Chủ thể, phương thức và phương tiện kiểm soát xã hội đối với tội phạm
Tóm tắt Chủ thể, phương thức và phương tiện kiểm soát xã hội đối với tội phạm: ...quản lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Tuy nhiên, nếu sử dụng theo nghĩa rộng này, thì ngôn ngữ tiếng Việt nên gọi là: “Kiểm soát của xã hội đối với tội phạm” mới chính xác. Do đó, khái niệm kiểm soát xã hội đối với tội phạm là biện...òa nhập và; d) Niềm tin. Chẳng hạn, đối với thanh thiếu niên, Hirschi cho rằng sự gắn bó với cha mẹ, thầy cô giáo là mối ràng buộc quan trọng nhất trong việc ngăn cản hành vi phạm tội phát sinh nơi họ [9]. Lý thuyết của Travis Hirschi tạo ra hình dung về cơ chế kiểm soát của một mạng l...ng tiêu chí là loại (dạng) phương tiện kiểm soát, TS. Edward Cary Hayes - giảng viên Đại học Illinois, đã chia các phương thức kiểm soát vào hai loại: Kiểm soát bằng chế tài và kiểm soát bằng giáo dục, xã hội hóa. a) Kiểm soát bằng chế tài: phương thức kiểm soát sử dụng một hệ thống cá...
vi lệch chuẩn và tội phạm mặc dù tồn tại những cách nhìn nhận khác nhau về các loại chủ thể và phương tiện kiểm soát cụ thể nhưng nhìn chung các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng: chủ thể kiểm soát là các lực lượng xã hội và phương tiện kiểm soát là những quy tắc, giá trị, chuẩn mực, cam kết, ràng buộc xã hội Nhìn nhận như vậy cho thấy chủ thể và phương tiện kiểm soát trong mô hình kiểm soát xã hội đối với tội phạm rất đa dạng. Do đó, chúng tôi tiếp cận bằng cách phân loại các chủ thể, phương tiện kiểm soát trong mô hình kiểm soát xã hội đối với tội phạm theo nghĩa hẹp đã nêu trên. 2.3. Hệ thống chủ thể và các phương tiện kiểm soát xã hội đối với tội phạm Từ những nghiên cứu về chủ thể và phương tiện kiểm soát xã hội chung đã nêu, chúng tôi chỉ ra chủ thể và phương tiện kiểm soát xã hội đối với tội phạm như sau: a) Chủ thể kiểm soát: Bởi vì chủ thể kiểm soát là các lực lượng xã hội nên dựa vào cơ cấu, vị thế xã hội của các lực lượng ấy, có thể phân chia chủ thể thành ba loại: - Loại thứ nhất - các tổ chức, thiết chế, nhóm xã hội như: tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức tôn giáo, tổ chức giáo dục, gia đình, cộng đồng dân cư, các hội/ nhóm (tập hợp dưới lợi ích chung nào đó, phổ biến như sở thích, giải trí hoặc kỷ niệm); v.v... Các tổ chức, thiết chế, nhóm xã hội này thực hiện vai trò kiểm soát hành vi của thành viên thông qua việc áp đặt lên thành viên những quy tắc ứng xử nhất định, theo dõi, giám sát, kiểm tra thành viên. Ngay cả việc cảnh giác, bảo vệ và chủ động để mỗi thành viên tránh khỏi sự xâm phạm của tội phạm, của tệ nạn xã hội cũng là một cách kiểm soát tội phạm. Ví dụ: Mô hình dòng họ phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn, bảo vệ an ninh trật tự ngay tại cơ sở là dòng họ Ngô ở xã Hưng Xá, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An với phương châm “Tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hòa giải”; v.v... - Loại thứ hai - các cá nhân có mối quan hệ tác động, chi phối với đối tượng kiểm soát như: người thân (đặc biệt là cha mẹ), bạn bè, đồng nghiệp, thầy cô, hàng xóm, thần tượng, các nhà lãnh đạo (chính trị, xã hội hoặc tôn giáo). Những chủ thể này tác động mạnh mẽ lên đối tượng kiểm soát thông qua giáo dục, quản lý, giám sát, tuyên truyền, định hướng, nêu gương tốt; v.v - Loại thứ ba - bản thân mỗi cá nhân. Hành vi nói chung, trong đó có hành vi phạm tội, luôn được thực hiện bởi con người. Do đó, chủ thể có khả năng trực tiếp kiểm soát hành vi nhất chính là bản thân mỗi con người. Bằng nỗ lực tự kìm chế, mỗi người đều có thể giữ gìn, T.T. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 31-43 39 tự răn đe hành vi của mình không vượt ra khỏi những chuẩn mực xã hội, bao gồm pháp luật. b) Phương tiện kiểm soát: Trên cơ sở chủ thể kiểm soát, có thể chỉ ra các phương tiện kiểm soát sau: - Phương tiện thứ nhất - các quy tắc, chuẩn mực xã hội như: phong tục, tập quán, truyền thống, đạo đức, quy chế của tổ chức, tín điều tôn giáo, nghi lễ. Những quy tắc này có thể tồn tại thành văn hay bất thành văn; có thể không thống nhất ở những phạm vi không gian, thời gian khác nhau; có tác động không đồng đều lên các cá nhân nhưng chúng luôn có giá trị định hướng và đồng thời là tiêu chuẩn đánh giá hành vi của con người. - Phương tiện thứ hai - các ràng buộc xã hội đối với con người như: tình cảm, niềm tin, sự lệ thuộc, dư luận Nói một cách đơn giản về vai trò của các phương tiện này là: nếu không có sự ràng buộc thì không có lý do gì để cá nhân phải tuân thủ mọi sự kiểm soát. Chẳng hạn như không phải vì yếu tố tình cảm và sự lệ thuộc thì con cái cũng không chịu sự quản lý, giám sát của cha mẹ; tín đồ không có niềm tin thì sẽ không tuân thủ giáo lý, nghi lễ tôn giáo; người bất chấp dư luận thì sẵn sàng làm những điều lệch lạc, khác người, linh tinh; v.v - Phương tiện thứ ba - các lợi ích cơ bản, bình thường của cuộc sống như: sự bình yên, danh dự, địa vị, của cải Những lợi ích này là thiết yếu đối với con người mà chúng lại có nguy cơ tổn thất nếu con người có hành vi lệch lạc như phạm tội. Bởi vậy, chúng có thể được xem như những phần thưởng để dụ, dỗ con người giữ mình trong chuẩn mực, răn đe, cảnh tỉnh để không rơi vào “vòng xoáy tố tụng”. - Phương tiện thứ tư - các giá trị xã hội như: văn hóa, nghệ thuật, lý tưởng. Những giá trị này có tác động cảm hóa, uốn nắn, động viên con người hướng tới lối sống tốt đẹp. - Phương tiện thứ năm - những yếu tố chủ quan bên trong con người như: nhân cách, tình cảm, ý thức, khả năng giác ngộ, tiếp thu, lý tưởng cá nhân Những yếu tố này trực tiếp điều khiển hành vi của con người. Mức độ tác động của tất cả các phương tiện kiểm soát khác đối với hành vi của con người cũng phụ thuộc vào chính những yếu tố chủ quan nêu trên. Chẳng hạn như hiệu quả của sự tuyên truyền, giáo dục nhất định phụ thuộc vào khả năng nhận thức, tiếp thu của đối tượng được tuyên truyền, giáo giục hoặc mức độ tuân thủ các quy tắc ứng xử trong xã hội được quyết định phần lớn bởi ý thức cá nhân. - Phương tiện thứ sáu - những công cụ vật chất hỗ trợ hoạt động kiểm soát như: phương tiện thông tin, tuyên truyền; công cụ nghe, nhìn, giám sát Mặc dù để hỗ trợ kiểm soát nhưng những phương tiện này cũng rất quan trọng bởi vì trong xã hội hiện đại chúng được sử dụng ngày một phổ biến để tuyên truyền các chuẩn mực, giá trị cũng như để quản lý, giám sát hành vi của con người. 3. Phương thức kiểm soát xã hội đối với tội phạm 3.1. Khái niệm “Phương thức”, theo Đại Từ điển Tiếng Việt định nghĩa là: “phương pháp và hình thức tiến hành hoạt động” [4]. Như vậy, phương thức kiểm soát chính là cách hay kiểu (hình thức) thực hiện hoạt động kiểm soát. Do đó, dưới góc độ chuyên ngành, phương thức kiểm soát xã hội đối với tội phạm là những kiểu (hình thức) mà các lực lượng xã T.T.Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 31-43 40 hội tác động lên đối tượng kiểm soát nhằm ngăn chặn, giảm bớt tội phạm trong xã hội. 3.2. Phân loại và nội dung các phương thức kiểm soát xã hội đối với tội phạm Phương thức kiểm soát xã hội là một vấn đề được quan tâm khá nhiều trong cả xã hội học nói chung và Xã hội học pháp luật nói riêng. Với những cách tiếp cận, tiêu chí khác nhau, các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra khá nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Vào đầu thế kỷ 20, sử dụng tiêu chí là loại (dạng) phương tiện kiểm soát, TS. Edward Cary Hayes - giảng viên Đại học Illinois, đã chia các phương thức kiểm soát vào hai loại: Kiểm soát bằng chế tài và kiểm soát bằng giáo dục, xã hội hóa. a) Kiểm soát bằng chế tài: phương thức kiểm soát sử dụng một hệ thống các biện pháp thưởng phạt. Phần thưởng được trao cho người tuân thủ quy định và hình phạt áp dụng đối với người vi phạm. b) Kiểm soát bằng giáo dục và xã hội hóa: chủ yếu thực hiện bằng cách khuyên nhủ, khuyến khích, nêu gương tốt [11]. Trong các phương thức này, theo TS. Hayes giáo dục là phương thức quan trọng và hiệu quả nhất. Sử dụng tiêu chí là mức độ gần gũi trong quan hệ của chủ thể với đối tượng kiểm soát, nhà xã hội học gốc người Đức là Karl Mannheim lại phân chia phương thức kiểm soát xã hội thành hai kiểu - kiểm soát trực tiếp và kiểm soát gián tiếp như sau: a) Kiểm soát trực tiếp: Phương thức kiểm soát thực thi đối với cá nhân bởi phản ứng của những người gần gũi với họ trong cuộc sống. Cá nhân thực sự chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi quan điểm, ý kiến của những người xung quanh như: cha mẹ, hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp. Ứng xử của anh ta phần lớn bị định đoạt hoặc điều khiển bởi sự chỉ trích, gièm pha, tán tụng, khuyến khích, khuyên bảo... của những người đó. b) Kiểm soát gián tiếp: loại hình kiểm soát được thực hiện với cá nhân bởi các yếu tố tách biệt khỏi mình. Các phương tiện chủ yếu của phương thức này là: truyền thống, thể chế, tập quán, tín ngưỡng, sự thay đổi về địa vị, cơ cấu xã hội...[12]. Sở dĩ tác giả đánh giá phương thức này là gián tiếp vì những phương tiện kiểm soát ở đây tác động đến toàn bộ xã hội chứ không riêng đến bất kỳ cá nhân nào, tác động của chúng tinh vi và chính người bị tác động cũng không thể nhận thấy trực tiếp. Sử dụng những tiêu chí khác, Giáo sư xã hội học, sử học và ngôn ngữ học Luther Lee Bernard đưa ra hai cách phân loại về phương thức kiểm soát xã hội khác nhau. Trên cơ sở sự nhận thức của đối tượng kiểm soát, ông chia ra hai phương thức: kiểm soát có ý thức và kiểm soát vô thức. a) Kiểm soát có ý thức: kiểu kiểm soát mà đối tượng bị kiểm soát nhận thấy sự kiểm soát một cách rõ ràng. Những phương tiện kiểm soát của nó thường được phát triển và áp dụng bởi các lực lượng lãnh đạo xã hội, ví dụ như: luật lệ, quy chế tổ chức, giáo quy, tín điều tôn giáo. b) Kiểm soát vô thức: phương thức trong đó đối tượng kiểm soát tuân thủ sự kiểm soát một cách vô thức mà hầu như không chú ý hay nhận ra sự tồn tại của nó, ví dụ người ta thường hành động theo phong tục, tập quán hay truyền thống như là thói quen tự nhiên. Như vậy, theo tác giả Luther Lee Bernard thì kiểm soát có ý thức hiệu quả hơn vô thức mặc dù ảnh hưởng của kiểm soát vô thức cũng khá rõ rệt. Trên cơ sở chiều hướng tác động của hoạt động kiểm soát đối với đối tượng kiểm soát, tác giả Luther Lee Bernard phân biệt hai phương thức: kiểm soát xây dựng và kiểm T.T. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 31-43 41 soát phá hủy: Kiểm soát phá hủy bao gồm những cách như: trừng phạt, đe dọa, trả thù, quản thúc, đàn áp. Còn kiểm soát xây dựng được tiến hành bằng những hoạt động như: giáo dục, cải cách xã hội, quản lý không cưỡng bức[13]. Ngoài ra, cũng dựa trên tiêu chí chiều hướng tác động của hoạt động kiểm soát đối với đối tượng kiểm soát, tác giả Kimball Young - Chủ tịch thứ 35 của Hiệp hội xã hội học Mỹ (1945) - chia phương thức kiểm soát xã hội thành hai kiểu: kiểm soát tích cực và kiểm soát tiêu cực: a) Kiểm soát xã hội tích cực: Phương thức này dựa trên sự khao khát của phần lớn mọi người trong xã hội là mong được xã hội khen thưởng, ưu đãi. Với mong muốn đó, mọi người phải nỗ lực thích nghi với truyền thống, tục lệ, giá trị, lý tưởng mà xã hội đã thừa nhận. Nhờ đó cá nhân sẽ nhận được những phần thưởng như danh vọng, sự tôn trọng, công nhận; v.v... Như vậy, có nghĩa bản chất của phương thức kiểm soát tích cực là việc dùng những lợi ích có ý nghĩa quan trọng đối với con người để khuyến khích, thúc đẩy họ hành xử chuẩn mực. b) Kiểm soát xã hội tiêu cực: Ngược với chiều hướng khuyến khích, thúc đẩy của phương thức kiểm soát tích cực, ở phương thức tiêu cực chiều hướng tác động là đe dọa, trừng phạt. Sự trừng phạt được đặt ra để đe dọa con người, ngăn cản họ có những hành vi sai trái. Xã hội trong khi khuyến khích con người theo đuổi những kiểu hành vi có triển vọng được khen thưởng cũng đồng thời can ngăn, cản trở họ làm những việc có nguy cơ bị trừng phạt. Hình thức trừng phạt rất đa dạng, có thể nhẹ nhàng hay nghiêm khắc, có thể là về mặt vật chất hoặc chỉ là ngôn từ. Ví dụ sự trừng phạt bằng ngôn từ như: phỉ báng, chỉ trích, chê bai; sự trừng phạt vật chất như lấy đi địa vị, đẳng cấp. Nỗi sợ hãi bị trừng phạt ngăn cản người ta vi phạm những truyền thống, tục lệ, giá trị, lý tưởng đã được xã hội thừa nhận [14]. Xuất phát từ một tiêu chí khác, GS. Donald Black - người đã giảng dạy qua các trường đại học danh giá nhất tại Mỹ - trong tác phẩm nổi tiếng “The behavior of law” của mình, đã chỉ ra bốn phương thức kiểm soát xã hội mà được rất nhiều nhà khoa học sau này tham khảo là: a) Trừng phạt; b) Bồi thường; c) Điều trị; d) Hòa giải [15]. Các phương thức này được phân chia dựa trên cách nhìn nhận, thái độ đối xử đối với vi phạm pháp luật. Khi áp dụng phương thức trừng phạt tức là hành vi bị coi là nghiêm trọng, không thể tha thứ. Khi áp dụng phương thức bồi thường thì có nghĩa là việc khắc phục hậu quả của vi phạm đó mới là vấn đề được coi trọng nhất. Trong phương pháp điều trị, người vi phạm cũng được coi như một loại bệnh nhân, sự lệch lạc khỏi những chuẩn mực xã hội của họ được xem như căn bệnh cần chữa trị. Phương pháp hòa giải thì chú trọng tới nguyên nhân của vi phạm, hướng tới việc giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội để triệt tiêu mâu thuẫn, xung đột - nguyên nhân của đa số vi phạm pháp luật. Nhìn chung, tất cả các quan điểm về phương thức kiểm soát xã hội nêu trên tuy có khác nhau nhưng không phải là mâu thuẫn bởi vì chúng xuất phát từ những tiêu chí xác định khác nhau. Sự đa dạng đó chỉ góp phần làm rõ hơn về những phương diện khác nhau của các phương thức kiểm soát xã hội. Tuy nhiên, chúng tôi bổ sung thêm hai cách phân loại mới về các phương thức kiểm soát xã hội đối với tội phạm như sau: T.T.Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 31-43 42 a) Lấy mục tiêu kiểm soát làm tiêu chí phân loại, chúng tôi cho rằng có hai phương thức là: Kiểm soát hành vi phạm tội và kiểm soát tư tưởng phạm tội. - Kiểm soát hành vi phạm tội: Phương thức hướng tới mục tiêu phòng ngừa, phát giác, ngăn chặn hành vi phạm tội xảy ra hay hạn chế hậu quả thực tế của nó. Mục tiêu sẽ đạt được bằng các cách hành động như: quản lý, giám sát, theo dõi, cảnh giác, đề phòng Cụ thể, chẳng hạn việc gia đình, cơ quan, tổ chức quản lý, giám sát tốt các thành viên của mình sẽ hạn chế cơ hội phát sinh hành vi phạm tội. Trong cộng đồng dân cư có sự cộng tác thực hiện những biện pháp theo dõi, cảnh giác; mỗi gia đình, cá nhân đều chú trọng các phương tiện đề phòng, cảnh báo tội phạm thì chắc chắn tội phạm sẽ dễ bị phát hiện, ngăn chặn hoặc hạn chế hậu quả nếu xảy ra. - Kiểm soát tư tưởng phạm tội: Phương pháp mà hiệu quả khó thấy bằng trực quan hay số liệu thống kê nhưng thực tế hiệu quả nó mang lại rất to lớn. Mục tiêu của phương thức này là khiến cho những tư tưởng tiêu cực, mong muốn phạm tội không phát sinh trong xã hội. Nó có thể được thực hiện bằng tuyên truyền, giáo dục, phổ biến để những chuẩn mực, giá trị, lý tưởng tốt đẹp của nhân loại được chuyển hóa sâu sắc vào tư tưởng cá nhân khiến những suy nghĩ xấu xa, lệch lạc không có cơ hội nảy nở. Cũng có thể bằng cách đe dọa trừng phạt, trừng phạt (chỉ trích, xa lánh, miệt thị, khai trừ, tước đoạt lợi ích) làm cá nhân sợ hãi mà không dám phát sinh ý đồ phạm tội. Hoặc cách mang đến hiệu quả triệt để hơn là giải quyết các mâu thuẫn, bất công, những vấn nạn xã hội - nguồn gốc phát sinh rất nhiều loại tội phạm. Cách thức này đòi hỏi sự phối hợp hài hòa giữa hoạt động của các loại tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế với chính sách xã hội phù hợp của Nhà nước. Hai phương thức kiểm soát hành vi và kiểm soát tư tưởng trong thực tế luôn song hành và chịu sự chi phối lẫn nhau. Sự kiểm soát chặt chẽ về mặt hành vi là một cơ chế ngăn chặn tư tưởng phạm tội không phát sinh. Ngược lại, không có tư tưởng phạm tội dẫn đến không xảy ra hành vi phạm tội. b) Dựa vào tiêu chí phạm vi kiểm soát có ba phương thức: kiểm soát chung, kiểm soát nội bộ và tự kiểm soát. - Kiểm soát chung: Biện pháp kiểm soát được thực hiện thông qua những giá trị, chuẩn mực có tác động chung đối với xã hội như văn hóa, phong tục, tập quán, đạo đức, lý tưởng xã hội Mọi người chung sống trong một cộng đồng sẽ đều chịu chung sự kiểm soát này mặc dù mức độ tác động của chúng lên mỗi người có thể khác nhau. - Kiểm soát nội bộ: Biện pháp kiểm soát có hiệu lực trong phạm vi nội bộ tổ chức hoặc trong một mối liên hệ nhất định. Ví dụ như sự kiểm soát bởi quy chế, điều lệ của tổ chức, tín điều tôn giáo; sự kiểm soát giữa thành viên gia đình, dòng họ, bạn bè, thầy trò; v.v... - Tự kiểm soát: Phương thức kiểm soát đặc biệt, nó diễn ra bên trong mỗi cá nhân. Tất cả những biện pháp kiểm soát từ bên ngoài có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tự kiểm soát của cá nhân. Tự kiểm soát được thực hiện nhờ những yếu tố thuộc về riêng cá nhân như nhân cách, trí tuệ, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh, ý thức. Những yếu tố này quyết định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân. Sự tích cực của những yếu tố đó giúp cho hành vi của cá nhân được kìm chế trong chuẩn mực và ngược lại là lệch lạc, phạm tội. Tóm lại, bước đầu nghiên cứu về những vấn đề lý luận cơ bản về chủ thể, phương thức và phương tiện kiểm soát xã hội đối với tội T.T. Việt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 30, Số 1 (2014) 31-43 43 phạm có ý nghĩa chính trị, xã hội, pháp lý và quốc tế xã hội quan trọng, qua đó nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận khác trong kiểm soát xã hội đối với tội phạm, cũng như đánh giá, tổng kết kinh nghiệm các nước và của Việt Nam trong thời gian qua vẫn luôn có tính thời sự cấp bách. Những nỗ lực đó được thực hiện không những bởi Nhà nước, Chính phủ và các cộng đồng xã hội, dân cư, mà còn là trách nhiệm của các nhà lập pháp, các cán bộ hoạt động thực tiễn, cũng như của các nhà xã hội học, luật gia và những nhà Tội phạm học đương đại của Việt Nam và thế giới. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, tr.212. [2] USSC, Phương pháp tiếp cận cơ bản, trong “Hướng dẫn sử dụng án lệ Liên bang”, 2009 [3] Lê Thị Sơn, Về khái niệm kiểm soát xã hội và kiểm soát tội phạm, Tạp chí Luật học, số 8/2012, tr.45. [4] Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010, tr.842. [5] Jensen and Gary F, Social Control Theories in “Encyclopedia of Criminology”, Richard A. Wright (Editor), Fitzroy Dearborn Publishers - UK, 2005, p.35. [6] Ross and Edward Alsworth, Social control: A survey of the foundations of order, published May, 1901 by The Macmillan company, USA (Part II “The means of control”), p.89-375. [7] Frederick Elmore Lumley, Means of social control, published in 1925 by The Century, New York, USA, p.33. [8] Rajendra Kumar Sharma, Social change and social control, published in 1997 by Atlantic publisher and distributor LTD, New Delhi, India, p.222-227. [9] Travis Hirschi, Causes of Delinquency, Copyright 1969 by The Regents of the University of California, p.251-257. [10] Robert B Cialdini, Descriptive social norms as underappreciated sourse of social control, Psychometrika (the official journal of the Psychometric Society), Vol. 72, No.2, June 2007, p.263-268. [11] Edward Cary Hayes, Introduction to the study of sociology, published by D.Appleton and company, 1915, p.581-690. [12] Karl Mannheim, Social controls and the degenerations of democracy, published in April, 1992 by The Foundation for Classical Reprints, USA, p.33. [13] Luther Lee Bernard, Social control in its sociological aspect, published in December, 1939 by The Macmillan Company, p.23. [14] Kimball Young, Social psychology: An analysis of social behavior, 1930, Alfred A.Knopf Publisher, New York, p.632-674. [15] Donald Black, The behavior of law, special edition 2010, published by Emerald Group Publishing Limited, UK, p.4-6 (First edition 1976). Social Control of Crime: Subjects, Means and Methods Trịnh Tiến Việt VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract: Social control of crime is a new and complex issue of criminology in Vietnam. Social control of crime is also an effective measure of crime prevention. The research focuses on clarifying subjects, methods and means of social control of crime on the basis of social control theory of crime. Keywords: Social control of crime; Control subjects; Control methods; Control means.
File đính kèm:
- chu_the_phuong_thuc_va_phuong_tien_kiem_soat_xa_hoi_doi_voi.pdf