Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học

Tóm tắt Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học: ...ới giá trị của nhóm [6]. Nỗi lo bị cô lập khiến người ta luôn phải gò mình theo số đông, trang phục theo số đông, suy nghĩ theo số đông tạo thành một thứ đồng phục tập thể, tư duy tập thể. Chính vì vậy, điển tín vừa có lợi là giúp cá nhân tự định vị và định vị người khác một cách _______...những hình thức ngôn ngữ như: anh (chị) hãy..., anh N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 21 (hay chị) hãy...Một số giáo viên ý thức được sắc thái phân biệt giới toát lên từ những cách dùng như vậy nên thay bằng: anh/chị hãy...Tất cả ... nhà cửa. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của điển tín giới, các soạn giả SGK đã vô tình hay cố ý gạt bỏ hình ảnh người phụ nữ trong các hoạt động xã hội cũng như người đàn ông trong bối cảnh gia đình và vẫn tiếp tục duy trì luồng tư tưởng thống trị trong xã hội là đề cao nam giới và hạ thấp...

pdf14 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như thế này. Cách trình bày 
của SGK có thể khiến các em mặc định rằng vai 
trò chủ đạo của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ 
và làm hài lòng người khác trong khi đó giá trị 
của người đàn ông được đo bằng sự thành đạt 
trong nghề nghiệp [7]. Vị trí thích hợp nhất của 
người phụ nữ là trong gia đình, mục đích tối 
cao của sự tồn tại của người phụ nữ là gia đình 
còn đối với đàn ông, gia đình chỉ là một phần 
của sự tồn tại, đích đến của người đàn ông là sự 
nghiệp ngoài xã hội. Nói như thế không có 
nghĩa là chỉ có đàn ông mới được đề cao, tôn 
vinh còn phụ nữ bị hạ thấp giá trị. Phụ nữ cũng 
được xã hội đề cao, tôn vinh. Nhưng đề cao, tôn 
vinh cái gì và bằng cách nào? Đó là đề cao 
những giá trị thuộc về thiên tính nữ, tôn vinh 
vai trò không thể thiếu trong lĩnh vực tình cảm 
và môi trường gia đình. Đây chính là một biểu 
hiện tinh vi của tư tưởng phân biệt giới. Núp 
đằng sau sự tôn cao giá trị người phụ nữ là tư 
tưởng của một xã hội nam quyền muốn đóng 
khung người phụ nữ vào trong một môi trường 
duy nhất là gia đình. Về phần mình, người phụ 
nữ được vuốt ve, xưng tụng sẽ tìm cách thỏa 
hiệp và điều chỉnh để đổ cho vừa cái khuôn mà 
xã hội định sẵn cho mình, yên tâm và thỏa mãn 
vì đã đáp ứng được mong đợi của xã hội về sứ 
mệnh cao cả làm vợ, làm mẹ và làm hài lòng 
người khác của mình. 
Để thêm minh chứng cho những kết luận 
của mình, chúng tôi mở rộng việc khảo sát 
những biểu hiện của sự phân biệt giới trong hai 
tập sách TV5 và Lịch sử và Địa lý 5. Kết quả 
cho thấy sách tiếng Việt và lịch sử, địa lý của 
giai đoạn cuối tiểu học cũng chịu ảnh hưởng rất 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 23
mạnh của điển tín giới trong việc trình bày nội 
dung, hình thức và cấu trúc của bài học. 
Trong TV5, tập 1, toàn bộ danh nhân được 
giới thiệu trong sách đều thuộc giới nam (tr.4, 
5, 9, 15, 17, 46, 153). Trong 11 tấm gương 
người tốt trong xã hội có 8 ví dụ thuộc giới nam 
và 3 ví dụ thuộc giới nữ ( tr.38, 45, 49, 119, 
123, 124, 130, 164, 150, 156, 165). Trong số 
những tác giả có tác phẩm được trích trong 
những bài tập đọc và những bài tập khác chỉ có 
3 nhà văn nữ (tr. 110, 137, 150). Trong TV5, 
tập 2, trong số các danh nhân được giới thiệu 
trong sách có 2 người thuộc giới nữ là Triệu Thị 
Trinh (tr.87) và Nguyễn Thị Định (tr.126), còn 
lại toàn bộ thuộc giới nam (tr. 4, 6, 15, 25, 40, 
62, 68, 76, 79, 81, 90, 109). Về tấm gương 
những người lao động bình thường, các đại diện 
nữ vắng bóng một cách tuyệt đối, chỉ có những 
người thuộc giới nam (tr.20, 30, 36, 51, 63, 
136). Tất cả những tác giả có tác phẩm được 
đưa vào chương trình học đều là các tác giả 
nam. 
Trong Lịch sử và Địa lý 5, toàn bộ nhân vật 
lịch sử xuất hiện trong sách là nam giới, chỉ duy 
nhất có một nhân vật lịch sử thuộc nữ giới được 
nhắc đến là bà Nguyễn Thị Bình trong bài về 
“Lễ ký Hiệp định Pa-ri” nhưng cũng chỉ nhắc 
đến đúng trong một dòng giới thiệu hai đại diện 
của Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định. Trong 
những tranh, ảnh minh họa cho những tình 
huống, sự kiện lịch sử cũng chỉ có hầu hết là 
nam giới, nữ giới ít xuất hiện mà nếu xuất hiện 
thì cũng ở vào vị trí ngoài rìa mờ nhạt. Như 
vậy, nữ giới gần như vắng bóng trên vũ đài lịch 
sử, nếu có xuất hiện thì cũng chỉ là chứng nhân 
chứ không phải là chủ thể của lịch sử. Nam giới 
được khắc họa như là chủ thể, là tác giả của lịch 
sử, là người quyết định vận mệnh lịch sử dân 
tộc. 
Sự xuất hiện mờ nhạt, ít ỏi và thậm chí vắng 
mặt hoàn toàn của người phụ nữ trong SGK có 
thể dẫn đến những đánh giá sai lầm của HSTH 
về vai trò của phụ nữ trong lịch sử nước nhà và 
lịch sử nhân loại. Các em có thể cho rằng phụ 
nữ không có vai trò gì hoặc giữ một vai trò 
không đáng kể đối với sự phát triển của xã hội. 
Điều này một mặt củng cố điển tín về sự phân 
biệt giới, mặt khác không phản ánh đúng những 
thay đổi về vai trò và vị trí của người phụ nữ 
trong thực tế. Trong mấy thập kỷ gần đây, phụ 
nữ Việt Nam đã tham gia một cách tích cực vào 
đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị của 
đất nước và đã có nhiều đại diện tiêu biểu. Về 
phần mình, nam giới cũng đã có những thay đổi 
trong nhận thức về vai trò của mình trong gia 
đình và đã tham gia một cách tích cực hơn 
trong các công việc chăm sóc con cái, nhà cửa. 
Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của điển tín giới, 
các soạn giả SGK đã vô tình hay cố ý gạt bỏ 
hình ảnh người phụ nữ trong các hoạt động xã 
hội cũng như người đàn ông trong bối cảnh gia 
đình và vẫn tiếp tục duy trì luồng tư tưởng 
thống trị trong xã hội là đề cao nam giới và hạ 
thấp nữ giới. 
Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi 
quy kết các tác giả SGK đã không tính đến 
những xu thế tiến bộ về bình đẳng giới ở Việt 
Nam và trên thế giới cũng như không biết sử 
dụng SGK như một công cụ giáo dục để làm 
thay đổi những điển tín tiêu cực và phổ biến 
những điển tín tích cực về giới. Ở lớp 5, SGK 
có hẳn một chương trình dạy về bình đẳng giới 
nhưng chính ở đây, quan niệm đơn giản và đôi 
khi không chính xác về vấn đề phân biệt giới 
của các soạn giả lại càng bộc lộ. Trong TV5, tập 
2 có chủ điểm “Nam và nữ”, chủ điểm này 
được củng cố, tăng cường trong sách Đạo đức 5 
với bài học “Tôn trọng phụ nữ” và trong sách 
Khoa học 5 với chủ đề “Con người và sức 
khỏe”. Trong TV5, tập 2, bài tập đọc mở đầu 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 
24 
cho chủ điểm vừa nêu là trích đoạn “Một vụ 
đắm tàu”. Tình huống câu chuyện, tính cách 
nhân vật phù hợp với điển tín về giới. Nam thì 
mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết, dũng cảm, là 
người giải quyết và đưa ra quyết định cuối cùng 
và sẵn sàng nhận mọi hậu quả của quyết định 
của mình. Nữ thì dịu dàng, yếu đuối, thụ động 
trong các tình huống khó khăn, là người thụ 
hưởng từ quyết định của nam giới. Như vậy, có 
thể nói, sự lựa chọn đoạn trích của các soạn giả 
SGK cũng đã chịu ảnh hưởng của điển tín giới. 
Cũng nằm trong chủ điểm này, bài tập đọc 
“Thuần phục sư tử” trích từ “Truyện dân gian 
A-rập” dùng ẩn dụ thuần phục sư tử để chỉ bí 
quyết thuần phục chồng. Theo đánh giá của 
chúng tôi, đoạn trích này là một minh họa phản 
sư phạm cho chủ đề bình đẳng nam nữ. Thứ 
nhất, trích đoạn được lấy từ truyện cổ Ả-rập mà 
các nước Ả-rập là nơi có thể nói mức độ bình 
đẳng nam nữ thấp nhất thế giới. Thứ hai, nội 
dung đoạn trích đề cập đến vấn đề phụ nữ phải 
quyến rũ đàn ông. Câu hỏi đặt ra là tại sao phụ 
nữ phải có nhiệm vụ quyến rũ đàn ông? Tại sao 
lại đẩy trách nhiệm giữ hạnh phúc gia đình cho 
một mình người phụ nữ ? Sự quyến rũ ở đây 
thực chất là một sự cống nạp, cống nạp càng 
nhiều thì khả năng chinh phục người được cống 
nạp càng cao. Sự cống nạp bao giờ cũng sinh ra 
từ một quan hệ bất bình đẳng trong đó có kẻ 
trên, người dưới. Vậy thì tại sao đàn ông lại 
được cho là đứng trên phụ nữ, phụ nữ phải phục 
vụ đàn ông? Chỉ một câu chuyện này có thể 
không gây hại nhiều đến việc xây dựng các biểu 
tượng tinh thần về giới ở HSTH nhưng nằm 
trong hệ thống chung từ lớp 1 đến lớp 5, lại 
được củng cố qua những cảnh sinh hoạt hàng 
ngày, chắc chắn sẽ hình thành và duy trì ở các 
em những điển tín sai lầm về giới và không có 
lợi cho sự phát triển tinh thần của các em. Cũng 
trong bài học này, mục kiểm tra mức độ hiểu 
bài có câu hỏi: “Theo vị giáo sĩ, điều gì làm nên 
sức mạnh của người phụ nữ?”. Đây chính là 
biểu hiện tinh vi của tư tưởng phân biệt giới, ca 
tụng thiên tính nữ để dễ bề thống trị. 
Trong sách Khoa học 5, quan niệm bình 
đẳng giới của SGK tỏ ra có phần đơn giản qua 
việc dùng ảnh minh họa chụp đội tuyển bóng đá 
nữ Việt Nam đang đá bóng. Theo chúng tôi, 
bình đẳng không có nghĩa là anh hút thuốc, tôi 
cũng hút thuốc, anh mặc quần đùi, tôi cũng mặc 
quần đùi. Tóm lại, bình đẳng không có nghĩa là 
cào bằng, không đồng nghĩa với giống nhau. 
Cũng trong sách này, phần “Trò chơi bài tập” 
có bài tập yêu cầu xếp phiếu đúng ô trong thời 
gian nhanh nhất. Các tấm phiếu là các đặc điểm 
về giới tính và giới còn các ô là: nam, nữ, cả 
nam và nữ. Dạng bài tập này là một hình thức 
kích hoạt điển tín giới một cách nhanh và hiệu 
quả nhất. Qua những tấm phiếu có thể thấy 
được ý đồ của các soạn giả SGK trong việc 
phân biệt giới về đặc điểm sinh học, tính cách, 
vai trò trong gia đình, vị trí xã hội của nam và 
nữ. Việc phân định giới tuyến nam nữ một cách 
rõ ràng như vậy càng củng cố thêm điển tín về 
phân biệt giới. 
4. Một số khuyến nghị 
Việc thay đổi một điển tín, nhất là điển tín 
về giới không thể diễn ra một sớm một chiều 
mà đó là cả một hành trình lâu dài và hành trình 
đó có thể phải đối đầu với rất nhiều chướng 
ngại vật. Một trong những chướng ngại vật đầu 
tiên là sự thiếu nhạy cảm nếu không muốn nói 
là sự vô cảm, thờ ơ của giáo viên và phụ huynh 
về vấn đề này. Chúng tôi đã tiến hành một số 
cuộc phỏng vấn giáo viên và phụ huynh học 
sinh về vấn đề phân biệt giới trong SGK tiểu 
học. Kết quả là hơn 75% số người được hỏi 
hoặc không bao giờ đặt vấn đề về sự tồn tại của 
vấn đề bình đẳng giới trong SGK hoặc cho rằng 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 25
những biểu hiện phân biệt giới phản ánh chân 
thực thực tế xã hội nên không thể coi đó là bất 
bình đẳng giới. Chỉ có gần 25% số người được 
hỏi nhận thức được tầm quan trọng của việc xử 
lý vấn đề giới trong SGK đối với việc phát triển 
nhân cách và định hướng nghề nghiệp tương lai 
của học sinh. Chính vì điển tín giới đã thấm sâu 
vào não trạng của chúng ta, trở thành một thứ 
tâm thức tập thể, quy định những hành vi xã hội 
của chúng ta nên sự tồn tại của điển tín giới 
trong SGK là điều dễ hiểu và không tránh khỏi. 
Tâm lý coi nam giới là trung tâm ăn sâu vào trí 
não chúng ta đến nỗi chúng ta thấy điều đó là tự 
nhiên, phải như thế và nếu khác đi chúng ta 
thấy có cái gì không thuận, không phải đạo. Các 
thể chế xã hội như gia đình, nhà trường...đã 
không ngừng vun đắp cho sự phân biệt giới để 
biến một ý đồ mang mục đích xã hội thành một 
điều tự nhiên đến nỗi ai cũng phải hành xử theo 
hướng đấy mà nếu đi chệch khỏi quỹ đạo này 
thì sẽ trở thành kẻ lạc loài [8]. Sự thống trị của 
nam giới trở nên hợp pháp vì có sự đồng tình 
của xã hội và sự đồng lõa của chính bản thân 
người phụ nữ. 
Một trở ngại thứ hai là tính bảo thủ của 
chúng ta trước những thay đổi. Đại đa số chúng 
ta cho rằng mô hình gia đình truyền thống trong 
đó người phụ nữ đảm nhiệm việc chăm sóc con 
cái, nhà cửa còn người đàn ông là trụ cột kinh 
tế khiến trẻ em cảm thấy an toàn hơn, yên tâm 
hơn nên không cần và không nên thay đổi. 
Chướng ngại vật cuối cùng là quan niệm 
cho rằng vấn đề bình đẳng giới chỉ liên quan 
đến người phụ nữ và chỉ riêng phụ nữ được 
hưởng lợi khi các hành động về bình đẳng giới 
được thực hiện. 
Như vậy, điều quan trọng là xác định quan 
niệm về bình đẳng giới. Theo chúng tôi, bình 
đẳng có nghĩa là sự ngang bằng về giá trị, là sự 
ngang bằng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền 
lợi, là sự ngang bằng về cơ hội. Bình đẳng còn 
có nghĩa là tôn trọng, tôn trọng chính mình và 
người khác ở tư cách con người, nói cách khác 
đó là tôn trọng sự khác biệt bởi trên thực tế 
chúng ta không có bề ngoài giống nhau và cũng 
không thể suy nghĩ giống nhau nên không thể 
bắt ép người khác phải giống mình và cũng 
không cố ép mình cho vừa vặn với người khác. 
Điều này dẫn đến một sự thật giản dị là một 
người đàn bà tốt có giá trị như một người đàn 
ông tốt, một người đàn bà thông minh có giá trị 
như một người đàn ông thông minh. Đàn bà và 
đàn ông có cơ hội như nhau trong tất cả các lĩnh 
vực của đời sống gia đình và xã hội, quyền thụ 
hưởng của đàn bà và đàn ông không bị quy định 
bởi họ là đàn ông hay đàn bà mà dựa vào năng 
lực cũng như những gì họ đóng góp cho công 
việc [9]. Do vậy, mục đích của việc thực hiện 
bình đẳng giới không phải là để phụ nữ cũng 
được hành xử giống như đàn ông, cũng được 
giữ những cương vị quan trọng như đàn ông. 
Đấu tranh đòi bình đẳng giới là đấu tranh để 
phụ nữ có thể tham gia một cách tích cực vào 
những việc có ích cho xã hội, tham gia vào sự 
tiến bộ xã hội và áp đặt sự tham gia đó bằng 
khả năng của mình. 
Như vậy, có thể nói, giáo dục bình đẳng 
giới trong nhà trường là cánh cửa đầu tiên của 
việc thực hiện bình đẳng giới mang ý nghĩa xã 
hội. Là công cụ giáo dục quan trọng, SGK cũng 
đồng thời phải là công cụ của sự biến đổi xã 
hội. Để SGK có thể thực hiện tốt chức năng 
này, chúng tôi đề xuất cần phải tiến hành đồng 
bộ các biện pháp sau đây: 
- Vấn đề nội dung chương trình SGK 
Trong chương trình SGK, cần phải dành 
cho người phụ nữ một vị trí xứng đáng trong tất 
cả các lĩnh vực, bối cảnh chứ không chỉ để họ 
xuất hiện một cách tập trung trong một chương 
riêng về nam và nữ như trong chương trình hiện 
hành. Cần phải để cho người phụ nữ xuất hiện 
trong những lĩnh vực, bối cảnh xã hội đa dạng 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 
26 
chứ không chỉ khuôn vào trong môi trường gia 
đình. Ngay cả trong những lĩnh vực nam giới 
chiếm đa số vẫn cần có đại diện của phụ nữ vì 
sự xuất hiện của phụ nữ dù ít ỏi nhưng cũng có 
khả năng định hướng nhận thức và hành động 
cho HS nam và HS nữ ở chỗ HS nam chấp nhận 
vị trí của người phụ nữ trong lĩnh vực này còn 
HS nữ có niềm tin vào khả năng thâm nhập của 
mình vào lĩnh vực được cho là dành riêng cho 
phái nam. Nói như thế không có nghĩa là SGK 
phải soán vị hoàn toàn giới nam và giới nữ: 
nam thì phải ở trong bếp còn nữ thì trên công 
trường mà điều quan trọng là để cho nam và nữ 
xuất hiện một cách không phân biệt trong tất cả 
các tình huống và hoàn cảnh. Điều này có tác 
dụng làm cho vấn đề nhận diện giới về mặt xã 
hội trở nên rõ ràng, hiển lộ, và đó chính là cơ 
hội để trao cho HS cả nam và nữ những khả 
năng giống nhau trong việc nhận diện giới và tự 
nhận diện bản thân. Trước khi thay SGK mới sau 
năm 2015, nên có một dự án nghiên cứu một cách 
đồng bộ vấn đề giới trong SGK của tất cả các môn 
học từ lớp 1 đến lớp 12. 
- Vấn đề đào tạo giáo viên 
Trong các trường đại học, cao đẳng, trung 
cấp sư phạm, nên có một môn học về giới hoặc 
lồng ghép vấn đề giáo dục giới vào những môn 
học liên quan gần. Các Sở Giáo dục nên tổ chức 
những buổi học chuyên đề về vấn đề giới trong 
SGK để giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn 
về vấn đề bình đẳng giới và có ý thức phát hiện 
những biểu hiện phân biệt giới trong SGK. 
- Vấn đề luật hóa sự phân biệt giới trong 
SGK 
Việt Nam đã có một số quy định trong luật 
pháp về chính sách bình đẳng giới (Hiến pháp, 
Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Lao động, Luật Khoa 
học Công nghệ, Luật Giáo dục và Luật Bình 
đẳng giới). Trong các luật này, Nhà nước nhấn 
mạnh nam nữ có quyền bình đẳng trong mọi cơ 
hội phát triển và thụ hưởng. Các luật này nêu 
các nguyên lý chung về vấn đề nam nữ bình 
quyền và các quy định gắn với từng phạm vi cụ 
thể như lao động, khoa học công nghệ. Trong 
Luật giáo dục 2005 [10]), vấn đề bình đẳng giới 
được nêu trong điều 10 chỉ là một yếu tố nằm 
trong một loạt những vấn đề bình đẳng khác 
như: dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng... Do tầm 
quan trọng của giáo dục trong việc hình thành 
nhân cách, rèn luyện đạo đức, xây dựng ý thức 
công dân ở HS [11] và vai trò của việc tăng 
cường bình đẳng giới đối với sự phát triển mọi 
mặt của xã hội, chúng tôi đề xuất trong Luật 
Giáo dục cần thêm một điều khoản hoặc ghép 
vào điều khoản 20 về việc loại trừ mọi điển tín 
tiêu cực về vai trò của nam và nữ ở mọi cấp học 
và mọi hình thức, phương tiện giáo dục. 
5. Kết luận 
Kết quả phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng 
hình ảnh nam giới và nữ giới được thể hiện và 
giới thiệu trong SGK chịu ảnh hưởng rất rõ của 
điển tín về giới tồn tại trong xã hội, theo đó 
nam giới vẫn nắm gần như mọi lợi thế liên quan 
đến cơ hội phát triển và quyền thụ hưởng trong 
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nam 
giới được khắc họa như là động lực của sự phát 
triển xã hội, là chủ thể của lịch sử còn nữ giới 
bị khuôn vào vai trò làm vợ, làm mẹ và làm hài 
lòng người khác bằng sắc đẹp và thiên tính nữ 
của mình. Cách trình bày của SGK có thể gây 
những hậu quả xấu đối với HSTH. Do đặc điểm 
tâm sinh lý lứa tuổi, các em có thể dễ dàng 
đồng hóa những biểu tượng về giới, xem đó 
như những khuôn thước về giới, lâu dần thâm 
nhiễm vào các em và sẽ định hướng cách hành 
xử liên quan đến giới của các em sau này. Vì 
vậy, cần phải có những động thái tích cực để cải 
thiện tình trạng phân biệt giới và ngăn không 
cho nó tồn tại dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ 
khác. Trong bài viết này, chúng tôi mạnh dạn 
nêu ra một số khuyến nghị về nội dung chương 
N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 27
trình sách SGK, về vấn đề đào tạo giáo viên và 
luật hóa vấn đề phân biệt giới trong SGK. 
Chúng tôi hy vọng góp một tiếng nói nhỏ trong 
việc nâng cao chất lượng SGK bởi sau năm 
2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương 
thay mới SGK. Chúng tôi cũng ý thức được 
rằng những phân tích thực trạng và khuyến nghị 
của chúng tôi sẽ đầy đủ và thuyết phục hơn nếu 
bên cạnh việc phân tích cấu trúc, nội dung và 
hình thức SGK, chúng tôi tiến hành thêm các 
cuộc điều tra, phỏng vấn trên các đối tượng 
giáo viên, học sinh và những nhà quản lý giáo 
dục. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết, chúng 
tôi có thể chắc chắn rằng điều đó không ảnh 
hưởng đến kết quả nghiên cứu của chúng tôi. 
Tài liệu tham khảo 
[1] J-B. Legal, Effets non conscients des stéréotypes 
sur les comportements et les performances, 2005, 
www.psychologie-sociale.org. (7/10/2013). 
[2] F. Morchain, Stéréotypes, Stéréotypisation et 
Valeurs, 2005, www.psychologie-sociale.org. 
(7/10/2013). 
[3] A. Chemin, Mauvais genre, Le Mensuel, n° 22, 
pp.82-86, 2011. 
[4] Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội, NXB 
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012. 
[5] C. Brugelles & S. Cromer, Analyser les 
représentations du masculin et du féminin dans les 
manuels scolaires, Les collections du CEPED, 
INED, Paris, 2005. 
[6] G. Le Bon, Tâm lý học đám đông (Nguyễn Xuân 
Khánh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), Nhà 
XB Tri thức, Hà Nội, 2006. 
[7] S. Rignault & P. Richert, La représentation des 
hommes et des femmes dans les livres scolaires, 
Rapport au Premier Ministre, La documentation 
française, Paris, 1997. 
[8] P. Bourdieu, Sự thống trị của nam giới (Lê Hồng 
Sâm dịch), NXB Tri thức, Hà Nội, 2010. 
[9] Báo cáo phát triển thế giới: «Bình đẳng giới và 
phát triển», Ngân hàng thế giới, 2012. 
[10] Luật Giáo dục, 2005. 
[11] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi 
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, 2013.
Gender Stereotypes as Reflected in Vietnamese Language 
Textbooks for Primary School Students 
Nguyễn Thị Hương 
VNU University of Languages and International Studies, 
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Based on the stereotyping theories by Légal and Morchal, the paper deals with the 
findings of gender stereotypes that are reflected in the current in-use Vietnamese language textbooks 
for the primary schools across Vietnam. Through the analysis of the manifestations relating to the 
gender identification and gender differentiation in the verbal and non-verbal form, the paper makes 
clear the governing of gender stereotypes on the part of the textbook compilers and the influence and 
impact of the gender stereotypes on the primary school age and on that basis, it is to propose a number 
of solutions and concepts on gender education, making a contribution to enhancing the awareness and 
actions in terms of gender equality. 
Keywords: Stereotypes, gender stereotypes, gender, gender equality, Vietnamese language 
textbook for primary school students. 

File đính kèm:

  • pdfdien_tin_ve_gioi_trong_sach_giao_khoa_tieng_viet_tieu_hoc.pdf