Ca lâm sàng nhiễm virus BK ở bệnh nhân sau ghép thận
Tóm tắt Ca lâm sàng nhiễm virus BK ở bệnh nhân sau ghép thận: ...o viêm ở mao mạch quanh ống thận và ở ống thận, nhuộm hĩa mơ miễn dịch với C4d âm tính. 144 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hình 1. Hình ảnh sinh thiết thận ghép A. Ống thận và mơ kẽ - nhuộm H&E; B. Ống thận và mơ kẽ - nhuộm Trichrome; C. Cầu thận - nhuộm H&E; D. Cầu th...i đến khi creatinine máu tăng đáng kể bệnh nhận mới được sinh thiết thận. Ngay cả khi đã sinh thiết, việc chẩn đốn phân biệt giữa bệnh thận do virus BK hay thải ghép tế bào cấp đơi khi cũng khĩ khăn, do tính chất tổn thương mơ kẽ thận khá giống nhau. Các nhĩm nghiên cứu cịn nhận thấy rằ...n [6]. Việc sử dụng các thuốc diệt virus đặc hiệu vẫn cịn cĩ kết quả chưa thực sự ổn định và kèm theo nhiều tác dụng khơng mong muốn. Leflunomide cĩ tác dụng chống viêm và ức chế sự nhân bản virus nhưng cĩ tính độc cho gan và cĩ thể gây giảm 3 dịng máu. Cidofovir là thuốc cĩ tác dụng d...
142 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ðịa chỉ liên hệ: Hà Phan Hải An, bộ mơn Nội tổng hợp, Trường ðại học Y Hà Nội Email: haphanhaian@yahoo.com Ngày nhận: 12/01/2015 Ngày được chấp thuận: 18/5/2015 CA LÂM SÀNG NHIỄM VIRUS BK Ở BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN Hà Phan Hải An1, Nguyễn Thế Cường2, Nguyễn Mạnh Tưởng2, Nguyễn Sỹ Lánh2 1Trường ðại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Hữu nghị Việt ðức Bệnh lý thận ghép do nhiễm virus BK là một trong những nguyên nhân chính gây mất chức năng thận ghép ở bệnh nhân ghép thận. Việc chẩn đốn chủ yếu dựa vào hình ảnh mơ bệnh học thận của tiêu bản sinh thiết. Tuy nhiên việc chẩn đốn đơi khi cĩ thể gặp khĩ khăn do hình ảnh bệnh học của bệnh thận do virus BK cĩ những đặc điểm tương tự như thải ghép cấp qua trung gian tế bào. Chúng tơi thơng báo ca lâm sàng nhằm minh họa thêm một lần nữa những khĩ khăn trong chẩn đốn bênh thận do virus BK. Do các lựa chọn điều trị bệnh thận do virus BK ở Việt Nam cịn hạn chế, tình trạng bệnh lý này cần được phát hiện kịp thời để cĩ sự điều chỉnh phù hợp việc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch. Vai trị của sự phối kết hợp chặt chẽ giữa bác sỹ lâm sàng và chuyên gia mơ bệnh học là điều kiện then chốt để đảm bảo chẩn đốn và lựa chọn điều trị chính xác.Một số khuyến cáo cơ bản về chẩn đốn và điều trị cũng được đề cập. Từ khĩa. Bệnh thận do virus BK, ghép thận I. ðẶT VẤN ðỀ Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, ảnh hưởng của virus BK lên chức năng thận ghép bắt đầu được quan tâm đặc biệt bởi người ta nhận ra rằng đây là một trong những nguyên nhân chính gây mất chức năng thận ghép [1; 2]. Virus BK là một trong 3 thành viên (BK, JC, SV40) thuộc họ Polyomavirus. Mặc dù nguyên nhân và đường lây nhiễm cịn chưa thực sự rõ ràng, người ta nhận thấy t ình trạng nhiễm virus BK và JC rất phổ biến trên thế giới trong quần thể dân cư và xảy ra hầu hết ở độ tuổi trẻ em, tuy nhiên thường khơng gây hậu quả gì ở người cĩ đáp ứng miễn dịch bình thường. ðối với người được ghép thận phải dùng thuốc ức chế miễn dịch, nhiễm virus BK cĩ thể là nguyên nhân gây tổn thương thận ghép, dẫn đến mất chức năng thận ghép khơng hồi phục. Bệnh lý thận ghép do virus BK cĩ thể gặp ở khoảng từ 2 đến 10% người nhận thận, và cĩ tới 40 - 90% số bệnh nhân này bị mất chức năng thận ghép vĩnh viễn [3] do được chẩn đốn muộn. Mặc dù virus đã được phân lập từ nước tiểu của những bệnh nhân ghép thận và cĩ chít hẹp niệu quản vào năm 1971, ảnh hưởng của nĩ đối với chức năng thận ghép chỉ được quan tâm thực sự từ cuối những năm 1990, do cĩ hàng loạt ca bệnh được thơng báo. ðiều này cũng trùng hợp với thời kỳ xuất hiện nhiều loại thuốc ức chế miễn dịch mạnh. Cho đến nay, trên thế giới đã đưa ra các tiêu chuẩn để sàng lọc, phát hiện và chẩn đốn tình trạng nhiễm virus BK trên quần thể bệnh nhân ghép tạng, đặc biệt là ghép thận, ở giai đoạn sớm nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của virus lên chức năng thận ghép dài hạn [4; 5]. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc chẩn đốn bệnh thận ghép do virus BK vẫn cịn là thách thức đối với các nhà lâm sàng hoạt động trong lĩnh vực ghép thận/tạng. Bên cạnh đĩ, các lựa chọn điều trị trong nước cịn rất hạn chế do các thuốc kháng virus đặc hiệu chưa sẵn cĩ. TCNCYH 93 (1) - 2015 143 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 II. GIỚI THIỆU CA BỆNH Chúng tơi thơng báo một trường hợp bệnh nhân nam, 44 tuổi, suy thận giai đoạn cuối do viêm thận Lupus, được ghép thận tháng 01 năm 2013 từ người cho sống cùng nhĩm máu; HLA khơng tương đồng 6/6 kháng nguyên. Bệnh nhân được chạy thận nhân tạo 2 năm trước khi ghép thận và bị nhiễm virus viêm gan C (HCV) trong thời gian này, đã được điều trị để đưa tải lượng HCV về dưới ngưỡng phát hiện trước khi ghép. Sau ghép thận hoạt động ngay, creatinin khi ra viện (ngày thứ 12 sau mổ) 109 µmol/L. Thuốc ức chế miễn dịch duy trì sau khi ra viện gồm: Tacrolimus (Prograf), Mycophenolate mofetil (Cellcept) và Prednisolon. Bệnh nhân được theo dõi định kỳ hàng tháng tại bệnh viện hữu nghị Việt ðức. Nồng độ Tacrolimus nằm trong khoảng 8 - 10ng/ml. Trong 3 tháng đầu sau ghép, tình trạng lâm sàng của bệnh nhân cải thiện rõ rệt, creatinine máu duy trì ở mức 130 - 140 µmol/L, protein niệu luơn âm tính, huyết áp ổn định, siêu âm thận ghép khơng phát hiện bất thường. Sau ghép 8 tháng (tháng 9/2013) creatinine máu tăng rõ rệt, đến 156 µmol/L trong khi tình trạng lâm sàng vẫn ổn định và các xét nghiệm nước tiểu, chức năng gan, siêu âm thận ghép đều cho kết quả trong giới hạn bình thường. Tải lượng HCV trong máu vẫn dưới ngưỡng phát hiện. Bên cạnh các xét nghiệm thường quy để tìm nguyên nhân gây giảm chức năng thận ghép, bệnh nhân được chỉ định làm xét nghiệm định lượng virus BK trong máu và nước tiểu và sinh thiết thận ghép. Kết quả sinh thiết thận ghép cho thấy cĩ hình ảnh tổn thương ống thận và mơ kẽ, thâm nhập tế bào đơn nhân mơ kẽ. Khơng thấy cĩ dấu hiệu tập trung tế bào viêm ở mao mạch quanh ống thận và ở ống thận, nhuộm hĩa mơ miễn dịch với C4d âm tính. 144 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hình 1. Hình ảnh sinh thiết thận ghép A. Ống thận và mơ kẽ - nhuộm H&E; B. Ống thận và mơ kẽ - nhuộm Trichrome; C. Cầu thận - nhuộm H&E; D. Cầu thận - nhuộm Trichrome; E. Nhuộm hĩa mơ miễn dịch anti - C4d. Kết quả xét nghiệm t ìm virus BK bằng kỹ thuật real-time PCR tháng 9 năm 2013 cho thấy: virus BK nước tiểu: 8,27x1010copies/ml; virus BK máu: 1,7 x 104 copies/ml. Diễn biến lâm sàng về t ình trạng chức năng thận cho đến thời điểm sinh thiết được trình bày trên biểu đồ 1. E Biểu đồ 1. Chức năng thận và nồng độ thuốc thải ghép đến thời điểm sinh thiết thận Dựa trên các kết quả thu được, bệnh nhân được chẩn đốn BKVAN. Liều thuốc ức chế miễn dịch (tacrolimus, mycophenolate mofettil) được giảm dần, tuy nhiên chức năng thận khơng cải thiện, creatinin tiếp tục tăng (biểu đồ 1). Sau 1 tháng điều trị, tải lượng virus trong máu và nước tiểu tăng lên (virus BK máu 1,27x106 copies/mL; virus BK niệu 1,64x1011 copies/mL). Chúng tơi quyết định thay đổi thuốc ức chế miễn dịch, chuyển sang sử dụng Cyclosporin A liều thấp phối hợp với Everolimus. Diễn biến creatinine máu và nồng độ các thuốc ức chế miễn dịch được trình bày ở biểu đồ 2. TCNCYH 93 (1) - 2015 145 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 Biểu đồ 2. Creatinin máu và nồng độ thuốc thải ghép sau khi chuyển phác đồ thuốc ức chế miễn dịch Sau khi chuyển đổi phác đồ điều trị ức chế miễn địch, tải lượng virus BK trong máu cĩ xu hướng giảm dần, đến tháng 2 năm 2014 tải lượng virus BK máu 5,52x105 copies/mL, cịn trong nước tiểu là 5,86x109 copies/mL. Tuy nhiên, khá lâu sau đĩ tình trạng chức năng thận của bệnh nhân mới cĩ dấu hiệu ổn định trở lại và khơng thể hồi phục trở về t ình trạng ban đầu ở thời điểm ngay sau ghép. III. BÀN LUẬN ðây là ca bệnh nhân ghép thận đầu tiên ở Việt nam được chẩn đốn xác định bị bệnh thận do nhiễm virus BK. Việc chẩn đốn ban đầu gặp nhiều khĩ khăn do biểu hiện lâm sàng khơng đặc hiệu, nghèo triệu chứng. Nếu bác sỹ lâm sàng khơng cĩ cách tiếp cận chẩn đốn tồn diện sẽ ít khi nghĩ tới tình trạng bệnh lý này. Trước đây, khi trong nước chưa cĩ phương tiện để định lượng virus BK và chưa cĩ kinh nghiệm lâm sàng để nhận định tổn thương thận trên tiêu bản sinh thiết, chẩn đốn này thường bị bỏ sĩt. Từ khi vấn đề này được ghi nhận và chú ý, các nhĩm nghiên cứu trên thế giới nhận thấy tình trạng nhiễm virus BK gắn liền với sự xuất hiện các thuốc ức chế miễn dịch thế hệ mới, với tác dụng ức chế miễn dịch mạnh hơn các thuốc thế hệ cũ. Bên cạnh đĩ, sự xuất hiện tổn thương thận liên quan đến virus BK rất thường xảy ra sau các đợt điều trị thải ghép cấp [4; 5]. ðiều này khiến các nhà lâm sàng e ngại rằng hiện nay cĩ thể các bệnh nhân thường bị ức chế miễn dịch quá mức, do mối lo ngại bị thải ghép vẫn luơn ám ảnh cả bệnh nhân và nhân viên y tế, khiến đơi khi người ta quên mất một số nguy cơ khác. Bệnh nhân cĩ dấu hiệu rối loạn chức năng thận ghép xuất hiện sau một đợt nồng độ thuốc ức chế miễn dịch trong máu dao động ở mức cao hơn thơng lệ. Tuy nhiên, do chưa cĩ phương tiện để sàng lọc và theo dõi hệ thống, 146 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC phải đến khi creatinine máu tăng đáng kể bệnh nhận mới được sinh thiết thận. Ngay cả khi đã sinh thiết, việc chẩn đốn phân biệt giữa bệnh thận do virus BK hay thải ghép tế bào cấp đơi khi cũng khĩ khăn, do tính chất tổn thương mơ kẽ thận khá giống nhau. Các nhĩm nghiên cứu cịn nhận thấy rằng cĩ một mối liên quan nhất định giữa việc nhiễm virus BK và t ình trạng thải ghép cấp. Vì vậy, một số bệnh nhân cĩ đáp ứng một phần với điều trị thải ghép cấp, tuy nhiên là đáp ứng khơng bền vững và chức năng thận cĩ thể xấu đi sau đợt điều trị đĩ. Khi các thương tổn ở thận ghép đã xuất hiện, khả năng hồi phục chức năng thận vơ cùng khĩ khăn. Do t ính chất nghiêm trọng của tình t rạng bệnh lý này, cách tiếp cận xử trí đối với bệnh nhân ghép thận đã cĩ những thay đổi đáng kể. Người ta xác định nhĩm bệnh nhân cĩ nguy cơ cao và chủ động theo dõi để kịp thời phát hiện virus BK trước khi cĩ dấu hiệu rối loạn chức năng thận trên lâm sàng, đặc biệt là trong năm đầu tiên sau ghép thận. Quy trình chẩn đốn được nhiều trung tâm hiện nay thực hiện bao gồm xét nghiệm nước tiểu để tìm “tế bào bẫy” (decoy cell) hoặc định lượng virus BK trong nước tiểu và trong máu bằng kỹ thuật PCR. Tuy nhiên, để chẩn đốn chính xác tổn thương thận do BK virus, vai trị quyết định thuộc về mơ bệnh học. Trên tiêu bản sinh thiết thận, người ta quan sát thấy các thể vùi của virus trong nhân tế bào biểu mơ ống thận và cầu thận, và dấu hiệu xâm nhiễm tế bào viêm ở mơ kẽ thường đi kèm. Hình ảnh xâm nhiễm tế bào viêm ở mơ kẽ thận chính là dấu hiệu cũng cĩ thể quan sát thấy ở bệnh nhân cĩ thải ghép tế bào cấp và gây nhầm lẫn. Cần cĩ chuyên gia mơ bệnh học được đào tạo tốt, cĩ kinh nghiệm để cĩ thể nhận diện ra các tổn thương thận do BK virus gây ra trên hiển vi quang học. Ngồi ra, kỹ thuật hĩa mơ miễn dịch/miễn dịch huỳnh quang với anti - SV40 hay hiển vi điện tử cĩ thể giúp khẳng định chẩn đốn [4; 5; 6]. Với xu hướng tìm kiếm thêm các kỹ thuật khơng xâm lấn để chẩn đốn sớm và chính xác thương tổn, phân biệt các nguyên nhân gây thương tổn mà vẫn đảm bảo an tồn cho người bệnh, một số dấu ấn sinh học trong nước tiểu đang được nghiên cứu. Thơng qua việc ứng dụng cơng nghệ sinh học phân tử để phân tích hệ protein trong nước tiểu, các nhĩm nghiên cứu đã phát hiện được các hình ảnh đặc hiệu để chẩn đốn phân biệt tổn thương thận do virus BK và thải ghép cấp [7], tuy nhiên kỹ thuật này chưa thể áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng. Chiến lược điều trị nền tảng đối với bệnh thận do virus BK hiện nay là giảm liều thuốc ức chế miễn dịch [3; 6]. Về khía cạnh lâm sàng, điều này luơn đặt bệnh nhân trước nguy cơ bị thải ghép. Nhĩm nghiên cứu của Weiss AS nhận thấy, để bảo tồn chức năng thận ghép, việc ngừng một loại thuốc ức chế miễn dịch (phác đồ 2 thuốc) cĩ vẻ cĩ lợi hơn so với việc giảm liều và duy t rì phác đồ 3 thuốc [3]. Hơn nữa, việc sử dụng Tacrolimus dường như thường đi kèm với tình trạng bệnh thận do virus BK hơn so với sử dụng Cyclosporin hay ức chế mTOR [8; 9]. ðể bảo tồn chức năng thận ghép, cần điều chỉnh liều thuốc ức chế miễn dịch để làm giảm tải lượng virus và tránh sự xuất hiện các tổn thương sẹo hĩa ở thận, tuy nhiên điều này cĩ thể chỉ đạt được ở khoảng 20% số bệnh nhân [6]. Việc sử dụng các thuốc diệt virus đặc hiệu vẫn cịn cĩ kết quả chưa thực sự ổn định và kèm theo nhiều tác dụng khơng mong muốn. Leflunomide cĩ tác dụng chống viêm và ức chế sự nhân bản virus nhưng cĩ tính độc cho gan và cĩ thể gây giảm 3 dịng máu. Cidofovir là thuốc cĩ tác dụng diệt virus mạnh in vitro, TCNCYH 93 (1) - 2015 147 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 nhưng cĩ tính độc đối với thận cao. Cần theo dõi sát t ình trạng chức năng thận khi sử dụng Cidofovir và cĩ thể phải giảm liều thuốc một cách đáng kể. Immunoglobulin tĩnh mạch (IVIG) cĩ thể giúp trung hịa kháng nguyên virus nhưng cĩ thể cĩ tác dụng điều biến miễn dịch nhiều hơn, IVIG cịn cĩ thể gây ra phản ứng nặng, chi phí điều trị cũng rất cao. Bên cạnh những tác dụng khơng mong muốn của các thuốc diệt virus, bằng chứng về hiệu quả điều trị cũng chưa đầy đủ, mới chỉ cĩ một số lượng hạn chế các trường hợp cĩ kết quả điều trị khả quan và vẫn cần thêm các nghiên cứu quy mơ lớn, trên một cỡ mẫu lớn hơn. Bệnh nhân được giảm liều ức chế miễn dịch và khơng được sử dụng thuốc diệt virus do thuốc khơng sẵn cĩ ở thị trường Việt Nam. Tình trạng chức năng thận ghép của bệnh nhân khơng được cải thiện rõ rệt, khơng hồi phục về lại mức ban đầumà chỉ giữ được ở mức tương đối ổn định trong thời gian sử dụng phác đồ thuốc mới. Do vậy, ở thời điểm hiện tại chẩn đốn sớm vẫn là yếu tố quyết định thành cơng trong việc bảo tồn chức năng thận ghép. IV. KẾT LUẬN Chẩn đốn bệnh thận do virus BK vẫn cịn khĩ khăn trong điều kiện Việt Nam hiện nay vì thiếu các phương tiện chẩn đốn, đặc biệt là kháng thể đặc hiệu để phát hiện virus trong mơ thận và chuyên gia mơ bệnh học ở các cơ sở ghép thận. Do chủ yếu dựa vào dấu hiệu lâm sàng, bệnh nhân thường được phát hiện muộn, khi cịn rất ít cơ hội bảo tồn được chức năng thận ghép, đặc biệt khi thuốc điều trị đặc hiệu chưa sẵn cĩ ở Việt Nam. Cần xây dựng quy trình sàng lọc và chẩn đốn bệnh sớm để cĩ chiến lược sử dụng thuốc ức chế miễn dịch phù hợp nhằm cải thiện chức năng thận ghép dài hạn. Lời cảm ơn Nhĩm nghiên cứu trân trọng cảm ơn khoa Thận - Lọc máu và khoa Giải phẫu bệnh đã giúp đỡ chúng tơi trong việc phát hiện và chẩn đốn ca bệnh này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phuong-Thu Pham, Joanna Schaen- man., Phuong-Chi Pham (2012). BK Virus Screening and Management Following Kidney Transplantation: An Update. J Transplant Technol Res, 2, 3. 2. S Hariharan (2006). BK virus nephritis after renal transplantation. Kidney Interna- tional, 69, 655 - 662. 3. Andrew S. Weiss, Jane Gralla, Larry Chan et al (2008). Aggressive immunosup- pression minimization reduces graft loss fol- lowing diagnosis of BK virus-associated neph- ropathy: a comparison of two reduction strate- gies. CJASN, 3, 1813 - 1819. 4. Denise A. Boyum, RN,BSN, CCTC (2004). BK virus in kidney transplantation: a case study. Progress in Transplantation, 14, 176 - 180. 5. Hirsch HH, Brennan DC, Drachenberg CB et al (2005). Polyomavirus-associated nephropathy in renal transplantation: interdis- ciplinary analyses and recommendations. Transplantation, 79, 1277 - 1286. 6. Nasimul Ahsan (2006). Polyomaviruses and Human Diseases, edited by Eurekah.com, 16, 213 - 227. 7. Timo Jahnukainen, David Malehorn, Mai Sun et al (2006). Proteomic Analysis of Urine in Kidney Transplant Patients with BK Virus Nephropathy. J Am Soc Nephrol, 17, 3248 - 3256. 148 TCNCYH 93 (1) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 8. Acott PD, O’Regan PA, Lee SH, Crocker JF (2008). In vitro effect of cyc- losporineA on primary and chronic BK polyo- mavitrus infection in Vero E6 cells. TransplInfect Dis, 10, 385 - 390. 9. Hardinger KL., Koch MJ., Bohl DJ et al (2011). Polyomavirus BK (BKV) replication in renal tubular epithelial cells is inhibited by mTOR inhibitors but activated by tacrolimus in a pathway involving the FKBP12. Am J Transplant, 497. Summary BK VIRUS - ASSOCIATED NEPHROPATHY IN KIDNEY TRANSPLANT RECIPIENT: A CASE REPORT BK virus-associated nephropathy (BKVAN) is one of the major causes of allograft dys function in kidney recipients. The diagnosis is principally based on renal allograft biopsy. However the diagnosis can sometimes be difficult because of some similarities in pathological features of BKVAN and cell-mediated acute rejection. We reported a case of BKVAN to illustrate again some difficulties in making diagnosis of BKVAN. Due to the current limitation of available therapeutic options for BKVAN in Vietnam, the condition must be timely identified in order to appropriately adjust the immunosuppressant prescription. The close collaboration between clinician and pathologist is crucial for ensuring accurate diagnosis and appropriate therapeutic approach. Recent diagnostic and therapeutic recommendations have also been discussed. Ket words: BK virus-associated nephropathy, kidney transplantation
File đính kèm:
- ca_lam_sang_nhiem_virus_bk_o_benh_nhan_sau_ghep_than.pdf