Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc tại Việt Nam

Tóm tắt Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc tại Việt Nam: .... TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 1 (2020) 101 Hình 4. Minh họa mức độ chi tiết của công trình khi áp dụng phương pháp SfM với thiết bị bay không người lái và máy ảnh trong nghiên cứu số hóa dữ liệu cửa Bắc Thành cổ Quảng Trị [7]. 2.2. Phương pháp ... thập dữ liệu này, kết hợp với quá trình xử lý dữ liệu sau đó mang lại 2 cuộc triễn lãm lớn về đền tháp Chămpa tại Huế và Đà Nẵng (Hình 8). Nối tiếp những thành công trước, năm 2013 trong quá trình thực hiện dự án Nghị định thư về Thành cổ Quảng Trị (Di sản cấp Quốc gia), một workshop diễn r...hư: góc chứa điểm không nhọn, sự bào mòn, sự đồng nhất của vật liệu và màu sắc). Đồng thời, phương pháp này khi làm việc với các đối tượng có kích thước quá lớn thì thì khó nhận diện được dữ liệu cấu trúc đỉnh của đối tượng, trong trường hợp này thì quá trình thu thập ảnh hiện trạng cần kết hợ...

pdf13 trang | Chia sẻ: Tài Phú | Ngày: 19/02/2024 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g có thể mang lại tốc độ quét lên đến hàng triệu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 1 (2020) 
99 
điểm mỗi giây và đạt độ chính xác đến đơn vị milimet [1]. Từ định dạng dữ liệu đám 
mây điểm thu được khi khảo sát, các phần mềm chuyên dụng (ví dụ: Cyclone) sẽ tự 
động hỗ trợ tổ hợp bề mặt dạng lưới (Mesh Surfaces), rồi sau đó có thể được xây dựng 
thành bộ dữ liệu mô hình kỹ thuật số 2D và 3D hoàn chỉnh bằng các phần mềm CAD 
(ví dụ: AutoCAD, Sketchup, Revit, 3DS Max) giúp quản lý cơ sở dữ liệu công trình 
một cách tối ưu (Hình 2). 
Hình 1. Máy quét laser Z+F IMAGER 5006h và FARO Laser Scanner Focus3D được sử dụng 
trong các dự án (trái) [nguồn: faro.com & zf-laser.com], ảnh và dữ liệu dạng 3D point clouds 
của các tháp Thủ Thiện và Chiên Đàn thu được trong dự án tháp Chămpa (phải) ) [5]. 
Hình 2. Ảnh hiện trạng của Di tích Nhà tù Thành cổ Quảng Trị (trên) và dữ liệu mô hình số 2D, 
3D hiện trạng (dưới) thu được sau khi khảo sát - xử lý dữ liệu [9]. 
Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc  
100 
Trong quá trình nhóm nghiên cứu thực hiện các dự án, một loại kỹ thuật khác 
cũng được được sử dụng để thu thập dữ liệu các đám mây điểm dựa trên phương 
pháp chụp ảnh kỹ thuật số (digital photogrammetry) và tính toán bằng thuật toán Cấu 
trúc từ chuyển động (Structure from Motion - SfM) [5]. Phương pháp này được hỗ trợ 
bởi các phần mềm tái lập mô hình 3D bằng cách tổ hợp điểm trên bề mặt (ví dụ: 
Agisoft, ArchGis), dựa trên ít nhất 2 hình ảnh của đối tượng được chụp từ các vị trí 
bất kỳ. Các phần mềm này sẽ tự động căn chỉnh hình ảnh và tái lập mô hình 3D đa góc 
nhìn của đối tượng bởi một hệ thống lưới dày đặc với hàng triệu điểm. Mô hình này có 
thể được cung cấp thêm hướng và tỉ lệ đối tượng, các ảnh từ nhiều góc của đối tượng 
cũng có thể chuyển đổi thành bề mặt vật thể (texture) để thể hiện đầy đủ màu sắc vật 
liệu thực tế với các phần mềm này. (Hình 3, Hình 4) 
Hình 3. Áp dụng phương pháp SfM với thiết bị bay không người lái trong nghiên cứu số hóa 
dữ liệu Trường CĐCN Huế [10]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 1 (2020) 
101 
Hình 4. Minh họa mức độ chi tiết của công trình khi áp dụng phương pháp SfM với thiết bị bay 
không người lái và máy ảnh trong nghiên cứu số hóa dữ liệu cửa Bắc Thành cổ Quảng Trị [7]. 
2.2. Phương pháp Quang trắc cầu (Spherical Photogrammetry) 
Các điều kiện để thu thập và xử lý dữ liệu không phải lúc nào cũng hoàn hảo, 
và phương pháp quang trắc cầu được lựa chọn để ứng phó với những trường hợp phải 
tiến hành lấy dữ liệu trong thời gian ngắn, với mức chi phí thấp mà vẫn cho hiệu quả 
tốt. Phương pháp quang trắc cầu là một phương pháp được thiết lập và phát triển bởi 
Giáo sư Gabrielle Fangi từ DICEA, UNIVPM. Thiết bị được sử dụng trong phương 
pháp này trong các dự án của nhóm nghiên cứu tại Việt Nam khá đơn giản, thông 
thường chỉ với máy ảnh, chân máy và một vài phụ kiện. Cuộc khảo sát bằng phương 
pháp quang trắc cầu thường bắt đầu bằng việc chụp ảnh panorama 360° xung quanh 
đối tượng sao cho tất cả điểm của đối tượng đều được nhìn thấy trong ít nhất 3 tấm 
ảnh panorama. Các ảnh panorama của đối tượng sau đó được ghép lại với nhau bằng 
phần mềm PTGui và ánh xạ qua một phép chiếu kinh độ - vĩ độ sử dụng trên một Môi 
trường ảo hình cầu toàn cảnh (Spherical Panorama). Tiếp theo, phần mềm Sphera 
package phát minh bởi GS. G. Fangi được sử dụng để tái tạo và hình thành thông tin 
của mô hình đối tượng nghiên cứu. Từ đường thẳng nối điểm bắt đầu đến điểm của 
vật thể đã xác định, vị trí điểm của đối tượng sau đó thu được bằng sự giao nhau của 
các đường chiếu đến từ ảnh panorama của hai hoặc nhiều hướng (Hình 5). [5] Cuối 
cùng các điểm đã xác định được trích xuất sang phần mềm AutoCad, mô hình 3D của 
công trình có thể được thiết lập hoặc chuyển đổi qua các phần mềm CAD khác (Hình 
6). 
Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc  
102 
Hình 5. Các công đoạn xử lý dữ liệu bằng phương pháp Spherical Photogrammetry với trường 
hợp nhóm tháp Chămpa Dương Long [4]. 
Hình 6. Xác định điểm và kết quả mô hình 3D tháp Chămpa Hòa Lai [5]. 
2.3. Phương pháp tái tạo dữ liệu kiến trúc qua tư liệu lịch sử 
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy rằng ngoài việc hỗ trợ 
chuyển đổi và số hóa dữ liệu hiện trạng của công trình, các phần mềm ứng dụng CAD 
hiện nay có thể hỗ trợ rất tốt cho quá trình nghiên cứu dữ liệu nguyên bản của di sản 
kiến trúc (ngay cả khi công trình đã bị phá hủy hoàn toàn) khi được sử dụng kết hợp 
với các nghiên cứu về lịch sử và ảnh tư liệu cổ của công trình. Ứng dụng công nghệ có 
thể dễ dàng chuyển đổi các tư liệu lịch sử (như các bản đồ, ghi chép lịch sử, quy định 
kích thước và tỷ lệ cấu kiện công trình cùng thời, phương pháp xây dựng, ) thường 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 1 (2020) 
103 
chỉ nằm trên giấy thành các mô hình số hóa 3D giúp minh họa trực quan và sinh động 
cho quá trình nghiên cứu. Đối với các ảnh tư liệu lịch sử của công trình, một số phần 
mềm CAD (ví dụ: AutoCad, Sketchup) có khả năng trợ giúp quá trình tính toán tỷ lệ 
kích thước công trình trở nên dễ dàng hơn dựa vào các thuật toán hình học họa hình 
kết hợp với các tư liệu khảo sát hiện trạng (ví dụ: trường hợp chỉ khảo sát được kích 
thước khảo cổ của một phần nền móng trong trường hợp công trình đã bị phá hủy) và 
kích thước trong mô tả lịch sử (ví dụ: các ghi chép kích thước công trình) [8]. 
Hình 7. Quá trình phân tích ảnh tư liệu kết hợp bổ sung dữ liệu từ các nghiên cứu về thông tin 
lịch sử của một số công trình kiến trúc đã biến mất ở Thành cổ Quảng Trị [8]. 
Khi áp dụng phương pháp này vào thực tế nghiên cứu, nhóm tác giả cũng đã 
đạt được một số thành công nhất định trong việc nghiên cứu phục chế giả định mô 
hình số 3D cho một vài công trình kiến trúc đã bị phá hủy gần như hoàn toàn để bổ trợ 
cho việc số hóa dữ liệu khu vực quần thể di tích trong lịch sử (Hình 7). 
2.4. Hiệu quả đạt được trong các nghiên cứu 
Những cuộc khảo sát được DICEA thực hiện ở Việt Nam đều đối mặt một vấn 
đề quan trọng là sự hạn chế về thời gian. Ngoài vấn đề đó, điều kiện khí hậu khắc 
nhiệt của Việt Nam cũng gây một số khó khăn nhất định cho quá trình thu thập dữ 
liệu. Để ưu tiên giải quyết các vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã lập các kết hoạch khảo 
sát dữ liệu song song bằng cả 2 phương án đám mây điểm và quang trắc cầu. Ưu thế 
Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc  
104 
của cả 2 phương pháp này nhanh chóng được thể hiện qua quá trình làm việc tại Việt 
Nam. Năm 2010, trong chương trình của dự án Nghị định thư, 2 nghiên cứu sinh từ 
DICEA cùng 2 sinh viên Việt Nam đã thực hiện thu thập dữ liệu đám mây điểm của 
toàn cụm di tích Văn Thánh Miếu - Võ Thánh Miếu (di sản UNESCO) chỉ trong hai 
ngày làm việc. Năm 2012, nhóm nghiên cứu thực hiện một chuyến khảo sát thần tốc 
trong vòng 8 ngày để lấy dữ liệu của 19 nhóm tháp Chămpa (di sản UNESCO) nằm rải 
rác khắp từ Thừa Thiên Huế vào đến tận Bình Thuận [5]. Quá trình thu thập dữ liệu 
này, kết hợp với quá trình xử lý dữ liệu sau đó mang lại 2 cuộc triễn lãm lớn về đền 
tháp Chămpa tại Huế và Đà Nẵng (Hình 8). Nối tiếp những thành công trước, năm 
2013 trong quá trình thực hiện dự án Nghị định thư về Thành cổ Quảng Trị (Di sản cấp 
Quốc gia), một workshop diễn ra trong vòng 2 ngày tại Quảng Trị đã dành 1 ngày để 
nhóm thu thập đủ dữ liệu của các cổng thành và nhà tù với hình thái phức tạp tại 
Thành cổ Quảng Trị (Hình 2). Năm 2019, nhóm nghiên cứu Việt Nam đã độc lập làm 
việc để thu thập dữ liệu hiện trạng Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế (tiền thân là 
Trường Ecole Pratique D’Industry de Hué – di sản cấp Quốc gia) bằng kỹ thuật 
photogrammetry sử dụng UAV trong vòng 1 tiếng đồng hồ, sau đó tiến hành xử lý dữ 
liệu 3D đám mây điểm bằng thuật toán SfM (Hình 3). 
Hình 8. Triển lãm kiến trúc Chămpa tại Huế năm 2013 (phải) và tại Đà Nẵng năm 2016 (trái) 
Đi đôi với 2 phương pháp nói trên, phương pháp tái tạo dữ liệu kiến trúc qua 
tư liệu lịch sử cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện các dự án khi nhóm 
nghiên cứu phải đối mặt với trường hợp nhiều công trình đã bị phá hủy hoàn toàn. 
Văn Thánh Miếu – Võ Thánh Miếu là một ví dụ, hai tổ hợp công trình này nằm sát 
nhau và gần như không còn nguyên vẹn, chỉ còn một số nền móng và 2 cổng vào (được 
phục dựng) của khu vực Văn Thánh Miếu. Qua quá trình điều tra và khảo sát tư liệu 
lịch sử, khu vực này được tái hiện qua sản phẩm mô hình 3D bởi nhóm nghiên cứu từ 
phía Việt Nam (Hình 9). Cũng tương tự như trường hợp trên, Thành cổ Quảng Trị với 
sự phá hủy của thời gian, con người và chiến tranh đã khiến toàn bộ công trình kiến 
trúc bên trong bị phá hủy. Phương pháp tái tạo dữ kiến trúc qua tư liệu lịch sử đã phục 
hồi giả định kiến trúc bên trong Thành cổ vào thời nhà Nguyễn thông qua mô hình 3D 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 1 (2020) 
105 
(Hình 9). Ngoài ra phương pháp này khi được áp dụng cũng chỉ ra một số sai sót trong 
quá trình trùng tu công trình Cửa Nam Thành cổ vào năm 1993. 
Hình 9. Sản phẩm 3D phục hồi Võ Thánh Miếu (trái) [nguồn: N. P. Thiện] và sản phẩm 3D phục 
hồi Thành cổ Quảng Trị (phải) [8]. 
3. ĐÁNH GIÁ ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP 
Phương pháp thu thập dữ liệu đám mây điểm, mà đặc biệt là bằng 3D TLS trên 
thực tế cho thấy mang lại nhiều ưu điểm hơn hẳn các phương pháp khảo sát dữ liệu 
hiện trạng truyền thống như: kết quả kích thước đạt độ chính xác cao, chi tiết công 
trình được thể hiện đầy đủ, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí thực địa, độ an toàn 
cao và không tác động trực tiếp lên đối tượng nghiên cứu. Ngoài các lợi ích trong việc 
thu thập dữ liệu hiện trạng công trình, công nghệ này còn cho phép xử lý các dữ liệu 
về kích thước, tọa độ cùng hình ảnh của đối tượng thành các dữ liệu cho phép người 
dùng dễ dàng theo dõi với công nghệ thực tế ảo (Virtual Reality - viết tắt là VR) [2] hay 
cao hơn nữa là thực tế tăng cường (Augmented Reality - viết tắt là AR). Tuy nhiên, khi 
sử dụng công nghệ này, người nghiên cứu cần phải am hiểu chuyên môn để lập kế 
hoạch khảo sát hợp lý và chính xác nhằm đảm bảo kết quả công việc đạt được hiệu quả 
cao [1]. Ngoài ra, phương pháp này đòi hỏi yêu cầu máy tính xử lý hậu kỳ phải có bộ 
xử lý mạnh cộng với chi phí cho máy quét cao (20.000 - 100.000 euros) nên khá tốn 
kém. Đồng thời quy trình xử lý hậu kỳ của dữ liệu quét được tốn thời gian và đòi hỏi 
kinh nghiệm cao vì cần phải loại bỏ các khá nhiều các dữ liệu đám mây điểm bị nhiễu. 
Trong khi đó phương pháp quang trắc cầu lại cho phép khảo sát và tài liệu hóa 
các công trình phức tạp với tốc độ nhanh, chi phí rẻ và độ chính xác cũng khá cao, bộ 
tư liệu ảnh thu được cũng mang lại hiệu quả cho cả lĩnh vực vực truyền thông và có 
thể sử dụng trong phương pháp ứng dụng thuật toán SfM. Phương pháp quang trắc 
cầu nhìn chung có nhiều ưu điểm như: độ phân giải rất lớn (ví dụ: 30.000×15.000 
pixels), giá thành thấp, biến dạng độc lập, góc nhìn lên tới 360°, thời gian chụp nhanh, 
có khả năng tương tác với phim QuickTime, thuận tiện cho người khảo sát, và chỉ cần 
một vài phép đo là đủ để tính kích thước đối tượng khảo sát, độ chính xác đủ cho phần 
Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc  
106 
lớn công tác kỹ thuật của bảo tồn di sản [3]. Bằng các phương pháp định hướng hình 
ảnh thích hợp, phương pháp này đo được kích thước vật thể với độ chính xác khá cao 
qua quá trình đồng nhất và tái cấu trúc các bộ phận cho mô hình số của vật thể. Chỉ với 
máy ảnh kỹ thuật số (đạt được hiệu quả cao hơn khi trang bị thêm chân máy), phương 
pháp này cho phép thực hiện các cuộc khảo sát khẩn cấp mang lại kết quả tốt nhất cho 
việc tài liệu hóa dữ liệu của đối tượng khi các phương tiện tại chỗ bị hạn chế, hay trong 
các điều kiện môi trường xấu. Bất lợi của phương pháp này chính là độ chính xác của 
các chi tiết đối tượng thu được có thể thấp hơn phương pháp đám mây điểm, chỉ các 
điểm có thể nhận dạng tốt mới xác định được (điều này dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố 
như: góc chứa điểm không nhọn, sự bào mòn, sự đồng nhất của vật liệu và màu sắc). 
Đồng thời, phương pháp này khi làm việc với các đối tượng có kích thước quá lớn thì 
thì khó nhận diện được dữ liệu cấu trúc đỉnh của đối tượng, trong trường hợp này thì 
quá trình thu thập ảnh hiện trạng cần kết hợp thêm phương pháp Photogrammetry 
bằng các không ảnh từ thiết bị bay không người lái (Unmanned aerial vehicle – viết tắt 
là UAV) để lấy dữ liệu đối tượng từ trên không, hỗ trợ quá trình khảo sát đạt hiệu quả 
đến mức tối đa. 
Về phương pháp tái tạo dữ liệu kiến trúc qua tư liệu lịch sử bằng ứng dụng 
CAD, phương pháp này hỗ trợ nghiên cứu tỷ lệ kích thước công trình qua ảnh tư liệu 
bằng các thuật toán hình học họa hình kết hợp với dữ liệu mô tả lịch sử. Nó khá hữu 
ích khi đối tượng nghiên cứu đã biến mất một phần hoặc hoàn toàn, có thể hỗ trợ liên 
ngành giúp các chuyên gia ngành khác dễ dàng nắm bắt vấn đề. Tuy nhiên, phương 
pháp này vấp phải vấn đề là cần rất nhiều thời gian để thu thập và xử lý tư liệu lịch sử. 
Các lý do khách quan (ví dụ: ảnh cũ không rõ nét, ảnh bị hư hỏng, biến dạng, không 
xác định được vị trí và tiêu cự camera, hay dữ liệu lịch sử sai lệch) dễ làm kết quả dữ 
liệu sai lệch, gây khó khăn trong quá trình nghiên cứu. Vì vậy phương pháp này chỉ 
thích hợp khi cần lấy mô hình giả định để tham chiếu với các kết quả khác hoặc khi cần 
minh họa trực quan mà không thể thay thế. 
4. KẾT LUẬN 
Bằng sự kết hợp công nghệ của các phương pháp trên, nhóm nghiên cứu và các 
chuyên gia từ DICEA, UNIVPM trong những năm vừa qua đã nhiều lần thực hiện 
thành công quá trình xây dựng bộ dữ liệu mô hình số 3D cho tổ hợp các di sản văn hóa 
tại Việt Nam như: tổ hợp di tích Văn Thánh Miếu - Võ Thánh Miếu tại Huế (2009 - 
2011), các tổ hợp các đền tháp Chăm miền Trung (2011 - 2013), tổ hợp di tích Thành cổ 
Quảng Trị (2014 - 2017) Những kết quả này mang lại nhiều lợi ích cho công tác 
nghiên cứu bảo tồn và trùng tu các di sản đó trong tương lai. Tuy phương pháp nào 
cũng có điểm mạnh và điểm yếu, nhưng mục đích chung của tất cả chúng vẫn là thu 
thập dữ liệu quần thể các di sản kiến trúc để hướng tới mục tiêu quản lý di sản bằng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 1 (2020) 
107 
HBIM. Vì vậy, tùy vào điều kiện của di sản và điều kiện của người nghiên cứu mà lựa 
chọn phương pháp hợp lý. Để các phương pháp đều phát huy được tác dụng, chúng ta 
cần sử dụng chúng hợp lý để bổ trợ lẫn nhau, tạo nên sự kết hợp hiệu quả giữa các 
công nghệ khảo sát, các bản vẽ kỹ thuật và tư liệu lịch sử. Qua các kinh nghiệm đã đạt 
được trong thời gian làm việc với chuyên gia nước ngoài, nhóm nghiên cứu đã tập 
trung tìm hiểu và quyết định áp dụng các phương pháp nói trên vào các dự án và đề 
tài nghiên cứu số hóa dữ liệu di sản kiến trúc tiếp theo tại Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] B. Bayrama et al. (2015). “Comparison Of Laser Scanning And Photogrammetry And Their 
Use For Digital Recording Of Cultural Monument Case Study: Byzantine Land Walls-
Istanbul”, ISPRS Annals of the Photogrammetry, Remote Sensing and Spatial Information 
Sciences, Vol. II-5/W3, pp.17-24.. 
[2] E. d’Annibale, A. N. Tassetti, E. S. Malinverni (2014). “Finalizing a low-cost 
photogrammetric workflow: from panoramic photos to Heritage 3D documentation and 
visualization", International Journal of Heritage in the Digital Era, Vol. 3, No. 1, pp.33-49. 
[3] E. d'Annibale, L. Piermattei, G. Fangi (2011). “Spherical photogrammetry as emergency 
photogrammetry”, XXIIIrd International CIPA Symposium, Vol. 23. 
[4] F. Pugnaloni, C. Carlorosi (2015). “Asian Books series - Champa Architecture: Vietnam 
towers road”, NXB I Lavoro Editoriale, ISBN: 9788876637926. 
[5] G. Fangi, E.S. Malinverni, A.N. Tassetti (2013). “The Metric Documentation of the Champa 
Tower in Vietnam”, ISPRS Annals of the Photogrammetry, Remote Sensing and Spatial 
Information Sciences, No. 5, pp.121-126. 
[6] M. Murphy, E. McGovern, S. Pavia (2013). "Historic Building Information Modelling – 
Adding intelligence to laser and image based surveys of European classical architecture”, 
ISPRS Journal of Photogrammetry and Remote Sensing, No. 76, pp.89-102. 
[7] Nguyễn Quang Huy và Nguyễn Vũ Trọng Thi (2016). “Giải pháp ứng dụng công nghệ 3D 
online của Sketchfab trên nền Google Maps phục vụ nghiên cứu bảo tồn di tích”, Tạp chí 
Tin tức Khoa học và Công nghệ, Số 7/2016, ISSN: 1859-0144, tr.28-30. 
[8] Nguyễn Vũ Trọng Thi và Nguyễn Hữu Long Phụng (2016). “Chuyên đề 26: Mô hình hóa 
tổng thể khu vực nghiên cứu thành cổ Quảng Trị qua từng thời kỳ”, Báo cáo tổng kết đề tài 
Nghị định thư: Khảo sát trên cơ sở ứng dụng công nghệ khảo cổ, địa chất, sinh học và công nghệ 
thông tin để phục vụ việc qui hoạch, phục dựng và phát triển cảnh quan Thành Cổ Quảng Trị, Bộ 
Khoa học và Công nghệ (Việt Nam). 
[9] Nguyễn Vũ Trọng Thi và Nguyễn Quang Huy (2017). “Hiệu quả ứng dụng công nghệ vào 
nghiên cứu bảo tồn di sản văn hóa vật thể tại Việt Nam”, Conference on Education Sciences 
and Technologies - CEST 2017, tr. 371 - 377 
[10] Nguyễn Vũ Trọng Thi và Nguyễn Quang Huy (2019). “Sử dụng công nghệ Virtual Reality 
(VR) trong nghiên cứu lịch sử và kiến trúc Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế”, Báo cáo 
tổng kết Đề tài NCKH cấp cơ sở, Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế. 
Đánh giá tác động của một số công nghệ số hóa 3D đối với nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc  
108 
THE IMPACT EVALUATION OF SEVERAL 3D DIGITIZATION TECHNOLOGIES 
TO THE STUDIES OF ARCHITECTURAL HERITAGE CONSERVATION 
IN VIETNAM 
 Nguyen Vu Trong Thi1*, Nguyen Quang Huy2 
1 Faculty of Thermal Refrigeration & Construction, Hue Industrial College 
2 Faculty of Architecture, University of Sciences, Hue University 
*Email: thi.nguyenvutrong@hueic.edu.vn 
ABSTRACT 
In efforts to cope with the fact that the number of damaged architectural heritages 
without archived information is higher than the archived ones, it has been 
recognized worldwide that the documentation archiving is the initial and 
necessary step in cultural heritage conservation. In response to that demand, 
digital technologies have been developing and releasing many new methods to 
make the documentation archiving process of heritages quicker; easier, as well as 
to replace the disadvantages of outdated traditional methods. This article aims to 
evaluate the effects of several advanced technologies, which the research team has 
found during the cooperation with foreign experts in some projects of architectural 
heritage conservation in Vietnam, where methods of applying modern 
technologies to heritage conservation have not yet widely used. 
Keywords: conservation technology, architectural heritage, Vietnam. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 1 (2020) 
109 
Nguyễn Vũ Trọng Thi sinh ngày 17/10/1987 tại Thừa Thiên Huế. Năm 
2012, ông tốt nghiệp Kiến trúc sư, chuyên ngành Kiến trúc công trình tại 
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Năm 2016, ông tốt nghiệp tiến sĩ 
kiến trúc tại Trường Đại học Bách khoa Marche, Italia và về nước giảng 
dạy tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế. 
Lĩnh vực nghiên cứu: Kiến trúc công trình, Kiến trúc cổ tại Việt Nam 
Nguyễn Quang Huy sinh ngày 16/11/1981 tại Thừa Thiên Huế. Năm 2004, 
ông tốt nghiệp Kiến trúc sư, chuyên ngành Kiến trúc công trình tại 
Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Năm 2008, ông tốt nghiệp thạc sĩ kiến 
trúc tại Đại học Chiang Mai, Thái Lan. Từ năm 2004 cho đến nay, ông 
giảng dạy tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. 
Lĩnh vực nghiên cứu: Kiến trúc, Công nghệ khảo sát 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tac_dong_cua_mot_so_cong_nghe_so_hoa_3d_doi_voi_ngh.pdf