tin, mà không cần phải 
„dịch‟ từng câu của những gì xướng ngôn viên nói. Bạn sẽ yên tâm hơn, sau khi 
nghe 15 phút tin tức, tự tóm lược lại, thì mình thấy rằng mình đã nắm bắt được 
phần chính yếu của nội dung bản tin. Và đây là cách thư hai để tắm ngôn ngữ. 
B. Nghe chủ động. 
 1. Bản tin special english: 
- Thu một bản tin, và nghe lại rồi chép ra nhiều chừng nào hay chừng nấy nhớ là 
đừng tra cứu tự điển hay tìm hiểu nghĩa vội. Đoán nghĩa trong nội dung câu, và 
nhớ lại âm thanh của từ, hay cụm từ đó, sau này tự nó sẽ rõ nghĩa, nếu trở đi trở lại 
hoài. 
(Ngày xưa, trên đài VOA, sau mỗi chương trình tôi thường nghe một cụm từ 
tương tự như: statue, statute hay statu gì đó, mà không biết viết thế nào, tuy vẫn 
hiểu đại loại là: hãy đợi đấy để nghe tiếp. Mãi sau này tôi mới biết rằng thuật ngữ 
rất quen thuộc ấy là 'stay tune', nhưng một thời gian dài, chính tả của chữ ấy đối 
với tôi không thành vấn đề!) 
2. Chăm chú nghe lại một số bài mình từng nghe trong giai đoạn „tắm ngôn ngữ‟ 
- Lấy lại script của những bài mình từng nghe, đọc lại và nhớ lại trong tưởng 
tượng lời đọc mà mình từng nghe nhiều lần. 
Sau đó xếp bản script và nghe lại để hiểu. Lần này: tự nhiên mình sẽ nghe rõ từng 
tiếng và hiểu. Trường hợp không hiểu một từ hay cụm từ, thì gắng lặp lại nhiều lần 
đúng như mình đã nghe, sau đó lật lại script để so sánh. 
3. Một số bài Audio trong Forum này: nghe nhiều lần, trước khi đọc script. Sau 
đó, đọc lại script, chủ yếu kiểm tra những từ mình đã nghe hoặc đoán, hoặc những 
từ mà mình có thể phát âm lại nhưng không hiểu viết và nghĩa thế nào. Qua việc 
này, nhiều khi ta phát hiện rằng một từ mình rất quen thuộc mà từ xưa đến nay 
mình cứ in trí là phải nói một cách nào đó, thì thực ra cần phải nói khác hẳn và 
phát âm như thế thì mới mong nghe đúng và nói cho người khác hiểu. Sau đó, xếp 
bản script và nghe lại một hai lần nữa. (Ví dụ: hai chữ tomb, bury, khi xưa tôi cứ 
đinh ninh là sẽ phát âm là 'tôm-b(ơ), bơri' - sau này nghe chữ 'tum, beri' tôi chẳng 
hiểu gì cả - dù cho tôi nghe rõ ràng là tum, beri -cho đến khi xem script thì mới vỡ 
 lẽ!) 
4. Học hát tiếng Anh, và hát theo trong khi nghe. 
Chọn một số bài hát mà mình thích, tìm lyrics của nó rồi vừa nghe vừa nhìn lyrics. 
Sau đó học thuộc lòng và hát song song với ca sĩ, và gắng phát âm cũng như giữ 
tốc độ và trường độ cho đúng. Khi nào buồn buồn cũng có thể tự hát cho mình 
nghe (nếu không có giọng tốt và hát sai giọng một tí cũng không sao, vì chủ yếu là 
tập phát âm, tốc độ, trường độ và âm điệu tiếng Anh). 
Và nói cho đúng giọng (qua hát) cũng là một cách giúp mình sau này nhạy tai hơn 
khi nghe, vì thường thường ngôn ngữ trong các bài hát khó nghe hơn những câu 
nói bình thường rất nhiều. 
-------------- 
Trước khi tạm dừng topic này, tôi muốn nói thêm một điều. 
Có bạn bảo rằng hiện nay mình chưa hiểu, nên cố gắng nghe nhiều cũng vô ích, để 
mình học thêm, khi nào có nhiều từ vựng để hiểu rồi thì lúc đó sẽ tập nghe sau. 
Nghĩ như thế là HOÀN TOÀN SAI. Chính vì bạn chưa hiểu nên mới cần nghe 
nhiều hơn những người đã hiểu. Muốn biết bơi thì phải nhảy xuống nước, không 
thể lấy lý do rằng vì mình không thể nổi nên ở trên bờ học cho hết lý thuyết rồi thì 
mới nhảy xuống, và sẽ biết bơi! Chưa biết bơi mà xuống nước thì sẽ uống nước và 
ngộp thở đấy, nhưng phải thông qua uống nước và ngộp thở như thế thì mới hy 
vọng biết bơi. 
Muốn biết bơi, thì phải nhảy xuống nước, và nhảy khi chưa biết bơi. Chính vì 
chưa biết bơi nên mới cần nhảy xuống nước. 
 Muốn biết nghe và hiểu tiếng Anh thì phải nghe tiếng Anh, nghe khi chưa hiểu gì 
cả! Và chính vì chưa hiểu gì nên cần phải nghe nhiều. 
Nghe tiếng Anh và "nghe" tiếng Anh 
1. "Nghe" trong ngữ cảnh. 
Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình nghe một diễn từ. 
Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm thanh đã nghe, rồi dần dần hiểu 
được một từ mới, khi nó xuất hiện trong nhiều nội dung khác nhau (nếu cả năm 
mình mới nghe từ đó một lần, có nghĩa là từ ấy không thông dụng và, trong giai 
đoạn này, ta không cần phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần (âm 
thanh) „oubou‟ mà không hiểu nghĩa, lần lượt trong những câu sau: 
- To play the „oubou‟ you need to have strong arms. 
- The „oubou‟ is considered one of the most difficult instruments to play. 
- The „oubou‟ is very difficult to play, because Karen must force air at very high 
pressure into the tiny double reed. 
Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm „oubou‟ chỉ cái gì, nhưng vì đi với play nên bạn 
đoán rằng đó là một cái gì để „chơi‟. Như thế là đã „hiểu‟ một cách tổng quát. Lần 
2, với từ „instrument‟ bạn biết rằng đó là cái để „chơi‟ nhưng không phải là trong 
thể thao, mà là trong âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ „must force air‟ thì ta biết 
rằng đó là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ không phải là nhạc cụ dây hay gõ 
Và ta tạm hiểu như thế, mà không cần biết phải viết thế nào, cho đến khi đọc câu 
sau (chẳng hạn): 
The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different! 
Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như clarinet, và từ mà ta 
nghe là „oubou‟ thì được viết là oboe (và ta đọc đúng ngay chứ không cần phải tra 
từ điển!) 
 Ps: Đây cũng là vấn đề „hiểu‟ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu dịch được 
tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng không có gì sai cho bằng. Nếu bạn học theo 
quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy dưới dạng chữ viết, bạn sẽ tra từ điển 
và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy hài lòng vì mình đã hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn 
không phải là một nhạc sĩ, thì „kèn ô-boa‟ cũng chẳng thêm gì trong kiến thức bạn. 
Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng với khái niệm mơ hồ về một từ, nhưng 
khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm giác sai lầm là phải trở lại với từ mẹ đẻ mới 
gọi là hiểu. Đối với tôi, nightingale là một loại chim có tiếng hót hay và thường 
hót vào ban đêm, còn có dịch ra là „sơn ca‟ hay „họa mi‟ thì cũng bằng thừa, vì tôi 
chưa bao giờ thấy và biết chim „sơn ca‟ hay „họa mi‟. Thậm chí không biết là có 
phải một loài chim hay hai loài chim khác nhau, vì cả hai từ đều được dịch là 
nightingale. 
2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh. 
Ta thường nghĩ rằng: „một từ thì có một nghĩa nhất định‟. Hoàn toàn sai. 
- Thử tra từ „tiêu cực‟ trong từ điển: negative. Như thế, „một cán bộ tiêu cực‟ phải 
được dịch là „a negative cadre‟! Nếu cụm từ tiếng Việt có ý nghĩa rõ ràng thì cụm 
từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn toàn vô nghĩa! Nói cách khác: khi người 
Anh nói „negative‟, thì người Việt hiểu là „tiêu cực‟; nhưng khi người Việt nói 
„tiêu cực‟, thì người Anh không thể hiểu là „negative.‟ 
- Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu không đặt vào 
trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng câu chuyện xảy ra ở Anh hay ở 
Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể hiểu sai: Ở Anh là lúa mì, và ở Mỹ là bắp! 
Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói „Oh my! No more gas‟ thì ta 
hiểu ngay rằng „gas‟ chính là „xăng‟, mặc dù trước đó mình có thể học: petrol hay 
gasoline mới là xăng, còn gas có nghĩa là khí đốt! 
 Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình cũng hiểu đúng. 
Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho tôi 30.000 dầu! Tôi cam đoan là 
người ta không thắc mắc gì cả và sẽ đổ XĂNG chứ không đổ DẦU vào xe bạn; 
cao lắm là trong 100 lần, thì một lần người ta nhắc lại: đổ xăng phải không? Bạn 
nói là Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng. Và trong tiếng Anh cũng thế! Bạn sẽ hiểu 
một từ trong toàn bộ bối cảnh của nó. 
3. Nghe với tất cả giai điệu của câu. 
Trong phần đầu tôi nói rằng khi „nghe‟ một câu, chủ yếu là làm sao nắm bắt được 
thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác, ngôn ngữ có nhiệm vụ là truyền 
tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền tin thì còn một nhiệm vụ thứ hai, vô cùng quan 
trọng, ấy là nhiệm vụ truyền cảm (truyền một tình cảm). Một câu nói giao tiếp 
hằng ngày, luôn chuyển tải một phần của thất tình (= bảy tình cảm con người, chứ 
không phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Vì thế, cao độ, tốc độ, 
cường độ của câu nói, trường độ (độ dài) và dấu nhấn của một từ, có thể là điều 
mình cần phải „nghe‟ cùng một lúc với các âm thanh được phát ra, thậm chí nghe 
âm điệu là chính. Nếu không thì ta hiểu sai, hoặc không hiểu gì cả. Đừng tưởng 
rằng khi ta nghe được từ „hate‟ là ta hiểu ngay: ghét! 
Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này không phải lúc 
nào cũng là „Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu nào đó thì có thể hiểu là: Tôi 
căm thù anh; hay Thôi, để tôi yên; hay Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh 
làm em cảm động quá; thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng! 
Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây: 
I didn‟t say Paul stole my watch! 
Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 khác nhau, mỗi cách nhấn một từ ( I - 
didn‟t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa sẽ khác nhau hoàn toàn: 
I didn‟t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!) 
 I didn‟t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that) 
I didn‟t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I didn't SAY) 
v.v 
Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên hiểu (và nói đúng) cao độ 
của một từ (nói đúng các dấu); thế nhưng khi một người nước ngoài học tiếng 
Việt, chúng ta phải khổ công giải thích cho họ lên giọng, xuống giọng, uốn giọng 
như thế nào để nói các dấu sắc, huyền, nặng, hỏi - ngã (do học nghe bằng tai nên 
người Nam và người Trung đồng hóa ? và ~, trong khi người Bắc phân biệt chúng 
rõ ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải nghe toàn bộ âm điệu để 
nắm bắt những tình cảm bên dưới câu nói. 
Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu hay thành ngữ 
một cách chính xác như người bản ngữ, mà không cần phải dịch ra. Ví dụ: các câu 
ngắn như: Oh my God! Look at this! Hoặc No way! Hoặc You're joking/kidding! 
Với giọng điệu khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể được hiểu là một 
tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay bất bình, chấp thuận 
hay từ chối! 
Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa, chứ không chỉ 
đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan trọng đến công ty bạn, bạn 
chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng và đúng nghi thức (formal): Would you 
please (to) take a seat? Thế nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một âm điệu 
nào đó khiến người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì ngỡ rằng bạn 
diễu cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà rằng bạn nói đơn sơ: 
Sit down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười 
nồng hậu, thì không ai lầm bạn! Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái độ 
căng thẳng và giọng nói cộc cằn (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn nhiều. 
4. Nghe với những gì một từ bao hàm. 
Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm. Vì thế, mỗi danh 
từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa kèm theo một tình cảm 
(connotation). Các từ this gentleman, this man, this guy, this rascal đều có một 
denotation như nhau là một người nam nào đó, nhưng connotation thì hoàn toàn 
khác; cũng như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a woman, a 
girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với một đảng viên 
đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều dịu dàng 
cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì từ ấy gợi lên bao nhiêu điều xấu xa, 
độc ác! Trong khi denotation của nó chỉ là một triết thuyết như trăm ngàn thuyết 
thuyết khác, mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ định triết 
thuyết do Karl Marx đề ra! 
Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều từ đồng nghĩa 
(synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms đích thực cả: chỉ tương 
đương trong denotation chứ connotation hoàn toàn khác (và cũng vì thế mà không 
bao giờ có hai từ hoàn toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn ngữ khác nhau: 
mother/father không hoàn toàn là cha/mẹ - và mummy/daddy không hoàn toàn là 
ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người Việt và người 
Anh). "Nghe" tiếng Anh, chính là biết nghe những connotations trong các thuật 
ngữ mình nghe. 
Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai đoạn nghe để 
quen với các âm. Trong giai đoạn „nghe‟ tiếng Anh này, phải bớt giờ nghe tin tức 
mà xem phóng sự hoặc các phim truyện. Trên thế giới, các speakers của các 
chương trình tin tức buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là không được dùng 
 từ kèm theo tình cảm, và không được xử lý âm điệu để nói lên tình cảm của mình, 
vì thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức thôi thì ta bỏ sót một phần khá 
chủ yếu trong tiếng Anh. 
(Trái lại thông tín viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm mình 
trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là thông tín viên vui mừng 
hay bực tức, tán đồng hay bất đồng, với nội dung bản tin mình đọc. Còn người viết 
bản tin thì dùng những từ có connotation: ví dụ trước kia, khi nói đến một tổng 
thống Mỹ thì bao giờ cũng là „tên Kennedy‟ hoặc „tên tổng thống Kennedy‟. Còn 
hiện nay thì „Ngài tổng thống Bush‟, mà ít khi nói một cách trung lập: Tổng 
Thống G. Bush. Trong khi đó, hầu như không bao giờ nghe trong một bản tin: „Cố 
chủ tịch Hồ Chí Minh‟, mà lúc nào cũng là „Bác Hồ‟. Thuật ngữ „Bác Hồ‟ mặc 
nhiện tiềm ẩn một tình yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ „cố chủ tịch Hồ 
Chí Minh‟, vốn là một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ „thất kính, xem 
thường‟ đối với „Chủ tịch Hồ Chí Minh‟!) 
5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm. 
Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì có thể phối hợp 
tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng bên dưới ngôn ngữ giao tiếp; và 
điều này hướng đến cách nghe văn học. Mọi ngôn ngữ đều gợi lên một cái gì đó 
vượt lên trên từ ngữ. Vì thế, thi ca là một ngôn ngữ đặc biệt. Người Việt nào, dù 
thích hay không thích, vẫn cảm được ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn nâng cao 
kỹ năng „nghe‟ tiếng Anh của mình thì cần tập nghe những bài thơ. Cho đến nay, 
khó tìm những bài thơ audio, nhưng không phải là không có. Tập nghe đọc thơ, 
dần dần, chúng ta sẽ cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm được vì 
sao cùng một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì 'hay' hơn cách kia. Bấy giờ ta mới 
có quyền nói: tôi đã „nghe‟ được tiếng Anh. 
 Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân Diệu đã sử dụng 
âm „r‟ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”: 
Những luồng run rẩy rung rinh lá 
Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind 
I saw you toss the kites on high 
And blow the birds about the sky; 
And all around I heard you pass, 
Like ladies‟ skirts across the grass.. 
Tác giả đã làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm „r‟ và „s‟ nối tiếp và 
quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc đáo của váy các mệnh phụ 
lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt Nam hoàn toàn không có kinh nghiệm, vì 
mọi nét yêu kiều đều gắn liền với tà áo dài). 
Kết luận: 
Tôi đã bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề „nghe‟ tiếng Anh. Tuy 
nhiên, tôi lặp lại, những gì tôi nói chỉ là lý thuyết, và không có lý thuyết nào có thế 
làm cho bạn nghe được tiếng Anh. Cách duy nhất ấy là bạn phải tự mình nghe và 
rút ra những phương pháp thích hợp với xu hướng, kinh nghiệm và sở thích của 
mình. 
Qua loạt bài này, tôi luôn đả phá cách nghe dựa trên viết và dịch. Thế nhưng, 
những điều tôi cho là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho bạn, vì những thứ ấy không 
cản trở mà còn giúp bạn những cột móc để bám vào. Vâng. Nếu các bạn thấy việc 
đọc script, hoặc học từ vựng, hoặc viết thành câu và tra từ điển - như vẫn làm từ 
trước đến nay - giúp cho bạn nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng phương pháp 
của mình. Tôi chỉ nhắc lại một điều này: 
 Tất cả những trợ giúp đó cũng giống như chiếc phao cho người tập bơi. Khi tập 
bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho dễ nổi, từ đó bạo dạn xuống 
nước mà tập bơi. Và không ít người bơi giỏi đã khởi sự như thế. Bạn cũng vậy, có 
thể những cách nghe từ trước đến giờ (nhìn script - học từ - kiểm tra văn phạm) 
giúp bạn những cột chắc chắn để bám vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ rằng: Chiếc 
phao giúp cho bạn nổi, nhưng không giúp cho bạn biết bơi. Đến một giai đoạn nào 
đó, chính chiếc phao lại cản trở bạn và không cho bạn bơi thoải mái. 
Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng nấy, nếu không nó trở thành một trở 
ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh và xa. 
Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng ấy, nếu không 
chúng sẽ cản trở bạn và bạn không bao giờ thực sự 'nghe' được tiếng Anh! 

File đính kèm:

  • pdfbi_quyet_nghe_tieng_anh_tot.pdf