Đánh giá khả năng chuyển đổi huyết thanh HbeAg của chế phẩm Diệp hạ châu (Diệp hạ châu‐ Xuyên tâm liên‐ Cỏ mực‐ Bồ công anh) kết hợp tenofovir trên bệnh nhân viêm gan B mạn đã điều trị có HBV‐DNA âm tính, HbeAg còn dương tính

Tóm tắt Đánh giá khả năng chuyển đổi huyết thanh HbeAg của chế phẩm Diệp hạ châu (Diệp hạ châu‐ Xuyên tâm liên‐ Cỏ mực‐ Bồ công anh) kết hợp tenofovir trên bệnh nhân viêm gan B mạn đã điều trị có HBV‐DNA âm tính, HbeAg còn dương tính: ...với  Tenofovir  trong  khả  năng  chuyển  đổi  huyết  thanh HBeAg như thế nào đối với những bệnh  nhân viêm gan B mạn đã điều  trị Tenofovir có  HBV DNA đã âm  tính, nhưng HBeAg vẫn còn  dương tính.  Mục tiêu nghiên cứu  Mục tiêu tổng quát  Xác  định  tỷ  lệ  chuyển  đổi  huyết  thanh  HBeA...bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Nhiễm 369 63 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, trong đó  có 32 bệnh nhân thuộc nhóm TDF + DHC và 31  bệnh  nhân  thuộc  nhóm  TDF.  Trong  quá  trình  thực hiện, không có bệnh nhân nào bỏ dở điều  trị hay không  tuân  thủ điều  trị. Trong  đó, giới  nam  chi...iệp  hạ  châu  có  tác  dụng  chuyển  đổi  huyết  thanh  thì Huỳnh  Kỳ  cũng  có  tác  dụng  chuyển  đổi  huyết  thanh(4)  và  nghiên  cứu  tiến  hành đánh giá trong thời gian dài hơn từ 4 tháng  đến 24  tháng,  tuy nhiên khi so với nhóm dùng  Diệp hạ châu của Ngô Anh Dũng  ‐ Phan Quan  Chí Hi...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đánh giá khả năng chuyển đổi huyết thanh HbeAg của chế phẩm Diệp hạ châu (Diệp hạ châu‐ Xuyên tâm liên‐ Cỏ mực‐ Bồ công anh) kết hợp tenofovir trên bệnh nhân viêm gan B mạn đã điều trị có HBV‐DNA âm tính, HbeAg còn dương tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 366
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CHUYỂN ĐỔI HUYẾT THANH HbeAg  
CỦA CHẾ PHẨM DIỆP HẠ CHÂU (DIỆP HẠ CHÂU‐ XUYÊN TÂM LIÊN‐ 
CỎ MỰC‐ BỒ CÔNG ANH) KẾT HỢP TENOFOVIR TRÊN BỆNH NHÂN 
VIÊM GAN B MẠN ĐàĐIỀU TRỊ CÓ HBV‐DNA ÂM TÍNH,  
HBeAg CÒN DƯƠNG TÍNH 
Lý Chung Huy*, Lê Trung Nam*, Cao Ngọc Nga**, Cao Thị Phi Oanh*** 
TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Diệp hạ châu được nghiên cứu cho thấy có hiệu quả trong điều trị viêm gan siêu vi B mạn. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi muốn thấy hiệu quả của chế phẩm Diệp hạ châu (Diệp hạ châu‐ Xuyên tâm 
liên‐ Cỏ mực‐ Bồ công anh) kết hợp với Tenofovir trên bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn đã điều trị Tenofovir 
12 tháng có HBV DND âm tính, HBeAg còn dương tính. 
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu chuyển đổi huyết thanh HBeAg của chế phẩm Diệp hạ châu kết 
hợp với Tenofovir. 
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1, ngẫu nhiên, có đối chứng, 63 bệnh nhân viêm gan siêu vi 
B mạn  được  chia  thành  2  nhóm: Nhóm  1  dùng  chế  phẩm Diệp  hạ  châu  kết  hợp Tenofovir,  nhóm  2  dùng 
Tenofovir đơn thuần, dùng trong 6 tháng, đánh giá sự chuyển đổi huyết thanh HBeAg sau 3 tháng, sau 6 tháng 
nghiên. 
Kết quả: Nhóm dùng chế phẩm Diệp hạ châu kết hợp Tenofovir có tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBeAg sau 
6 tháng cao hơn so với dùng Tenofovir đơn thuần. 
Kết luận: Việc kết hợp chế phẩm Diệp hạ châu và Tenofovir sau 6 tháng nghiên cứu bước đầu ghi nhận có 
hiệu quả tốt hơn dùng Tenofovir đơn thuần trong điều trị viêm gan siêu vi B mạn. 
Từ khóa: Viêm gan siêu vi B, Diệp hạ châu, Tenofovir, HBeAg. 
ABSTRACT 
ASSESSMENT OF HBEAG SEROCONVERSION EFFECT OF PRODUCT PHYLLANTHUS URINARIA  
(PHYLLANTHUS URINARIA – ANDROGRAPHIS PANICUTATA – ECLIPTAE PROSTRATA – 
LACTUCAE INDICA) AND TENOFOVIR ON THE TREATED CHRONIC HEPATITIS B PATIENTS  
WITH HBV DNA – NEGATIVE, HBEAG – POSITIVE. 
Ly Chung Huy, Le Trung Nam, Cao Ngoc Nga, Cao Thi Phi Oanh  
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 366 ‐ 371 
Background/aim: Phyllanthus urinaria has been reported to effect in therapy the chronic hepatitis B. In this 
study, we want to show the effect of product Phyllanthus urinaria and Tenofovir on the treated chronic hepatitis 
B patients with HBV DNA‐ negative, HBeAg‐ positive. 
Objectives: To evaluate HBeAg seroconversion effect of product Phyllanthus urinaria and Tenofovir. 
Methods: The first period, accidental and controlled clinical trial, 63 chronic hepatitis B patients who were 
treated by Tenofovir in 12 months, HBV DNA – negative, HBeAg – positive. They were assigned into 2 groups: 
* Khoa Y học cổ truyền, Đại học Y Dược TP. HCM  ** Bộ môn Nhiễm, Khoa Y, Đại học Y Dược TP.HCM 
*** Bệnh viện đa khoa Quận 2 
Tác giả liên lạc: ThS. Lý Chung Huy   ĐT: 0989974868  Email: chunghuy83@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 367
Group 1 was used product Phyllanthus urinaria and Tenofovir, group 2 was used pure Tenofovir for 6 months. 
To evaluate HBeAg seroconversion three months later and six months later. 
Result: HBeAg seroconversion patients 6 months later in group 1 were higher than group 2. 
Conclusion:  After  researching  in  6 months, we  find  that  the  combination  of  the  product  Phyllanthus 
urinaria and Tenofovir exerts a better effect in treating chronic hepatitis B patients in comparison to using pure 
Tenofovir regading HBeAg seroconversion effect. 
Keywords: Chronic hepatitis B, Phyllanthus urinaria, Tenofovir, HBeAg 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Từ nhiều năm trước, các nhà khoa học thuộc 
lĩnh vực Y học cổ truyền đã sử dụng nhiều dược 
thảo  trong điều  trị viêm gan siêu vi B và cũng 
nhận xét có kết quả. Diệp hạ châu là một trong 
các dược thảo được sử dụng rộng rãi trong điều 
trị viêm gan siêu vi B mạn trong lĩnh vực Y học 
cổ  truyền  hiện  nay,  với  tác dụng  kháng HBV, 
điều hòa miễn dịch, hạ men gan và bảo vệ tế bào 
gan. Đây là dược phẩm đầu tiên trong hệ thống 
của  Ấn  Độ  đã  được  cấp  bằng  chuẩn  hóa(1). 
Tenoforvir  là  thuốc  được  FDA  cho  phép  sử 
dụng trong điều trị viêm gan siêu vi B từ 8/2008 
và qua nhiều nghiên cứu cho thấy Tenofovir có 
hiệu  qủa  cải  thiện mô  học,  ngay  cả  đột  biến 
kháng Lamivudine và Adeforvir, có thể làm mất 
HBsAg  và  chuyển  đổi  huyết  thanh HBeAg.Và 
trong  điều  trị  viêm  gan  B mạn  thì  việc mong 
muốn  trong  điều  trị  tốt  nhất  là  mất  HBsAg 
nhưng hiếm khi có được. Vì vậy đối với điều trị 
viêm gan siêu vi B mạn  tính có HBeAg dương 
tính thì mong mất HBeAg hoặc có sự chuyển đổi 
huyết  thanh HBeAg,  xuất hiện AntiHBe nhằm 
làm  rút  ngắn  thời  gian  điều  trị  đặc  hiệu  cho 
bệnh nhân. Tuy nhiên trên bệnh nhân Việt Nam 
thì tỷ lệ đáp ứng của Tenofovir theo nghiên cứu 
của Lê Thanh Phuông, sau 12  tháng điều  trị có 
64,4%  bệnh  nhân  đạt  HBV  DNA  dưới  400 
copies/ml, nhưng tỷ lệ mất HBeAg chỉ chiếm có 
4%.  
Đã  có  nhiều  nghiên  cứu  kết  hợp  thuốc 
YHCT và Lamivudine trong điều trị viêm gan B 
mạn và  chứng minh  có hiệu quả hơn  so dùng 
Lamivudine  đơn  thuần.  Nghiên  cứu  của  Lý 
Chung Huy và  cộng  sự khi kết hợp  chế phẩm 
Diệp  hạ  châu  và  Lamivudine  thì  hiệu  quả 
chuyển  đổi  huyết  thanh  HBeAg  sau  6  tháng 
điều  trị  bệnh  nhân  viêm  gan  B  mạn  chiếm 
19%(3).Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào về việc 
kết hợp thuốc YHCT với Tenofovir nên dựa vào 
kết quả nghiên  cứu  trên,  chúng  tôi muốn  thực 
hiện đề  tài kết hợp chế phẩm Diệp hạ châu và 
Tenofovir với mục đích xem xét vai trò của chế 
phẩm Diệp hạ châu (Diệp hạ châu ‐ Xuyên tâm 
liên  ‐  Cỏ  mực  ‐  Bồ  công  anh)  kết  hợp  với 
Tenofovir  trong  khả  năng  chuyển  đổi  huyết 
thanh HBeAg như thế nào đối với những bệnh 
nhân viêm gan B mạn đã điều  trị Tenofovir có 
HBV DNA đã âm  tính, nhưng HBeAg vẫn còn 
dương tính. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu tổng quát 
Xác  định  tỷ  lệ  chuyển  đổi  huyết  thanh 
HBeAg  của  chế  phẩm Diệp  hạ  châu  (Diệp  hạ 
châu ‐ Xuyên tâm liên ‐ Cỏ mực ‐ Bồ công anh) 
kết hợp với Tenofovir trên bệnh nhân viêm gan 
siêu vi B mạn. 
Mục tiêu cụ thể 
Xác  định  tỷ  lệ  chuyển  đổi  huyết  thanh 
HBeAg  sau  3  tháng,  6  tháng  điều  trị bằng  chế 
phẩm Diệp hạ châu kết hợp Tenofovir. 
Khảo  sát  các  tác  dụng  phụ  của  chế  phẩm 
Diệp hạ châu kết hợp với Tenofovir  sau mỗi 3 
tháng điều trị. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 
1, mở có đối chứng sắp xếp ngẫu nhiên. Gồm 2 
nhóm: nhóm 1 dùng chế phẩm Diệp hạ châu kết 
hợp Tenofovir và nhóm 2 dùng Tenofovir  đơn 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 368
thuần. Được thực hiện tại bệnh viện Quận 2 và 
bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới. 
Dân số mẫu 
60 bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn ở cả 2 
phái nam và nữ, đã điều  trị Tenofovir có HBV 
DNA  âm  tính,  HBeAg  còn  dương  tính.  Chia 
thành 2 nhóm, mỗi nhóm 30 bệnh nhân. 
Phương tiện nghiên cứu  
Gồm hai loại thuốc 
Chế  phẩm  Diệp  hạ  châu  (Diệp  hạ  châu 
800mg ‐ Xuyên tâm liên 200mg ‐ Cỏ mực 200mg 
‐ Bồ công anh 200mg) được bào chế dưới dạng 
viên nang và sản xuất bởi công ty Khang Minh ‐ 
Việt Nam, được cấp phép của Bộ y  tế và được 
lưu hành  trên  toàn quốc. Liều dùng: 2 viên x 3 
lần/ngày. 
Tenofovir  của  công  ty  STADA  Việt  Nam, 
viên uống với liều 300mg/ngày (ngày 1 lần)  
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân tỉnh táo, chịu hợp tác, bệnh nhân 
viêm gan siêu vi B mạn đã điều trị Tenofovir 12 
tháng có HBV DNA âm tính nhưng HBeAg còn 
dương  tính.  Tuổi  >15,  không  phân  biệt  giới, 
đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân đồng nhiễm HCV, HIV hay các 
bệnh viêm gan do  các nguyên nhân  khác,  có 
uống  rượu. Các bệnh  lý nội khoa cấp  tính và 
mãn tính khác như suy tim, suy thận, bệnh ác 
tính  hay  bệnh  gan  tiến  triển  nặng  hay  bệnh 
gan mất bù. 
Phụ nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú. 
Biến số 
Biến số kiểm soát  
Là các biến số cần làm trước khi nghiên cứu. 
Tuổi (>15 tuổi), giới tính, mức ALT trước khi 
điều trị, các chỉ số đường huyết lúc đói, số lượng 
bạch  cầu,  hồng  cầu,  tiểu  cầu,  creatinin,  AST, 
GGT trước khi điều trị, các triệu chứng của bệnh 
trước khi điều trị.  
Biến số độc lập  
Gồm  2  nhóm,  nhóm  1:  kết  hợp  chế  phẩm 
Diệp  hạ  châu  với  Tenofovir  (DHC  ‐  TDF)  và 
nhóm  2:  Điều  trị  bằng  Tenofovir  đơn  thuần 
(TDF). 
Biến số phụ thuộc 
Gồm ALT, HBeAg, Anti HBe, mật độ HBV 
DNA, công thức máu: số  lượng bạch cầu, hồng 
cầu,  tiểu  cầu Creatinine máu,  đường huyết  lúc 
đói AST, GGT sau 3 tháng và 6 tháng điều trị, và 
các triệu chứng lâm sàng. 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Đặc điểm dân số trước nghiên cứu. 
Bảng 1: Đặc điểm dân số trước nghiên cứu 
Đặc tính Tổng cộng TDF TDF + DHC P 
Giới 
Nam 37 (58,73%) 18 (58,06%) 19 (59,37%) 
>0,05 
Nữ 26 (41,27%) 13 (41,94%) 13 (40,63%) 
Tuổi 
<20 7 (11,1%) 3 (9,6%) 4 (12,5%) 
>0,05 20 - 40 45 (71,4%) 24(77,4%) 21 (65,6%) 
>40 11 (17,5%) 4 (12,9%) 7 (21,9%) 
ALT ban đầu(U/L) 36,87± 12,07 31,21 ± 13,05 P= 0,07 
Công thức máu 
WBC (K/UL) 6,54 ± 1,40 6,32 ± 1,37 P = 0,53 
RBC (M/UL) 4,36 ± 0,53 4,39 ± 0,54 P = 0,86 
PLT (K/UL) 234,93 ± 67,08 230,53 ± 65,85 P = 0,79 
Creatinin máu (µmol/l) 94,0 ± 10,97 90,31 ± 13,06 P = 0,22 
Đường huyết lúc đói 
(mmol/l) 5,15 ± 0,40 5,26 ± 0,86 P = 0,51 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 369
63 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, trong đó 
có 32 bệnh nhân thuộc nhóm TDF + DHC và 31 
bệnh  nhân  thuộc  nhóm  TDF.  Trong  quá  trình 
thực hiện, không có bệnh nhân nào bỏ dở điều 
trị hay không  tuân  thủ điều  trị. Trong  đó, giới 
nam  chiếm  đa  số  là  58,73%  và nhóm  tuổi  chủ 
yếu từ 20 đến 40 tuổi chiếm 71,4%, nồng độ ALT 
ban đầu, của 2 nhóm cũng khác nhau không có 
ý nghĩa thống kê. Các chỉ số trước nghiên cứu về 
số  lượng bạch cầu, hồng cầu,  tiểu cầu, creatine 
máu, đường huyết lúc đói của cả 2 nhóm đều đa 
số nằm  trong giới hạn bình  thường và sự khác 
biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. 
Đặc điểm men ALT sau điều trị của 2 nhóm  
Nồng độ men gan ALT  trung bình sau mỗi 3 
tháng điều trị của 2 nhóm 
Hình 1: Diễn tiến nồng độ men ALT sau mỗi 3 tháng 
Sau 3  tháng và 6  tháng nghiên cứu kết quả 
men gan ALT trung bình của mỗi nhóm so với 
trước nghiên cứu cũng không thay đổi đáng kể 
và đều nằm trong giới hạn bình thường (p>0,05). 
Khi so sánh giữa 2 nhóm  thì sau 3  tháng nồng 
độ trung bình men ALT của nhóm nghiên cứu là 
30,81 ± 11,43 IU/L và của nhóm chứng là 36,03 ± 
11,83  IU/L  với  sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa 
thống  kê  (p>0,05).  Sau  6  tháng  nồng  độ  trung 
bình men ALT  của  nhóm  nghiên  cứu  29,09  ± 
11,80  IU/L và của nhóm chứng  là 31,06 ± 10,37 
IU/L với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05). Không có trường hợp nào có tình trạng 
tăng men ALT  đột  ngột,  chứng  tỏ  bệnh  nhân 
vẫn đang đáp ứng điều trị. 
Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh của 2 nhóm 
sau 3 tháng, 6 tháng điều trị. 
Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh từ HBeAg (+) 
sang HBeAg (‐) và xuất hiện Anti HBe (+) sau 3 
tháng của nhóm điều trị bằng chế phẩm Diệp hạ 
châu kết hợp Tenofovir là 1/32 bệnh nhân chiếm 
3,13%,  so  với  nhóm  chứng  điều  trị  bằng 
Tenofovir  có  tỷ  lệ  là  1/31  chiếm  3,25%  với  sự 
khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Sau  6 
tháng  điều  trị  tỷ  lệ  chuyển  đổi huyết  thanh  từ 
HBeAg  (+)  sang HBeAg  (‐)  và  xuất  hiện Anti 
HBe  (+)  của nhóm nghiên  cứu  tăng  lên  là 5/32 
bệnh nhân, chiếm 15,63%, so với nhóm chứng có 
tỷ  lệ  là  1/31  chiếm  3,25%  nhưng  sự  khác  biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này có 
thể giải thích là có thể bệnh nhân trước khi tham 
gia nghiên cứu đã điều trị đặc hiệu Tenofovir 12 
tháng nhưng vẫn chưa chuyển đổi huyết thanh 
có  thể những bệnh nhân này khó  đạt  được  sự 
chuyển đổi huyết thanh HBeAg. 
Bảng 2: Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh của 2 nhóm sau 3 tháng, 6 tháng điều trị 
 Chuyển đổi huyết thanh HBeAg Tổng Số n (%) TDF n (%) TDF -DHC n (%) P 
Sau 3 
tháng 
Có 2 (3,5%) 1 (3,2%) 1 (3,1%) 
p >0,05 
Không 61 (96,5%) 30 (96,8%) 31 (96,9%) 
Sau 6 
tháng 
Có 6 (9,5%) 1 (3,2%) 5 (15,6%) 
p >0,05 
Không 57 (90,5%) 30(96,8%) 27 (84,4%) 
Ta  thấy  tỷ  lệ % có chuyển đổi huyết  thanh 
của nhóm nghiên cứu cao hơn của nhóm chứng 
sau 6  tháng điều  trị  là 12,38%,  tuy sự khác biệt 
không có ý nghĩa về mặt  thống kê nhưng có ý 
nghĩa về mặt  sinh học. Điều này  chứng  tỏ khi 
kết hợp chế phẩm Diệp hạ châu và Tenofovir thì 
hiệu quả  chuyển  đổi huyết  thanh  có phần  cao 
hơn khi dùng Tenofovir đơn thuần. Khi so sánh 
với nghiên cứu của Ngô Anh Dũng ‐ Phan Quan 
Chí Hiếu khi dùng thuốc nước Huỳnh kỳ ‐ Diệp 
hạ  châu  so  với Diệp  hạ  châu  trên  bệnh  nhân 
viêm  gan  siêu  vi  B mạn  trong  thời  gian  từ  4 
tháng  đến  24  tháng  có  tỷ  lệ  chuyển  đổi  huyết 
thanh của nhóm dùng Huỳnh kỳ ‐ Diệp hạ châu 
là 27% cao hơn tỷ lệ của chúng tôi(5). Điều này có 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 370
thể  do  trong  nghiên  cứu  của Ngô Anh Dũng 
ngoài  Diệp  hạ  châu  có  tác  dụng  chuyển  đổi 
huyết  thanh  thì Huỳnh  Kỳ  cũng  có  tác  dụng 
chuyển  đổi  huyết  thanh(4)  và  nghiên  cứu  tiến 
hành đánh giá trong thời gian dài hơn từ 4 tháng 
đến 24  tháng,  tuy nhiên khi so với nhóm dùng 
Diệp hạ châu của Ngô Anh Dũng  ‐ Phan Quan 
Chí Hiếu  thì  tỷ  lệ  chuyển  đổi  huyết  thanh  là 
17%(4) có phần tương đương với nghiên cứu của 
chúng tôi.  
Khi  so  sánh với nghiên  cứu  của Lý Chung 
Huy và cộng sự, tuy nghiên cứu là kết hợp giữa 
Lamivudine và chế phẩm Diệp hạ châu. Ở nhóm 
kết hợp có tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBeAg 
là  19%  cao  hơn  nhóm  đơn  thuần  dùng 
Lamivdine(3) và ở nghiên cứu này của chúng tôi 
thì  thấy nhóm phối hợp giữa Tenofovir và chế 
phẩm Diệp  hạ  châu  cũng  có  tỷ  lệ  chuyển  đổi 
huyết  thanh HBeAg  là  tương  đương  (15%). Và 
so  sánh  với  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lê  Thanh 
Phuông thì sau khi dùng Tenofovir 12 tháng tỷ 
lệ  chuyển  đổi  huyết  thanh  HBeAg  thấp  chỉ 
chiếm 4%. Qua  đó  ta  thấy khi kết hợp với  chế 
phẩm  Diệp  hạ  châu  có  khả  năng  giúp  tỷ  lệ 
chuyển đổi huyết thanh HBeAg cao hơn so với 
khi dùng  đơn  thuần dù  tỷ  lệ này  cũng  không 
cao nhưng do chúng tôi nghiên cứu với số lượng 
bệnh nhân còn  ít (32 bệnh nhân) và chỉ trong 6 
tháng. Ta có thể hi vọng nếu ta tiếp tục nghiên 
cứu  trong  thời gian  lâu hơn  thì kết quả  sẽ khả 
quan hơn. 
Đặc điểm về nồng độ HBV DNA 
Bệnh  nhân  trước  nghiên  cứu  đã  điều  trị 
Tenofovir 12 tháng nên tất cả đều có HBV DNA 
dưới  ngưỡng  phát  hiện.  Và  sau  3  tháng  và  6 
tháng nghiên cứu thì tải lượng HBV DNA ở tất 
cả  bệnh nhân  tham  gia nghiên  cứu  của  cả hai 
nhóm cũng đều dưới ngưỡng phát hiện (chiếm 
100%  HBV  DNA  <250  copies/ml).  Như  vậy 
chứng  tỏ  tất  cả  bệnh  nhân  của  cả  hai  nhóm, 
nhóm  dùng  chế  phẩm  Diệp  hạ  châu  kết  hợp 
Tenofovir và nhóm dùng Tenofovir  đơn  thuần 
đều không có sự bùng phát siêu vi, và vẫn đáp 
ứng với điều trị.  
Các kết quả  đánh giá  độ  an  toàn  sau khi 
dùng thuốc 
Triệu chứng lâm sàng 
Chế  phẩm  Diệp  hạ  châu  (Diệp  hạ  châu  ‐ 
Xuyên tâm liên ‐ Cỏ mực ‐ Bồ công anh) khi kết 
hợp với Tenofovir hầu như không gây tác dụng 
phụ đáng kể nào sau 6 tháng điều trị trên bệnh 
nhân  viêm  gan  siêu  vi  B  mạn.  1  bệnh  nhân 
(chiếm  3,13%)  trong nhóm nghiên  cứu  có  cảm 
giác hơi đau thượng vị, buồn nôn sau khi dùng 
thuốc 1 giờ trong tuần đầu. Điều này cũng phù 
hợp vì theo tài liệu nghiên cứu của Liu J, Lin H, 
Mc Intosh H năm 2001 tại Trung Quốc thì Diệp 
hạ châu có tác dụng gây buồn nôn, chán ăn, đau 
dạ  dày  (4%)  trong  thời  gian  điều  trị  20  ‐  40 
ngày(5).Nhưng sau khi hướng dẫn kỹ bệnh nhân 
cách  dùng  và  dùng  thêm  thuốc  điều  trị  triệu 
chứng  thì  các  triệu  chứng  trên  mất.  Còn  lại 
không  có  trường  hợp  nào  có  triệu  chứng  kích 
ứng  da  hoặc  triệu  chứng  lâm  sàng  khác  liên 
quan  đến  tình  trạng  dung  nạp  thuốc.  Nhóm 
dùng Tenofovir hoàn toàn không có triệu chứng 
bất thường nào trước và sau điều trị. 
Cận lâm sàng 
Trong thời gian sau 3 tháng và 6 tháng điều 
trị:  các  chỉ  số về  số  lượng hồng  cầu, bạch  cầu, 
tiểu  cầu,  creatinine máu,  đường  huyết  lúc  đói 
đều không khác biệt so với trước điều trị ở cả 2 
nhóm  (p>0,05). Còn  nồng  độ AST  và GGT  thì 
chế phẩm Diệp hạ  châu kết hợp với Tenofovir 
không làm tăng trị số AST, GGT sau 3 tháng và 
6  tháng  điều  trị và nhóm dùng Tenofovir  đơn 
thuần cũng không  làm  tăng  trên nồng độ AST, 
GGT sau 3 tháng và 6 tháng điều trị. 
KẾT LUẬN 
Sau 6 tháng nghiên cứu bước đầu chúng tôi 
ghi nhận khi dùng chế phẩm Diệp hạ  châu và 
Tenofovir  có  tỷ  lệ  chuyển  đổi  huyết  thanh 
HBeAg không cao ở thời điểm sau 3 tháng điều 
trị chỉ chiếm 3,25%, nhưng tỷ lệ này tăng lên sau 
6  tháng  điều  trị  là  15,63%  và  cao  hơn  so  với 
dùng  Tenofovir  đơn  thuần  tuy  nhiên  sự  khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Nhiễm 371
Sau 6  tháng nghiên cứu, chế phẩm Diệp hạ 
châu  kết  hợp  Tenofovir  trên  bệnh  nhân  viêm 
gan siêu vi B mạn có đặc điểm: Chưa ghi nhận 
tác  dụng  phụ  trên  lâm  sàng,  không  làm  ảnh 
hưởng đến số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu 
cầu,  chức  năng  thận,  đường  huyết.  Không  có 
hiện tượng tăng AST, GGT trong quá trình điều 
trị. 
KIẾN NGHỊ 
Nếu có điều kiện chúng tôi sẽ nghiên cứu đề 
tài trong thời gian dài hơn, có thể tiếp tục nghiên 
cứu  trong 12  tháng, 24  tháng để  thấy hiệu quả 
về sự chuyển đổi huyết thanh hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Huy (2003). Cây thuốc và động vật 
làm thuốc Việt Nam. Nxb khoa học và kỹ thuật, tập II, tr. 462, 
1138. 
2. Liu  J,  Lin H, Mc  Intosh H  (2001).  “Genus  Phyllanthus  for 
chronic Hepatitis B virus infection: a systemic review”. Journal 
of viral Hepatitis, 8(5), pp. 358‐366. 
3. Lý Chung Huy (2012) “Hiệu quả điều trị bệnh nhân viêm gan 
siêu vi B mạn có HbeAg dương tính của chế phẩm Diệp hạ 
châu kết hợp Lamivudine. Tạp chí y học, TPHCM, tr 1‐6. 
4. Mc  Culloch M,  Broffman M, Gao  J,  Colford  JM,  Jr  (2002), 
“Chinese herbal medicine and  interferon  in  the  treatment of 
chronic hepatitis B: a meta‐analysis of randomized, controlled 
trials”. Am J Public Health, 92(10), pp. 1619‐1628. 
5. Ngô  Anh  Dũng,  Phan  Quan  Chí  Hiếu  (2009).  “Hiệu  quả 
chuyển đổi huyết thanh HBeAg và giảm nồng độ HBV‐DNA 
của  cao  nước  “Hoàng  kỳ  ‐ Diệp  hạ  châu”  trên  bệnh  nhân 
viêm gan vi rút B mạn tính”. Tạp chí y học, TPHCM. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_kha_nang_chuyen_doi_huyet_thanh_hbeag_cua_che_pham.pdf