Đánh giá chương trình bồi dưỡng năng lực tiếng Anh và phần mềm hỗ trợ dạy học dành cho giáo viên tiểu học và trung học cơ sở thuộc Đề án NNQG 2020
Tóm tắt Đánh giá chương trình bồi dưỡng năng lực tiếng Anh và phần mềm hỗ trợ dạy học dành cho giáo viên tiểu học và trung học cơ sở thuộc Đề án NNQG 2020: ... thâm niên 10 đến 20 năm, 14 giảng viên có thâm niên trên 20 năm, 3 giảng viên có bằng tiến sĩ, 126 giảng viên có bằng thạc sĩ, 51 giảng viên có bằng cử nhân, 144 giảng viên có kinh nghiêm tham gia các chương trình bồi dưỡng khác trước khi tham gia Đề án (Đ.A) 2020, 36 giảng viên chưa t...ềm hỗ trợ dạy học, vẫn còn 10 giảng viên (chiếm 5.6%) chưa hài lòng với các phần mềm hỗ trợ dạy học. Đánh giá của CBQL về CTBD NLTA&PM được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây: N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 7 Bảng 3. Số liệu thống kê ...ân tích hồi quy tuyến tính N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 9 đơn biến cho thấy CTBD NLTA&PM có mối tương quan ý nghĩa mạnh nhất với giáo trình, tài liệu bồi dưỡng (F1, 30 = 237.025, p = 0.000). Tiếp sau đó CTBD tương quan ý nghĩa với nội d...
ếm 39.4%) hoàn toàn đồng ý với chương trình khung, 88 giảng viên (chiếm 48.9%) đồng ý giữ nguyên CT khung, 21 giảng viên (chiếm 11.7%) muốn thay đổi CT khung, 55 giảng viên (chiếm 30.6%) hoàn toàn đồng ý về giáo tình tài liệu sử dụng, 84 giảng viên (chiếm 46.78%) đồng ý giữ nguyên giáo trình tài liệu, có 41 giảng viên muốn thay đổi giáo trình tài liệu, 79 giảng viên (chiếm 43.9%) hoàn toàn hài lòng với năng lực tiếng của học viên, 90 giảng viên (chiếm 50%) hài lòng về năng lực tiếng của học viên, còn 11 giảng viên (chiếm 6.1%) chưa hài lòng về năng lực tiếng của học viên, 55 giảng viên (chiếm 30.5%) hoàn toàn hài lòng với các phần mềm hỗ trợ dạy học, 115 giảng viên (chiếm 63.9%) hài lòng với các phần mềm hỗ trợ dạy học, vẫn còn 10 giảng viên (chiếm 5.6%) chưa hài lòng với các phần mềm hỗ trợ dạy học. Đánh giá của CBQL về CTBD NLTA&PM được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây: N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 7 Bảng 3. Số liệu thống kê về đánh giá chung của CBQL dành cho chương trình bồi dưỡng tiếng Anh Không đồng ý Đồng ý Hoàn toàn đồng ý Tần suất Phần trăm (%) Tần suất Phần trăm (%) Tần suất Phần trăm (%) Năng lực T.A 9 7.9 35 30.4 71 61.7 PPGD T.A 14 12.2 40 34.8 61 53 Năng lực chung 16 13.9 56 48.7 43 37.4 Bảng hỏi tổng 12 10.5 52 45.2 51 44.3 g Về bảng hỏi tổng, có 51 CBQL (chiếm 44.3%) hoàn toàn ủng hộ CTBD NLTA&PM, 52 CBQL đồng ý với CTBD, tuy nhiên vẫn có 12 CBQL (chiếm 10.5%) phản đối. Chi tiết hơn về sự hài lòng đối với chương trình khung, giáo trình, tài liệu, năng lực tiếng, phần mềm hỗ trợ như sau: 71 CBQL (chiếm 61.7%) hoàn toàn hài lòng với năng lực tiếng Anh của học viên, 35 CBQL (chiếm 30.4%) hài lòng với năng lực tiếng Anh của học viên, chỉ có 9 CBQL (chiếm 7.9%) chưa hài lòng với năng lực tiếng Anh của học viên, 61 CBQL (chiếm 53%) hoàn toàn hài lòng với PPGD tiếng Anh của học viên, 40 CBQL (chiếm 34.8%) hài lòng với PPGD tiếng Anh của học viên, có 14 CBQL (chiếm 12.2%) chưa hài lòng với PPGD tiếng Anh của học viên, 43 CBQL (chiếm 37.4%) hoàn toàn hài lòng với năng lực chung của học viên, 56 CBQL (chiếm 48.7%) hài lòng với năng lực chung của học viên, còn 16 CBQL (chiếm 13.9%) chưa hài lòng với năng lực chung của học viên. So sánh đánh giá chung về CTBD NLTA&PM giữa các nhóm giáo viên, giảng viên, và CBQL tại các sở GD&ĐT So sánh đánh giá chung về CTBD NLTA&PM giữa các nhóm giáo viên: Qua so sánh đánh giá chung giữa các nhóm giáo viên khác nhau cho thấy hầu hết đánh giá trong các nhóm khác nhau đều có khác biệt ý nghĩa. Các nhóm khác biệt không có ý nghĩa khoa học bao gồm nhóm giới tính, nhóm bằng cấp; tuy trong đánh giá của họ có đôi chút khác biệt về giá trị trung bình, nhưng do chỉ số ý nghĩa sig > 0.05, nên sự khác biệt này chỉ là ngẫu nhiên. Về tiêu chí vùng công tác của giáo viên đánh giá: Giáo viên đến từ các vùng khác nhau có mức độ hài lòng khác nhau về CTBD này, vùng Tây Bắc khác bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ; Đông Bắc Bộ khác Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ; Tây Nguyên khác Đông Nam Bộ và Tây Bắc . với sig < 0.05. Tuy nhiên giáo viên tham gia bồi dưỡng thuộc các tỉnh Bắc Trung Bộ có mức độ hài lòng về CTBD cao nhất, và có khác biệt ý nghĩa với tất cả các vùng khác, cụ thể là: Cao hơn giáo viên đến từ các tỉnh Đông Nam Bộ (vùng có mức đánh giá thấp nhất) 10.5 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (8.76 ÷ 12.23); Cao hơn giáo viên đến từ các tỉnh Tây Nam Bộ 8.82 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (6.63 ÷ 11.0); Cao hơn giáo viên đến từ các tỉnh Việt Bắc 6.39 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (4.56 ÷ 8.23); Cao hơn giáo viên đến từ các tỉnh Tây Bắc 5.21 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (3.03 ÷ 7.39); Cao hơn giáo viên đến từ các tỉnh Tây Nguyên 3.85 đơn vị với độ giá trị sig = 0.043 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (0.12 ÷ 7.8); cuối cùng là cao hơn giáo viên đến từ các tỉnh Đông Bắc Bộ 2.9 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (1.35 ÷ 4.46). Như vậy, giáo viên thuộc các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có sự hài lòng nhiều nhất đối với CTBD này. Vùng có mức độ hài lòng nhất vẫn thuộc về các tỉnh Nam Bộ. Về tiêu chí nhóm khu vực sinh sống của giáo viên đánh giá: giáo viên sinh sống tại khu vực nông thôn có mức độ hài lòng về CTBD cao hơn so với giáo viên công tác tại khu vực miền núi 1.51 đơn vị với độ giá trị sig N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 8 = 0.017 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (0.27 ÷ 2.79); và cao hơn giáo viên công tác tại vùng thành thị 3.52 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (2.26 ÷ 4.78). Về tiêu chí nhóm trường bồi dưỡng, điểm cao nhất lần lượt thuộc về Trường ĐH Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên, ĐH Huế, Trường ĐH Vinh, Trường ĐH Hà Nội, Trường ĐHSP Hà Nội, Trường ĐH Ngoại ngữ – ĐHQGHN. Trái lại, các trường tốp dưới lần lượt là: Trung tâm EMCO có mức hài lòng thấp nhất, tiếp theo là Trung tâm AMA, Trung tâm VUS, Trường ĐH Đồng Nai, Trường CĐ Hải Dương, Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, Trung tâm SEMEO. Các kết quả kiểm định cho thấy hầu hết sự khác biệt về điểm số trong ý kiến đánh giá của nhóm cao nhất và nhóm thấp nhất có ý nghĩa thống kê. Lấy ví dụ về Trường ĐH Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên (là trường có điểm số đánh giá cao nhất), điểm số hài lòng của giáo viên về CTBD NLTA&PM của Trường ĐH Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên lần lượt cao hơn một cách có ý nghĩa so với một số trường tham gia bồi dưỡng khác như sau: Cao hơn Trung tâm EMCO (đơn vị có mức đánh giá thấp nhất) 20.07 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (15.75 ÷ 24.39); Cao hơn Trung tâm AMA (đơn vị có mức đánh giá thấp thứ hai) 18.96 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (13.78 ÷ 24.15); Cao hơn Trung tâm VUS 16.7 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (13.04 ÷ 20.38); Cao hơn Trường ĐH Đồng Nai 15.5 đơn vị với độ giá trị sig = 0.000 nằm trong khoảng tin cậy 95% là (11.76 ÷ 19.24). So sánh đánh giá chung về CTBD NLTA&PM giữa các nhóm giảng viên: So sánh đánh giá chung giữa các nhóm giảng viên khác nhau cho thấy đối với giảng viên, do các phép kiểm định đều cho sig > 0.05, nên chúng ta không cần có nhưng chú ý quan trọng về những khác biệt giữa các nhóm, và vì thế cũng không có nhiều gợi ý cụ thể cho các trường tham gia bồi dưỡng về sự quan tâm đối với giảng viên. Tất cả đều cảm thấy hài lòng với CTBD. Các đánh giá của họ đều rất lạc quan. Các đề xuất thay đổi chỉ dành cho học viên, và đều được phân tích trong phần phỏng vấn. So sánh đánh giá chung về CTBD NLTA&PM giữa các nhóm CBQL tại các sở GD&ĐT: Qua so sánh đánh giá chung giữa các nhóm CBQL sở GD&ĐT khác nhau, nhìn chung cán bộ quản lí sở GD&ĐT thuộc các nhóm khác nhau có những đánh giá khác nhau về CTBD. Tuy các khác biệt đó đều không ý nghĩa khoa học, khi sig> 0.05. Nghĩa là các đánh giá đó đều ngẫu nhiên. Các nguyên nhân gây tác động tới việc đánh giá chương trình bồi dưỡng NLTA&PM Tác dụng giải thích của các nội dung đánh giá tới toàn bộ CTBD NLTA&PM dựa vào phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến: Với bảng câu hỏi điều tra dành cho giáo viên thụ hưởng CTBD, nội dung chương trình khung của CTBD NLTA&PM, nội dung giáo trình – tài liệu bồi dưỡng, và nội dung thu hoạch của giáo viên sau khi tham gia CTBD đều có tương quan thuận và chặt với nhau. Trong đó nội dung chương trình khung NLTA&PM (Q10) có mức tương quan cao nhất (r = 0.937). Hai nội dung còn lại là giáo trình và thu hoạch của bản thân cũng có mức tương quan rất cao, r ≈ 0.9. Điều này cho thấy muốn nâng cao chất lượng CTBD cần chú trọng đến việc cải thiện nội dung chương trình khung. Chương trình khung hợp lí về thời lượng, dung lượng và nội dung các mô đun kiến thức đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực dạy học tiếng Anh THCS và gắn với việc đạt chuẩn đầu ra là cơ sở quan trọng để xây dựng CTBD NLTA&PM tích cực và tiên tiến. Với bảng câu hỏi điều tra dành cho giảng viên tham gia CTBD, các nội dung đánh giá về CTBD NLTA&PM đều có mức tương quan rất cao, r ≈ 0.9. Phép phân tích hồi quy tuyến tính N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 9 đơn biến cho thấy CTBD NLTA&PM có mối tương quan ý nghĩa mạnh nhất với giáo trình, tài liệu bồi dưỡng (F1, 30 = 237.025, p = 0.000). Tiếp sau đó CTBD tương quan ý nghĩa với nội dung chương trình khung (F1, 30 = 222.524, p = 0.000, β= 0.939). Tiếp sau nội dung chương trình khung là nội dung giáo trình tài liệu bồi dưỡng. Tác dụng giải thích của các nội dung đánh giá tới toàn bộ CTBD NLTA&PM dựa vào phân tích hồi quy tuyến tính đa biến: Với bảng câu hỏi điều tra dành cho giáo viên thụ hưởng, khả năng tác động đến biến thiên của CTBD của nội dung chương trình khung (Q10) là lớn nhất (β = 0.629), trong khi nội dung đánh giá thu hoạch sau khi tham gia CTBD tác động ít hơn rất nhiều (β = 0.439). Như vậy qua các phép phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến và tuyến tính đa biến, giáo viên thụ hưởng CTBD đã luôn đánh giá cao nhất nội dung chương trình khung của CTBD. Đây là nội dung chính cần thay đổi, điều chỉnh tích cực hơn nếu muốn nâng cao chất lượng CTBD. Các nội dung trong phần phỏng vấn sẽ cho thấy những đề xuất cụ thể liên quan đến nội dung đánh giá này. Với bảng câu hỏi điều tra dành cho giảng viên tham gia CTBD, chi tiết về khả năng giải thích của hai nội dung đánh giá trên được mô tả trong bảng dưới đây: Bảng 4. Bảng hệ số hồi quy tuyến tính đa biến (Coefficientsa) của các nội dung đánh giá đối với CTBD NLTA&PM trong bảng hỏi dành cho giảng viên Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients 95% Confidence Interval for B Correlations Model B Std. Error Beta T Sig. Lower Bound Upper Bound Zero- order Partial Part (Constant) 6.124 2.843 2.154 0.04 0.309 11.938 Q10 1.854 0.170 0.596 10.924 0.00 1.507 2.201 0.942 0.897 0.375 2 Q11 1.190 0.146 0.445 8.143 0.00 0.891 1.489 0.908 0.834 0.280 a. Dependent Variable: Toàn bảng hỏi giảng viên g Như vậy qua các phép phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến và tuyến tính đa biến, giảng viên tham gia CTBD đã luôn đánh giá cao nhất giáo trình tài liệu bồi dưỡng của CTBD. 4. Kết luận và khuyến nghị 4.1. Kết luận Về đánh giá chung của ba đối tượng điều tra (giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lí) đối với CTBD NLTA&PM và các khía cạnh bên trong của CTBD: Nhìn chung CTBD NLTA&PM rất tốt, đáp ứng nhu cầu của giáo viên cả nước. Điểm trung bình chung từ cả ba phía (giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lí) ở mức cao. Trong đó điểm đánh giá cao nhất thuộc về giảng viên tham gia bồi dưỡng. ● Phần đánh giá về nội dung chương trình khung: Cả giảng viên và giáo viên đánh giá cao nhất ở nội dung chương trình giúp người học hiểu rõ mục đích, và mục tiêu và nhiệm vụ học tập, mục tiêu chương trình rõ ràng, hợp lí. Giáo viên thụ hưởng đánh giá thấp nhất ở điểm phản hồi từ các học viên khác là tích cực. Giảng viên tham gia dạy CTBD đánh giá thấp nhất ở điểm số chương trình được thiết kế khoa học, hệ thống. Đây là báo hiệu cho việc cần có những cập nhật, bổ sung thường xuyên về CTBD để đáp ứng nhu cầu của người học. ● Phần đánh giá về giáo trình, tài liệu bồi dưỡng: giáo viên đều cho rằng giáo trình, tài liệu bồi dưỡng đảm bảo bổ sung tốt kĩ năng dạy học tiếng Anh. Tuy nhiên tất cả đều có chung nhận định cần bổ sung thay đổi giáo trình, bởi N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 10 vì câu hỏi: Không cần thiết phải bổ sung/thay thế giáo trình, tài liệu đang sử dụng có điểm số đánh giá tuy trên ngưỡng chấp nhận song là điểm thấp nhất so với các câu hỏi khác. ● Phần đánh giá về thu hoạch của giáo viên sau khi tham gia bồi dưỡng: đa số giáo viên, cán bộ quản lí các sở GD&ĐT và giảng viên thừa nhận phương pháp tự bồi dưỡng năng lực giảng dạy của giáo viên được nâng cao sau khi bồi dưỡng. Tuy nhiên điểm số thấp nhất (dù trên ngưỡng chấp nhận) trong đánh giá của giáo viên và giảng viên là phản hồi từ các học viên khác thu hoạch của giáo viên sau khi tham gia chương trình là tích cực. Điều này chứng tỏ giáo viên còn có những nhu cầu cụ thể khác cần đáp ứng mà giảng viên chưa tìm ra, và trong CTBD chưa có. Hơi khác một chút, cán bộ quản lí sở GD&ĐT lại cho rằng cần bổ sung cho giáo viên kĩ năng quản lí lớp học đông người. Sự khác nhau trong đánh giá về nội dung chương trình bồi dưỡng NLTA&PM giữa các nhóm đối tượng điều tra: ● Giáo viên tham gia bồi dưỡng của các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có sự hài lòng nhiều nhất đối với CTBD, giáo viên từ miền Nam có tỉ lệ không hài lòng về CTBD cao hơn các vùng khác. ● Giáo viên có thâm niên cao trên 20 năm công tác có mức độ hài lòng với CTBD cao hơn hai nhóm thâm niên còn lại. ● Giáo viên sinh sống tại khu vực 2 nông thôn có mức độ hài lòng về CTBD cao hơn giáo viên công tác tại khu vực miền núi xa xôi và giáo viên công tác tại vùng thành thị. ● Các trường trong top được giáo viên bồi dưỡng đánh giá cao nhất lần lượt là Trường ĐH Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên, Trường Trường ĐH Vinh, ĐH Huế, Trường ĐH Hà Nội, Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐHQGHN. Đây cũng là các trường có số lượng học viên tham gia đánh giá đông hơn các trường khác. ● Các trường trong top được giáo viên bồi dưỡng đánh giá thấp lần lượt là lần lượt thuộc về Trung tâm AMA, Trường CĐ Hải Dương, Trung tâm EMCO, ĐH Đà Nẵng, Trung tâm VUS, Trường ĐH Đồng Nai, Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh. ● Hầu hết giảng viên và cán bộ quản lí các sở GD&ĐT đều cảm thấy hài lòng với CTBD, không có sự khác nhau có ý nghĩa giữa các nhóm. Nguyên nhân gây tác động tới việc đánh giá chương trình bồi dưỡng NLTA&PM: Qua các phép phân tích hồi quy tuyến tính đơn biến và tuyến tính đa biến, giáo viên thụ hưởng CTBD đánh giá cao nhất nội dung chương trình khung của CTBD NLTA&PM, và coi đây là khía cạnh cần cải tiến, đổi mới nhiều nhất để nâng cao chất lượng CTBD. Với giảng viên tham gia giảng dạy các CTBD lại đánh giá cao nhất khía cạnh giáo trình tài liệu bồi dưỡng của CTBD, và coi việc cải tiến tài liệu bồi dưỡng là cơ sở để nâng cao chất lượng CTBD. 4.2. Khuyến nghị Đối với Đề án NNQG 2020: Có điều chỉnh lại chương trình khung theo đề xuất của học viên và người học. Có thể điều chỉnh về thời gian theo đề xuất cho hợp lí hơn. Yêu cầu các trường có điểm số đánh giá thấp có những khảo sát riêng để tìm hiểu nhu cầu của giáo viên bồi dưỡng tại trường, giải trình toàn bộ về chương trình khung, giáo trình, và quy trình tổ chức thực hiện bồi dưỡng: Trung tâm AMA, Trung tâm EMCO, Trung tâm VUS, Trung tâm SEMEO, Trường ĐH Đồng Nai, Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh. Đối với các trường ĐH/CĐ tham gia bồi dưỡng: Các trường ĐH, CĐ tham gia bồi dưỡng thường xuyên làm những khảo sát nhỏ để tìm hiểu nhu cầu của giáo viên bồi dưỡng tại N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 11 trường. Các trường tham gia bồi dưỡng khu vực phía nam tiến hành khảo sát ý kiến học viên để tìm hiểu nguyện vọng của họ về CTBD. Khu vực phía nam, các trường và trung tâm bồi dưỡng cụ thể như Trung tâm AMA, Trung tâm EMCO, Trung tâm VUS, Trung tâm SEMEO xem lại giáo trình, phương pháp dạy trên lớp và hiệu quả bồi dưỡng. Đối với học viên (GV TH & THCS): Cần chủ động trong việc cung cấp ý kiến phản hồi về CTBD để trường tham gia bồi dưỡng có đủ thông tin nhằm điều chỉnh cho phù hợp với nguyện vọng của người học. Cần tích cực hơn nữa trong việc gắn kiến thức lí thuyết với thực hành để có lại chất lượng, hiệu quả dạy học cao hơn, phù hợp với nguyện vọng của học sinh và của lãnh đạo các sở chủ quản. Tài liệu tham khảo [1] Bachman, L. F., Statistical Analyses for Language Assessment. Cambridge, UK: CUP, 2004. [2] Byrd, P., Textbooks: Evaluation for Seclection and Analysis for Implementation. In M. C. Murcia (Ed), Teaching English as a Second and Foreign Language (pp.415 - 427), New York: Heinle & Heinle, 2001. [3] Creswell, J. W. (2005). Educational Research: Planning, Conducting, and Evaluating Quantitative and Qualitative Research (2nd Ed.). Upper Saddle River, NJ: Pearson Education. [4] Coffey, A. & Atkinson, P., Making Sense of Quantitative Data. London: Sage Publication, 1996. [5] Cohen, L., Manion, L. & Morrison, K., Research Methods in Education (6th Ed.). London, New York: Routledge. 2007. [6] Frazer, L. & Lawley, M., Questionnaire Design and Administration. Australia: John Wiley & Sons Australia Ltd, 2000. [7] Fulcher, G. & Davidson, F., Language Testing and Assessment (an Advanced Resource Book). London and New York: Routledge, 2007. [8] Kiely, R. & Rea-Dickins, P., Program Evaluation in Language Education. New York, USA: PALGRAVE MACMILLAN, 2005. [9] Maslow, A. H., Motivation and Personality (2nd Ed.), New York, USA: Harper and Row, 1970. [10] Salant, P. & Dillman, D. A., How to conduct your own survey. New York: John Wiley & Sons, 1994. [11] Trochim, W. M. K., Research Methods (The Concise Knowledge Base). Ohio, USA: Atomic Dog Publishing, 2005. [12] Tucker, P. D. & Stronge, J. H., Linking Teacher Evaluation and Students’ Learning. Association for Supervision and Curriculum Development, 2006. An Evaluation of the Training Program of English Proficiency and Training-supporting Softwares of National Foreign Language Project 2020 for Teachers of Primary Schools and Junior High School Nguyễn Việt Hùng VNU University of Languages and International Studies, Phạm Văn Đồng Road, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract: This research project aims to evaluate the satisfaction of stakeholders about the Training Program of English Competence and Supportig Softwares for Primary and Junior High School Teacher to see whether or not the participants (teacher trainers), the beneficiary (teacher N.V. Hùng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Giáo dục, Tập 31, Số 1 (2015) 1-12 12 trainees, and administrative officers of provincial departments of Education and Training) have been satisfied, and to see if there should be additional changes to improve quality of Training Program in the future. The social survey research method that used 3 survey questionnaires including close-ended 5 point Likert scale questions and open-ended questions in each were made on 5037 teachers of English (teacher trainees), 180 university teachers (teacher trainers), and 115 administrative officers of provincial departments of Education and Training in the country. The raw data collected were processed and coded in accordance with the scientific research methodology. The descriptive result shows that the item mean scores of all the questionnaires and their categories/domains are above 3.0, some items are above 4.0. This confirms the efficiency of the Training Program, which devotes to improve the quality of English teaching in primary and junior high schools as well as contributes to confirm the policy correctness of the Government in implementation of National Foreign Language Project 2020. However, by T-Test and ANOVA analyses, the scores between groups of different objects are not completely identical; there is still a small amount of participants showing their dissatisfaction with the Training Program, and some others who want to make changes to the Training Program. Keywords: Training program, teacher trainees, survey, evaluation, sastisfaction, improvement.
File đính kèm:
- danh_gia_chuong_trinh_boi_duong_nang_luc_tieng_anh_va_phan_m.pdf