Bước đầu nghiên cứu tác động của cống đập ba lai đến hệ sinh thái nhân văn huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre

Tóm tắt Bước đầu nghiên cứu tác động của cống đập ba lai đến hệ sinh thái nhân văn huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre: ...r), còng (Uca forcipata, Uca cf. annulipes), tôm bạc (Penaeus merguiensis, Metapenaeus tenuipes)... Ngoài ra, ở khu vực thượng nguồn đập Ba Lai thuộc các xã Long Hòa, Châu Hưng, Thới Lai, Phú Long... nhiều ý kiến cho 260 rằng, các loài như cá kèo, cá bống sao, cá bông lau, cá dứa, cua ...hủng loại cây trồng trong khu vực khảo sát cũng tương đối đa dạng, tuy nhiên, tỷ lệ trung bình diện tích từng loại cây trồng có sự chênh lệch rõ rệt. Đa số người dân trong khu vực chỉ trồng một số loại 264 cây nhất định có vai trò chủ đạo. Trong tất cả các loài cây ghi nhận được từ điều tr... yếu là để cải thiện đời sống trong gia đình và tăng thêm thu nhập. Hình thức chăn nuôi này chưa thể mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững cho khu vực bởi nguồn thức ăn phục vụ cho chăn nuôi mới chỉ ở mức tận dụng nguồn thức ăn có sẵn trong tự nhiên và nguồn nguyên liệu đầu ra cũng không...

pdf20 trang | Chia sẻ: Tài Phú | Ngày: 20/02/2024 | Lượt xem: 137 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bước đầu nghiên cứu tác động của cống đập ba lai đến hệ sinh thái nhân văn huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3).Vào năm 2001, trước 
khi có cống đập Ba Lai, trong tổng diện tích đất tự nhiên 40.458 ha 
của huyện Bình Đại, đất trồng chiếm 21.768 ha (tức 54%), trong đó 
đất lúa là 13.038 ha, đất nuôi trồng thủy sản chiếm 23%. Năm 2014, 
sau khi cống đập hoạt động, đất trồng lúa giảm ba lần, chỉ còn 4.212 
ha, diện tích trồng ngô, khoai, sắn, rau đậu cũng giảm nhẹ. Riêng diện 
tích trồng dừa đã tăng từ 4.390 ha năm 2001 lên 5.443 ha năm 2014, 
do huyện có định hướng chú trọng vào việc trồng các loại cây đặc sản, 
có hiệu quả kinh tế cao như dừa xiêm, nhãn lồng, bưởi, chuối... 
Hình 3. Hiện trạng sử dụng đất huyện Bình Đại 
năm 2001 và năm 2014 
Nguồn: Cục Thống kê Bến Tre, 2003, 2014. 
Giai đoạn 2002-2008, nuôi tôm sú được ưu tiên phát triển, tuy 
nhiên từ khoảng năm 2008, diện tích nuôi tôm sú đã giảm đi đáng kể, 
do người dân chuyển mạnh sang nuôi tôm thẻ chân trắng, một phần do 
lợi nhuận kinh tế từ nuôi tôm sú không cao hơn so với nuôi tôm thẻ và 
nguồn nước bị ô nhiễm, gây nên dịch bệnh. Diện tích đất khác như đất 
lâm nghiệp, đất chuyên dùng, đất nhà ở giảm từ 23% xuống còn 16%. 
2.4. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi 
2.4.1. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng 
Giai đoạn 2002 - 2005, khi cống đập Ba Lai mới đi vào hoạt động, 
các loại cây trồng trong vùng nghiên cứu chưa có nhiều thay đổi so với 
trước đó. Chủng loại cây trồng trong khu vực khảo sát cũng tương đối 
đa dạng, tuy nhiên, tỷ lệ trung bình diện tích từng loại cây trồng có sự 
chênh lệch rõ rệt. Đa số người dân trong khu vực chỉ trồng một số loại 
264 
cây nhất định có vai trò chủ đạo. Trong tất cả các loài cây ghi nhận 
được từ điều tra, cây dừa chiếm diện tích lớn nhất, với 43% tổng diện 
tích trong khu vực khảo sát, tiếp đến là cây lúa (chiếm 23%); diện tích 
cây mía chiếm 19%; diện tích cây nhãn chiếm 10%. Các loại cây trồng 
khác chiếm diện tích không nhiều (dao động từ 1-3%) (Hình 4). 
Hình 4. Tỷ lệ trung bình diện tích các loại cây trong trong khu vực 
khảo sát giai đoạn 2002-2005 và 2010-2015 
Nguồn: Kết quả điều tra, tháng 9/2015 và 6/2016. 
Giai đoạn 2010-2015, cơ cấu sản xuất đã ổn định hơn, các loại cây 
trồng ghi nhận được là khá phong phú. Người dân địa phương vẫn chỉ 
phát triển một số loại cây nhất định, trong tổng diện tích cây trồng được 
khảo sát, có hai loài chiếm diện tích lớn nhất là cây dừa (51%) và cây 
nhãn (13%). Các loại cây còn lại chiếm tỷ lệ không nhiều (từ 4-10%). 
Diện tích các loại cây truyền thống của khu vực giai đoạn 
2010-2015 tăng lên đáng kể so với giai đoạn 2002-2005: diện tích dừa 
tăng thêm 31% và diện tích nhãn tăng thêm 37%. Bên cạnh tăng thêm 
về diện tích, các giống dừa và nhãn cao sản cũng được người đầu tư 
để nâng cao năng suất cũng như chất lượng. Nhiều tổ chức bảo vệ 
người sản xuất và chống phá giá sản phẩm được thành lập, như Tổ sản 
xuất nhãn lồng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu tại Châu Hưng, Long Hòa. 
Điển hình cho mô hình này là mô hình cánh đồng nhãn tại xã Châu 
Hưng (105 ha), xã Long Hòa (50 ha) và xã Tam Hiệp (390 ha), hay Tổ 
sản xuất và tiêu thụ trái dừa ở Phú Long, Thạnh Trị. 
Về cây lúa, so với giai đoạn 2002-2005, tổng diện tích trồng lúa 
trong khu vực khảo sát giảm đáng kể (giảm 47,86%), chủ yếu tập trung 
ở các xã Thạnh Phước, Thạnh Trị và Phú Long (diện tích trồng lúa 
giảm ở vùng hạ lưu đập). Nguyên nhân diện tích trồng lúa giảm ở khu 
vực này là do một phần diện tích chuyển qua nuôi trồng thủy sản, phần 
265 
khác chuyển qua sản xuất theo mô hình luân phiên lúa tôm. Ngoài ra, 
điều kiện nguồn nước ở khu vực một phần bị ảnh hưởng mặn do người 
dân phát triển mô hình nuôi tôm. Ở vùng phía trên đập thuộc các xã 
Châu Hưng, Thới Lai, Long Hòa, diện tích trồng lúa biến đổi theo 2 
phương thức: đối với những vùng đất tốt, người dân lại tập trung sản 
xuất các giống lúa năng suất cao, thời gian ngắn để xoay vòng tăng vụ 
sản xuất trong năm từ 1 vụ/năm tăng lên 3 vụ/năm. Điển hình cho 
phương thức sản xuất này là mô hình “Cánh đồng mẫu”. Vụ đông xuân 
năm 2013-2014, mô hình “Cánh đồng mẫu” được thực hiện trên diện 
tích 153 ha với 307 hộ dân tại ấp Tân Hưng, Hưng Nhơn và Hưng 
Thạnh của xã Châu Hưng, thì đến vụ thu đông năm 2014, mô hình này 
đã tăng lên 204 ha với 447 hộ tham gia và năm 2015, diện tích mô hình 
này đã tăng lên 810 ha. Ngoài việc tăng về diện tích cho mô hình cánh 
đồng mẫu, năng suất sản xuất của mô hình này cũng tăng lên theo từng 
năm. Nếu năm 2014, năng suất bình quân của mô hình này là 4,5 
tấn/ha, thì năm 2015, năng suất bình quân đạt 5,28 tấn/ha. Đối với 
những vùng đất trồng lúa kém hiệu quả, chuyển sang trồng các loại cây 
màu. Tính đến năm 2015, có hơn 70 ha đất trồng lúa kém hiệu quả tại 
ấp Hưng Thạnh và Hưng Nhơn của xã Châu Hưng đã chuyển qua trồng 
các lại rau màu, như ớt chỉ thiên, bắp lai, dưa leo, cà chua... đây là một 
trong các nguyên nhân làm diện tích trồng lúa giảm. 
Bảng 3. Một số mô hình tiêu biểu về phát triển 
cây trồng trong khu vực 
TT Họ và tên Địa chỉ Mô hình 
Diện 
tích 
(m2) 
Ước tính 
thu nhập 
(triệu đ) từ 1 
ha/năm 
1 Bùi Văn Khôi Ấp 3, Thạnh Trị Chuối + dừa 2.000 420 
2 Võ Văn Nghĩa Giống Kiếng, 
Phú Long 
Nhãn xen cải 2.000 300 
3 Võ Văn Hồ Xoài 2.000 250 
4 Lý Văn Thành Hưng Thạnh, 
Châu Hưng 
Ớt chỉ thiên 11.000 245 
5 Nguyễn Văn Trọn Giồng Hổ, Thới Lai Dưa leo 3.000 200 
6 Nguyên Tuyến 
Mai 
Hưng Thạnh, 
Châu Hưng 
Bí xen dừa 3.000 167 
7 Ngô Văn Tân Hưng Thạnh, 
Châu Hưng 
Ớt 6.000 100 
Nguồn: Kết quả điều tra, tháng 9/2015 và tháng 6/2016. 
266 
Hình 5. Mô hình trồng dưa leo 
của anh Trọn ở Giồng Hổ, xã 
Thới Lai 
Hình 6. Mô hình trồng bí xen 
dừa của chị Mai ở Hưng Thạnh, 
xã Châu Hưng 
Nhiều đối tượng cây trồng mới như dưa hấu, bí đỏ, dưa leo, khổ 
qua, ớt, đậu phụng cũng được nhiều hộ dân phát triển. Xuất hiện nhiều 
mô hình kinh tế mới về trồng xen giữa cây dài ngày và rau màu, trong 
đó tiêu biểu nhất là mô hình trồng cải dưới tán cây nhãn tiêu Huế của 
ông Võ Văn Nghĩa (ấp Giống Kiếng, Phú Long, Bình Đại), mô hình 
trồng chuối của ông Bùi Văn Khôi (ấp 3, Thạnh Trị), mô hình trồng 
dưa leo của anh Tài ở Giồng Hổ, mô hình trồng bí xen dừa của chị 
Mai ở Hưng Thạnh. Nếu xét về hiệu quả, các mô hình trồng rau màu 
có hiệu quả gấp 3-5 lần so với lúa. 
2.4.2. Chuyển đổi cơ cấu vật nuôi 
Bảng 4. Vật nuôi (con) trong huyện qua các năm 
Vật nuôi 
(con) 
2010 2011 2012 2013 2014 2015 
Bò 6.121 5.307 4.357 4.998 6.565 7.500 
Dê 3.341 2.851 2.206 2.772 3.932 4.500 
Lợn 14.813 16.744 15.227 14.956 16.100 20.500 
Gia cầm 301.992 373.400 465.027 374.000 460.000 400.000 
Nguồn: Báo cáo tổng kết kế hoạch phát triển 5 năm của huyện Bình Đại giai đoạn 
2010-2015. 
Về vật nuôi, từ khi xây dựng đập Ba Lai tới nay, thông qua nhiều 
hình thức khác nhau, nhiều mô hình vật nuôi trong khu vực được hình 
thành và bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Số lượng loài 
267 
vật nuôi được nuôi trong khu vực cũng tương đối đa dạng. Đáng chú ý 
nhất là trong thời gian qua, số lượng bò, lợn, dê, vịt trong huyện có 
chiều hướng tăng. 
Bên cạnh việc tăng nhanh về số lượng, nhiều mô hình nuôi bò, dê, 
nuôi vịt tại huyện trở thành những mô hình tiêu biểu và mang lại 
nguồn thu nhập cao cho người dân trong khu vực. 
Bảng 5. Một số mô hình tiêu biểu về phát triển vật nuôi trong khu vực 
TT Họ và tên chủ hộ Địa chỉ 
Mô hình 
tiêu biểu 
Thu nhập 
(triệu đ/năm) 
1 Nguyễn Thành Sơn Ao Vuông, Phú Long Tổng hợp 150 
2 Nguyễn Tấn Kim Thành Hưng Nhơn, 
Châu Hưng 
Bò lai sin 140 
3 Lê Văn Nhân Em Hưng Thạnh, 
Châu Hưng 
Bò 125 
4 Nguyễn Văn Đô Tân Hưng, Châu Hưng Vịt M2 120 
5 Đỗ Thành Phố Chánh Hưng, 
Châu Hưng 
Bò 100 
6 Lê Văn Trung Hưng Thạnh, 
Châu Hưng 
Dê 90 
7 Nguyễn Văn Bế Ấp 4, Thạnh Trị Bò 80 
8 Nguyễn Thanh Hùng Bình Thạnh, Thạnh Trị Bò 73 
9 Phan Van Thâu Giồng Kiếng, 
Phú Long 
Tổng hợp 70 
Nguồn: Kết quả điều tra, tháng 9/2015 và tháng 6/2016. 
Dựa trên kết quả điều tra cho thấy, trong tổng số 190 hộ được 
phỏng vấn, có 127 hộ phát triển thêm nghề chăn nuôi (chiếm 66,84% 
tổng số hộ khảo sát). Cũng từ kết quả điều tra, nghề chăn nuôi của các 
hộ dân chỉ phát triển trong giai đoạn 2010-2015, trong đó phát triển 
mạnh nhất là năm 2012 và 2013, với đối tượng nuôi chủ yếu là gia 
cầm và bò. Còn trong giai đoạn 2002-2005, số lượng hộ tham gia chăn 
nuôi rất ít, chủ yếu là các hộ đã nuôi trước đó vẫn tiếp tục nuôi (21 hộ) 
(xem Hình 7). 
268 
Hình 7. Tỷ lệ trung bình số hộ phát triển chăn nuôi 
trong khu vực khảo sát 
Nguồn: Kết quả điều tra, tháng 9/2015 và 6/2016. 
Mặc dù mô hình chăn nuôi đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho 
các hộ dân trong khu vực, nhưng nhìn chung, các mô hình chăn 
nuôi đang ở hình thức nhỏ, lẻ ở quy mô hộ gia đình và ở mức tự 
phát (với mức bình quân khoảng 2-3 con/hộ). Mục đích nuôi chủ 
yếu là để cải thiện đời sống trong gia đình và tăng thêm thu nhập. 
Hình thức chăn nuôi này chưa thể mang lại hiệu quả kinh tế cao và 
bền vững cho khu vực bởi nguồn thức ăn phục vụ cho chăn nuôi 
mới chỉ ở mức tận dụng nguồn thức ăn có sẵn trong tự nhiên và 
nguồn nguyên liệu đầu ra cũng không được đảm bảo. Hình thức này 
chỉ mới phù hợp với điều kiện kinh tế tự cung cấp tại địa phương. 
Khi nguồn cung chưa đủ để đáp ứng nhu cầu, mô hình phát triển 
vẫn còn hiệu quả, nhưng khi nhu cầu đã đáp ứng đủ thì tính hiệu 
quả của mô hình sẽ không còn. 
2.5. Chuyển đổi mô hình nuôi trồng thủy sản 
Diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện Bình Đại tăng liên tục 
qua các năm từ sau khi có đập. Như kết quả phân tích trên về tình hình 
thay đổi diện tích đất của huyện Bình Đại từ sau khi có đập, tính đến 
năm 2014, diện tích đất nuôi trồng thủy sản chiếm 51% diện tích đất 
tự nhiên của huyện Bình Đại. 
269 
Hình 8. Diện tích nuôi trồng thủy sản huyện Bình Đại qua các năm 
Nguồn: Cục Thống kê Bến Tre, 2003, 2005, 2010, 2014. 
So với diện tích nuôi trồng thủy sản của toàn tỉnh là 26.648 ha, 
huyện Bình Đại chiếm tới 20.712 ha. Trong nuôi trồng thủy sản, 
người dân chủ yếu nuôi tôm. Từ năm 2011, diện tích tôm sú có xu 
hướng giảm rõ rệt. Một phần do dịch bệnh, một phần do giá tôm sú 
không ổn định nên người dân chuyển sang nuôi tôm thẻ, thu nhập ổn 
định hơn. 
Hình 9. Diện tích nuôi tôm qua các năm của huyện Bình Đại 
Nguồn: Kết quả điều tra, tháng 9/2015 và 6/2016. 
Qua kết quả ở Hình 9 cho thấy, kể từ năm 2003-2005, diện tích 
nuôi tôm sú có xu hướng ổn định với tổng diện tích tương đối lớn 
(hơn 13.000 ha). Giai đoạn này, khi đập Ba Lai đi vào hoạt động, 
nguồn nước ở phía sau đập gần như ổn định quanh năm với môi 
trường nước lợ mặn và ít bị ngọt hóa trong mùa mưa (do cống có chức 
ha 
năm 
năm 
ha 
270 
năng giữ nước và xả nước theo định kỳ). Hơn nữa, trong thời kỳ này, 
các biểu hiện tiêu cực của việc xây dựng đập chắn Ba Lai chưa thể 
hiện rõ nét (sạt lở, bồi lấp, lắng đọng...) và môi trường trong giai đoạn 
này chưa biểu hiện các dấu hiệu ô nhiễm. 
Từ năm 2010 tới nay, diện tích nuôi tôm sú đã giảm đi rất nhiều, 
nguyên nhân là do một phần diện tích chuyển qua nuôi tôm thẻ chân 
trắng (bắt đầu khoảng năm 2008), bởi giá trị kinh tế do nuôi tôm sú 
mang lại không cao hơn so với nuôi tôm thẻ và nguồn nước nuôi tôm 
sú bị ô nhiễm, gây nên dịch bệnh. 
Nhìn chung, kể từ khi có đập, dòng chảy bị hạn chế lưu thông, 
việc xả thải từ sinh hoạt hàng ngày của người dân hai bên bờ sông và 
việc sử dụng bừa bãi thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân bón trong nông 
nghiệp, thêm vào đó, việc nuôi trồng thủy sản không tuân thủ các quy 
định cũng như luật bảo vệ môi trường là những nguyên nhân chính 
làm ô nhiễm môi trường nước cũng như hệ sinh thái trong khuôn viên 
đập ngày càng xấu đi. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sinh 
kế của hộ nông dân huyện Bình Đại dưới tác động của hệ thống cống 
đập Ba Lai. Người dân phải làm cùng lúc nhiều hoạt động sinh kế 
khác nhau để có thu nhập. Theo kết quả nghiên cứu trên cho thấy, hiện 
tại diện tích trồng lúa tại khu vực Bình Đại đang có xu hướng giảm, 
nhưng diện tích nuôi trồng thủy sản tăng mạnh. Từ đó cho thấy, quá 
trình thích ứng với sự chuyển đổi sinh kế của nông hộ trong vùng chịu 
tác động của đập Ba Lai đã không theo đuổi hoàn toàn chiến lược ngọt 
hóa, phát triển cây lúa của địa phương. Các hộ nông dân huyện Bình 
Đại tự thích nghi trong hệ sinh thái mở chuyển biến phức tạp dưới tác 
động của đập Ba Lai. 
KẾT LUẬN 
Từ kết quả phân tích chuyển đổi sinh kế của người dân khu vực 
Bình Đại cho thấy xu hướng phát triển kinh tế của huyện Bình Đại sau 
khi xây đập chia thành 2 hướng chính: 
+ Đối với các xã thuộc khu vực thượng nguồn đập Ba Lai, chuyển 
hướng phát triển kinh tế theo chiều hướng vùng ngọt hóa. Ở khu vực 
này, kinh thế phát triển theo hướng trồng trọt và chăn nuôi. Đối với 
trồng trọt, bên cạnh mở rộng về diện tích canh tác, nhiều chủng loại 
cây trồng, đặc biệt là các loại cây trồng có năng suất cao cũng được 
chú trọng. Trong những năm qua, nhiều mô hình kinh tế mới như mô 
hình “Cánh đồng mẫu”, tổ sản xuất nhãn, tổ trồng bưởi, tổ bảo vệ trái 
271 
dừa được thành lập. Các mô hình này hướng tới hai mục tiêu là nâng 
cao năng suất và chất lượng sản phẩm và chống phá giá để bảo vệ 
quyền lợi của người sản xuất. Ngoài ra, các đơn vị này còn liên kết với 
các doanh nghiệp để hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình sản xuất và tiêu 
thụ sản phẩm. Các mô hình phát triển kinh tế này tập trung ở các xã 
Thới Lai, Châu Hưng, Long Hòa. 
+ Đối với các xã thuộc vùng hạ lưu đập Ba Lai, chuyển hướng 
phát triển kinh tế theo chiều hướng của vùng bị mặn hóa. Những 
ngành nghề phát triển mạnh ở khu vực này chủ yếu là nuôi trồng thủy 
sản nước lợ với nhiều chủng loại khác nhau như nuôi tôm sú, tôm thẻ, 
nuôi sò, nuôi hàu, một bộ phận khác chuyển qua phát triển kinh tế 
biển (khai thác thủy sản ven và xa bờ). Những năm qua, đặc biệt là 
giai đoạn 2008 đến nay, quy mô nuôi tôm công nghiệp đang phát triển 
khá mạnh ở xã Thới Thuận, Thanh Phú, Thạnh Trị... 
Nhìn từ mặt tích cực, đập Ba Lai mang lại cho người dân: Việc 
xây dựng đập Ba Lai đã góp phần giúp hệ thống giao thông giữa các 
khu vực được cải thiện, nguồn nước sinh hoạt hàng ngày dồi dào 
hơn. Việc xây dựng đập cũng góp phần đáng kể trong chuyển đổi cơ 
cấu cây trồng. Nhiều ha đất được chuyển từ trồng lúa kém hiệu quả 
sang trồng cây lâu năm như dừa, nhãn, hoặc chuyển sang trồng hoa 
màu hoặc cây trồng khác như dưa hấu, ớt, khổ qua, dưa leo, bí và 
một số rau màu khác. Hoặc gần đây, nhiều nhóm cây trồng mới cũng 
được người dân trồng và bước đầu mang lại hiệu quả như chuối, 
bưởi da xanh, mít, nhãn tiêu huế, dừa xiêm. Người dân cũng đầu tư 
cho một số mô hình tiêu biểu trong trồng trọt và chăn nuôi, đem lại 
hiệu quả cao. 
Nhìn từ mặt tiêu cực, thể hiện rõ nhất là những hệ lụy về môi 
trường cũng như thích ứng sinh kế của các hộ dân: Nhiều hộ dân đã 
phải chuyển đổi sinh kế để đảm bảo cuộc sống của gia đình, họ phải 
phát triển thêm các hoạt động mới để tăng thêm thu nhập hoặc chuyển 
đổi đối tượng sản xuất để phù hợp với điều kiện môi trường mới. Đập 
ngăn lưu thông dòng chảy, dẫn đến ô nhiễm môi trường cục bộ, do 
chức năng của đập chắn là ngăn mặn và giữ nguồn nước ngọt và đập 
chỉ xả nước 2 lần/tháng (1-2 ngày/lần) nên gây ra sự đọng các chất 
thải, chất gây ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm do xả thải từ nuôi trồng 
thủy sản, ảnh hưởng đến đời sống của một số hộ dân sống bằng hoạt 
động khai thác thủy sản, đã bị giảm thu nhập so với thời kỳ trước đó 
do sự cạn kiệt dần nguồn thủy sản tự nhiên. Ngoài ra, việc sạt lở đất 
272 
tại một số khu vực làm cho đời sống của họ cũng bị bấp bênh, không 
có nơi cư trú. 
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy, huyện Bình Đại nằm ở 
vị trí ngoài cùng của hệ thống đập, theo lý thuyết của sinh thái cửa 
sông ven biển, là hệ sinh thái mở có năng suất cao và đa dạng sinh 
học cao, nên khi xây đập, đã làm thay đổi hệ sinh thái theo chiều 
hướng tiêu cực. Những ảnh hưởng hay mong muốn khi xây đập là 
hướng về việc ngọt hóa. Tuy nhiên, mục tiêu này là không phù hợp 
với bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng như hiện tại. 
Người dân cũng thuận theo tự nhiên và với tập quán canh tác lâu 
đời trong môi trường mặn, lợ, vẫn duy trì phương thức sản xuất 
này. Người dân ngày càng phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản 
trên môi trường nước mặn hoặc nước lợ dù chính quyền không cho 
phép, mâu thuẫn giữa cộng đồng và chính quyền ngày càng gay gắt, 
không tạo được tâm lý an toàn trong canh tác cho người dân. Hiện 
tại, có những hộ dân hoạt động sinh kế đem lại hiệu quả kinh tế 
cao, nhưng đi ngược lại với mục tiêu quy hoạch của đập Ba Lai, 
nên gặp khó khăn trong việc công khai sản xuất và hợp tác với 
chính quyền địa phương, thậm chí họ không dám báo cáo kết quả 
thực tế của các hoạt động sinh kế này cho chính quyền địa phương. 
Do đó, cần có sự gần gũi và chia sẻ từ phía chính quyền địa phương 
đối với các hộ này, để tìm ra hướng quy hoạch và phát triển bền 
vững cho các hoạt động sinh kế mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ 
việc đi ngược lại với mục tiêu xây đập là phát triển trồng lúa, hay 
ngọt hóa trong nông nghiệp cho thấy, xã hội tự lựa chọn và tự đào 
thải để phù hợp với điều kiện sản suất và lợi nhuận mà họ thu được. 
Kết quả nghiên cứu vẫn chưa đi sâu vào phân tích từng yếu tố tác 
động để đưa ra giải pháp cụ thể. Nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục trong 
thời gian tới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cục Thống kê Bến Tre, 2003. Niên giám thống kê 2002. NXB Thanh Niên. 
2. Cục Thống kê Bến Tre, 2005. Niên giám thống kê 2004. NXB Thanh Niên. 
3. Cục Thống kê Bến Tre, 2010. Niên giám thống kê 2009. NXB Thanh Niên. 
4. Cục Thống kê Bến Tre, 2014. Niên giám thống kê 2013. NXB Thanh Niên. 
273 
Abstract 
INITIAL STUDY ON IMPACT OF BA LAI DAM 
CONSTRUCTION TO HUMANITY ECOSYSTEM IN 
BINH DAI DISTRICT, BEN TRE PROVINCE 
Ba Lai dam construction locates in the Ba Lai river connecting 
between 2 wards of Binh Dai district (Thanh Tri) and Ba Tri district 
(Tan Xuan) of Ben Tre province. The Binh Dai district is in the East 
North of Ben Tre province. Human ecosystem of this district locates 
on the North side of the river that belong to a coastal estuarine system 
so that it is an open system to have influences of complex sea - river 
dynamic operations. These influences were completely changed since 
the dam construction operation in April 30th 2002. It almost converts 
all brackish ecosystems to fresh water ecosystem and also changes sea 
- river dynamic operations. Since then, the livelihood of local people 
has to adapt to a new characteristic of ecosystem. A rapid rural 
assessment techniques in combination with reference from previous 
data, interviewing and questionnaire system were applied to study in 
190 families, human ecosystem in the Binh Dai district were 
characterized such as: (i) many local farmers had to changed their 
livelihood to ensure their family life and worked more on other new 
jobs to increase their incomes or completely change to other 
agricultural activities in fresh water ecosystem. Some households go 
for high economic efficiency currently but against the objectives of the 
Ba Lai dam construction project so they get difficulties in cooperation 
with local authorities. These problems indicate that social reality goes 
for self - selection and self - rejection to adapt to new condition to 
have their own profits; (ii) the lives of fishing households got a lot of 
difficulties in comparison to previous time due to the gradual 
depletion of natural aquatic resources; (iii) the dam construction 
reduced greatly flow circulation leading to accumulable pollution, 
waste accumulation, organic pollutants, especially pollution caused 
by aquaculture discharge; (iv) additionally, land slides in some areas 
of river banks caused the poor people lives become threatened safety, 
precarious and noselection for residence. 
Keywords: Ba Lai dam construction; Human ecosystem; Livelihoods; 
Natural environment. 

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_nghien_cuu_tac_dong_cua_cong_dap_ba_lai_den_he_sinh.pdf
Ebook liên quan