Cuộc đại suy thoái tại Hoa Kỳ

Tóm tắt Cuộc đại suy thoái tại Hoa Kỳ: ... khiến mỗi công dân Mỹ lại thực sự quan tâm đến chính phủ. CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI LẦN THỨ NHẤT Ngân hàng và Tài chính Khi Roosevelt tuyên thệ nhậm chức tổng thống, hệ thống ngân hàng và tài chính của Mỹ đang trong tình trạng tê liệt. Đầu tiên, các ngân hàng quốc gia nhanh chóng bị đóng ...a là một dự án quy hoạch các công trình công cộng, đã phát triển vùng thung lũng nghèo của sông Tennessee bằng cách xây dựng một loạt các đập nước nhằm kiểm soát lũ lụt và làm thủy điện. Bằng việc cung cấp điện với giá rẻ cho toàn bộ vùng Tennessee, cơ quan này đã thúc đẩy sự tăng trưởng nhất ...chỉ phần nào là nhờ vào các chương trình liên bang mà thôi. Trong những năm đó, khi chủ đất được khuyến khích không dùng đất vào trồng trọt, thải hồi những người làm thuê và những người lĩnh canh, thì một trận hạn hán khắc nghiệt đã ập xuống các bang vùng Plains. Gió mạnh và những cơn bão cá...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Cuộc đại suy thoái tại Hoa Kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CUỘC ĐẠI SUY THOÁI TẠI HOA KỲ 
 Tháng 10/1929, thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh đã bị sụp đổ 
khiến nhiều nhà đầu tư phá sản. Nhưng việc thị trường chứng khoán sụp đổ không 
trực tiếp gây ra cuộc Đại suy thoái, mặc dù nó đã phản ánh chuyện các chính sách 
tín dụng quá dễ dãi đã khiến thị trường vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Nó cũng làm 
trầm trọng hơn nền kinh tế vốn đã mong manh ở châu Âu - là thị trường có liên 
quan chặt chẽ đến các khoản cho vay của nước Mỹ. Trong ba năm sau đó, cuộc 
suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ đã trở thành một phần của cuộc suy thoái 
kinh tế trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp đóng cửa, các nhà máy ngừng sản 
xuất, các nhà băng phá sản vì mất các khoản tiền gửi tiết kiệm. Thu nhập nông 
nghiệp giảm khoảng 50%. Đến tháng 11/1932, cứ năm người Mỹ thì có khoảng 
một người thất nghiệp. 
 Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1932 chủ yếu là cuộc tranh luận về các 
nguyên nhân và những giải pháp có thể cho cuộc Đại suy thoái. Tổng thống 
Herbert Hoover đã không may mắn khi bước vào Nhà Trắng chỉ tám tháng trước 
khi thị trường chứng khoán tan vỡ, đã buộc phải nỗ lực và làm việc căng thẳng 
hơn bất kỳ tổng thống Mỹ nào trước đó để đối phó với giai đoạn kinh tế vô cùng 
khó khăn này. Ông đã cố gắng tổ chức kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ xây dựng 
những công trình công cộng, thành lập Công ty Tái thiết Tài chính nhằm hỗ trợ 
các thể chế kinh doanh và tài chính, và đã thuyết phục Quốc hội còn đang miễn 
cưỡng, cho phép thành lập một cơ quan bảo lãnh thế chấp nhà cửa. Tuy nhiên, các 
nỗ lực của ông không có mấy hiệu quả và ông đã là một hình ảnh của sự thất bại. 
 Đối thủ thuộc Đảng Dân chủ của ông là Franklin D.Roosevelt, vốn đã nổi tiếng 
từ khi làm thống đốc bang New York trong thời kỳ khủng hoảng đang lên cao. Từ 
ông luôn tỏa ra một tinh thần lạc quan có tính lan tỏa mạnh. Sẵn sàng sử dụng 
quyền lực nhà nước để đưa ra các giải pháp còn mạnh tay hơn, Roosevelt đã giành 
được 22.800.000 phiếu bầu phổ thông so với 15.700.000 phiếu bầu cho Tổng 
thống đương nhiệm Hoover. Nước Mỹ đang chuẩn bị bước vào một kỷ nguyên 
mới với sự thay đổi lớn về kinh tế và chính trị. 
 CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI VÀ CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI 
 ROOSEVELT VÀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI 
 V ào năm 1933, vị tổng thống mới Franklin D. Roosevelt đã mang tới một bầu 
không khí tự tin và niềm lạc quan, và điều đó đã mau chóng tập hợp được dân 
chúng đến với tấm biểu ngữ chương trình của ông mang tên Chính sách kinh tế 
mới (New Deal). Điều duy nhất khiến chúng ta sợ hãi chính là bản thân nỗi khiếp 
sợ - vị tổng thống đã tuyên bố như vậy trong diễn văn nhậm chức của mình trước 
dân tộc. 
 Xét trên khía cạnh nào đó thì Chính sách kinh tế mới chỉ đơn thuần đưa ra 
những cải cách xã hội và kinh tế vốn đã rất quen thuộc đối với người châu Âu từ 
hơn một thế hệ nay. Hơn nữa, Chính sách kinh tế mới là cao trào của một xu 
hướng dài hạn nhằm tiến tới bãi bỏ chủ nghĩa tư bản không can thiệp, trở lại việc 
kiểm soát đường sắt vào những năm 1880, và đưa ra hàng loạt cải cách luật pháp 
bang và liên bang đã được khởi xướng trong kỷ nguyên tiến bộ thời các Tổng 
thống Theodore Roosevelt và Woodrow Wilson. 
 Tuy nhiên, điều thực sự mới mẻ trong Chính sách kinh tế mới là nó đã nhanh 
chóng đạt được những thành tựu mà trước đó phải mất nhiều thế hệ mới có được. 
Rất nhiều chương trình cải cách trong số này đã được khởi thảo một cách vội vã 
và được quản lý lỏng lẻo; một số khác thì lại mâu thuẫn với những mô hình cải 
cách còn lại. Hơn nữa, chính sách này chưa bao giờ thành công trong việc đem lại 
sự thịnh vượng. Tuy vậy, những hành động trong Chính sách kinh tế mới đã giúp 
đỡ hàng triệu người Mỹ, xây dựng nền tảng cho một liên minh chính trị hùng 
mạnh, và khiến mỗi công dân Mỹ lại thực sự quan tâm đến chính phủ. 
 CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI LẦN THỨ NHẤT 
 Ngân hàng và Tài chính 
 Khi Roosevelt tuyên thệ nhậm chức tổng thống, hệ thống ngân hàng và tài chính 
của Mỹ đang trong tình trạng tê liệt. Đầu tiên, các ngân hàng quốc gia nhanh 
chóng bị đóng cửa, và sau đó, chỉ được hoạt động trở lại khi chúng có khả năng 
chi trả. Chính quyền đã thực thi chính sách lạm phát tiền tệ vừa phải để tăng giá cả 
của hàng hóa và giúp cho các gánh nặng nợ nần nhẹ nhõm phần nào. Các cơ quan 
mới của chính phủ đã cấp những khoản tín dụng hào phóng cho nông nghiệp và 
công nghiệp. Công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) đã bảo hiểm tới 5000 
đô-la cho các khoản tiền tiết tiết kiệm gửi ngân hàng. Các điều luật Liên bang 
cũng được áp dụng cho hoạt động bán chứng khoán trên sở giao dịch chứng 
khoán. 
 Thất nghiệp. 
 Tổng thống Roosevelt đã phải đối mặt với một tỉ lệ thất nghiệp cao chưa từng 
có trong lịch sử. Vào thời điểm ông nhậm chức, có khoảng 13 triệu người Mỹ - 
chiếm một phần tư lực lượng lao động - không có việc làm. Những hàng người 
chờ đợi được phân phát bánh mỳ là cảnh tượng thường thấy tại hầu hết các thành 
phố. Hàng trăm nghìn người lang thang khắp đất nước để tìm kiếm thức ăn, việc 
làm và nơi trú ngụ. "Người anh em ơi, bạn có mười xu không?” là đoạn điệp khúc 
trong một bài hát thịnh hành thời đó. 
 Bước đi đầu tiên nhằm giải quyết nạn thất nghiệp là hình thành Đội Bảo tồn 
Dân sự (CCC), một chương trình trợ giúp thanh niên từ 18 đến 25 tuổi. CCC tập 
hợp thanh niên không có việc làm thành những trại lao động do quân đội quản lý. 
Trong thập niên đó, đã có khoảng hai triệu thanh niên đã tham gia chương trình 
này. Họ hoạt động trong nhiều dự án bảo tồn: trồng cây chống xói mòn, bảo vệ các 
khu rừng quốc gia, loại bỏ ô nhiễm các dòng suối, xây dựng các khu bảo tồn cá, 
thú săn và chim, bảo vệ các vỉa than, mỏ dầu, đá phiến dẹt, mỏ khí đốt, mỏ muối 
natri và mỏ khí heli. 
 Cơ quan Quản lý các công trình công cộng (PWA) cung cấp việc làm cho 
những công nhân có tay nghề cao trong ngành xây dựng, chủ yếu làm việc trong 
các dự án lớn hoặc các dự án có quy mô vừa. Các công trình nổi tiếng trong giai 
đoạn này là đập nước Bonneville, đập Lớn Coulee tại miền Đông Bắc Thái Bình 
Dương, hệ thống cống ở Chicago, cầu Triborough ở thành phố New York, và hai 
tàu sân bay (Yorktown và Enterprise) cho Hải quân Mỹ. 
 Cơ quan Tennessee Valley (TVA), vừa là một chương trình tạo công ăn việc 
làm, vừa là một dự án quy hoạch các công trình công cộng, đã phát triển vùng 
thung lũng nghèo của sông Tennessee bằng cách xây dựng một loạt các đập nước 
nhằm kiểm soát lũ lụt và làm thủy điện. Bằng việc cung cấp điện với giá rẻ cho 
toàn bộ vùng Tennessee, cơ quan này đã thúc đẩy sự tăng trưởng nhất định về kinh 
tế, nhưng lại khiến các công ty điện lực tư nhân ghen ghét và thù địch. Các nhà 
kinh tế xã hội mới ca ngợi rằng đây là một ví dụ tiêu biểu về dân chủ cơ sở. 
 Trong suốt hơn 2 năm hoạt động từ 1933 đến 1935, Cơ quan Cứu trợ Khẩn cấp 
Liên bang (FERA) đã trực tiếp phân phát cứu trợ, chủ yếu dưới hình thức trả tiền 
trực tiếp cho hàng trăm nghìn người. Đôi khi, tổ chức này còn trợ cấp lương cho 
các giáo viên và nhân viên trong các cơ quan hành chính ở địa phương. Tổ chức 
này cũng đã triển khai nhiều dự án công cộng quy mô nhỏ cung cấp việc làm, cũng 
giống như Cơ quan Lao động Dân sự (CWA) từ cuối năm 1933 đến mùa xuân năm 
1934. Đây bị chỉ trích là những việc làm giá trị, những công việc này có đủ loại, từ 
việc đào hào tới sửa chữa đường cao tốc và dạy học. Roosevelt và các quan chức 
nòng cốt của ông trong chính phủ đã lo lắng về các khoản chi phí dành cho những 
dự án cung cấp việc làm này, nhưng ông vẫn tiếp tục ủng hộ các chương trình 
chống nạn thất nghiệp, dựa trên nguyên tắc tạo ra công ăn việc làm chứ không 
phải là trợ cấp phúc lợi xã hội. 
 Nông nghiệp. 
 Vào mùa xuân năm 1933, khu vực kinh tế nông nghiệp đang trong tình trạng 
suy sụp. Điều đó khiến những người khởi xướng Chính sách kinh tế mới có cơ sở 
để thử nghiệm niềm tin của họ rằng việc điều tiết nhiều hơn sẽ giải quyết được 
nhiều vấn đề của đất nước. Năm 1933, Quốc hội đã thông qua Luật Điều chỉnh 
Nông nghiệp (AAA) nhằm trợ giúp kinh tế cho nông dân. AAA đề xuất tăng giá 
nông sản bằng cách trả cho nông dân một khoản trợ cấp đền bù cho phần sản 
lượng tự nguyện cắt giảm. Nguồn tiền cho những khoản trợ cấp này có được do số 
thu từ thuế đánh vào những ngành công nghiệp chế biến nông sản. Tuy nhiên, cho 
đến khi điều luật này chính thức trở thành luật, thì vụ gieo trồng đã diễn ra rồi, và 
AAA buộc phải trả cho nông dân một khoản tiền trợ cấp để họ phá bỏ các mảnh 
đất đã được gieo trồng. Việc cắt giảm sản lượng và trợ cấp nông nghiệp thông qua 
Công ty Tín dụng Nông sản - là công ty thu mua nông sản để cất trữ - khiến cho 
sản lượng trên thị trường giảm xuống và giá nông sản tăng lên. 
 Từ năm 1932 đến năm 1935, thu nhập của nông dân tăng hơn 50% nhưng chỉ 
phần nào là nhờ vào các chương trình liên bang mà thôi. Trong những năm đó, khi 
chủ đất được khuyến khích không dùng đất vào trồng trọt, thải hồi những người 
làm thuê và những người lĩnh canh, thì một trận hạn hán khắc nghiệt đã ập xuống 
các bang vùng Plains. Gió mạnh và những cơn bão cát đã tàn phá khắp vùng khiến 
miền này nổi danh là xứ bụi trong suốt những năm 1930. Mùa màng bị tàn phá và 
các nông trại bị phá hủy. 
 Cho đến năm 1940, khoảng 2, 5 triệu người đã rời khỏi các bang vùng Plains, 
tạo thành dòng người di cư lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Trong số đó, khoảng 
200.000 người đã đến California. Những người di cư không chỉ gồm có nông dân 
mà còn bao gồm cả lao động chuyên môn, người bán lẻ và nhiều lớp người khác 
mà sinh kế của họ gắn với sự thăng trầm của các cộng đồng nông nghiệp. Nhiều 
người trong số họ cuối cùng đã phải tranh nhau tìm kiếm những công việc mang 
tính thời vụ như thu hái nông sản với đồng lương cực kỳ rẻ mạt. 
 Chính phủ đã ra tay cứu trợ bằng cách thành lập Cơ quan Bảo toàn Đất đai năm 
1935. Những tập quán canh tác làm tàn phá đất đai đã làm cho ảnh hưởng của hạn 
hán càng trầm trọng thêm. Cơ quan này đã hướng dẫn nông dân các biện pháp làm 
hạn chế xói mòn. Ngoài ra, gần 30.000 km cây trồng đã được trồng lên để làm 
giảm sức mạnh của gió. 
 Tuy AAA phần nhiều là thành công, nhưng nó vẫn bị bãi bỏ vào năm 1936, khi 
các khoản thuế đánh vào các công ty chế biến thực phẩm bị Tòa án Tối cao cho là 
không hợp hiến. Quốc hội đã nhanh chóng thông qua một điều luật hỗ trợ nông 
dân, cho phép chính phủ trợ cấp cho những nông dân chấp nhận bỏ đất không gieo 
trồng nhằm mục đích bảo toàn đất đai. Năm 1938, với đa số thành viên ủng hộ 
Chính sách kinh tế mới tại Tòa án Tối cao, Quốc hội đã phục hồi điều luật AAA. 
 Cho tới năm 1940, gần sáu triệu nông dân đã nhận được trợ cấp liên bang. Các 
chương trình Chính sách kinh tế mới đã cấp các khoản vay cho những vụ gieo 
trồng tăng thêm, cung cấp bảo hiểm lúa mì và hệ thống cất trữ theo kế hoạch, 
nhằm đảm bảo nguồn cung cấp lương thực ổn định. Cuối cùng, chính sách ổn định 
kinh tế cho nông dân cũng đã được hoàn tất, mặc dù chính phủ đã phải giám sát vô 
cùng chặt chẽ và bỏ ra những khoản chi phí khổng lồ. 
 Công nghiệp và lao động. 
 Cơ quan Phục hồi Quốc gia (NRA) được thành lập năm 1933 cùng với Đạo luật 
Phục hồi Công nghiệp Quốc gia (NIRA) đã chấm dứt cạnh tranh gay gắt bằng việc 
đưa ra các bộ luật về cạnh tranh công bằng nhằm tạo nhiều việc làm hơn và do đó 
sẽ làm tăng sức mua. Tuy lúc đầu, NRA rất được hoan nghênh, nhưng nó đã sớm 
bị phàn nàn vì đã điều tiết quá mức và khiến cho việc phục hồi công nghiệp không 
được hoàn thành. Cơ quan này đã bị tuyên bố là không hợp hiến vào năm 1935. 
 NIRA đã đảm bảo cho lao động quyền được thương lượng tập thể thông qua các 
tổ chức công đoàn đại diện cho tầng lớp công nhân. Tuy nhiên, NRA đã không 
vượt qua được sự phản đối mạnh mẽ của giới doanh nghiệp đối với chủ nghĩa 
nghiệp đoàn độc lập. Sau khi cơ quan này giải thể vào năm 1935, Quốc hội đã 
thông qua Luật Quan hệ Lao động Quốc gia. Luật này đã khẳng định lại sự bảo 
đảm đó và cấm giới chủ lao động can thiệp vào hoạt động của Công đoàn. Quốc 
hội cũng lập ra Ban Quan hệ Lao động Quốc gia (NLRB) để giám sát các cuộc 
thương lượng tập thể, điều hành các cuộc bầu cử và bảo đảm cho công nhân quyền 
lựa chọn tổ chức đại diện cho họ trong việc thương lượng với giới chủ. 
 Sự tiến bộ lớn lao đạt được trong tổ chức lao động đã mang lại cho người lao 
động ý thức ngày càng tăng về những quyền lợi chung, và sức mạnh của các tầng 
lớp lao động đã tăng lên không chỉ trong công nghiệp, mà cả về mặt chính trị. 
Đảng Dân chủ của Roosevelt đã được lợi rất nhiều từ những tiến bộ này. 

File đính kèm:

  • pdfcuoc_dai_suy_thoai_tai_hoa_ky.pdf