Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học
Tóm tắt Điển tín về giới trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học: ...ới giá trị của nhóm [6]. Nỗi lo bị cô lập khiến người ta luôn phải gò mình theo số đông, trang phục theo số đông, suy nghĩ theo số đông tạo thành một thứ đồng phục tập thể, tư duy tập thể. Chính vì vậy, điển tín vừa có lợi là giúp cá nhân tự định vị và định vị người khác một cách _______...những hình thức ngôn ngữ như: anh (chị) hãy..., anh N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 21 (hay chị) hãy...Một số giáo viên ý thức được sắc thái phân biệt giới toát lên từ những cách dùng như vậy nên thay bằng: anh/chị hãy...Tất cả ... nhà cửa. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của điển tín giới, các soạn giả SGK đã vô tình hay cố ý gạt bỏ hình ảnh người phụ nữ trong các hoạt động xã hội cũng như người đàn ông trong bối cảnh gia đình và vẫn tiếp tục duy trì luồng tư tưởng thống trị trong xã hội là đề cao nam giới và hạ thấp...
như thế này. Cách trình bày của SGK có thể khiến các em mặc định rằng vai trò chủ đạo của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ và làm hài lòng người khác trong khi đó giá trị của người đàn ông được đo bằng sự thành đạt trong nghề nghiệp [7]. Vị trí thích hợp nhất của người phụ nữ là trong gia đình, mục đích tối cao của sự tồn tại của người phụ nữ là gia đình còn đối với đàn ông, gia đình chỉ là một phần của sự tồn tại, đích đến của người đàn ông là sự nghiệp ngoài xã hội. Nói như thế không có nghĩa là chỉ có đàn ông mới được đề cao, tôn vinh còn phụ nữ bị hạ thấp giá trị. Phụ nữ cũng được xã hội đề cao, tôn vinh. Nhưng đề cao, tôn vinh cái gì và bằng cách nào? Đó là đề cao những giá trị thuộc về thiên tính nữ, tôn vinh vai trò không thể thiếu trong lĩnh vực tình cảm và môi trường gia đình. Đây chính là một biểu hiện tinh vi của tư tưởng phân biệt giới. Núp đằng sau sự tôn cao giá trị người phụ nữ là tư tưởng của một xã hội nam quyền muốn đóng khung người phụ nữ vào trong một môi trường duy nhất là gia đình. Về phần mình, người phụ nữ được vuốt ve, xưng tụng sẽ tìm cách thỏa hiệp và điều chỉnh để đổ cho vừa cái khuôn mà xã hội định sẵn cho mình, yên tâm và thỏa mãn vì đã đáp ứng được mong đợi của xã hội về sứ mệnh cao cả làm vợ, làm mẹ và làm hài lòng người khác của mình. Để thêm minh chứng cho những kết luận của mình, chúng tôi mở rộng việc khảo sát những biểu hiện của sự phân biệt giới trong hai tập sách TV5 và Lịch sử và Địa lý 5. Kết quả cho thấy sách tiếng Việt và lịch sử, địa lý của giai đoạn cuối tiểu học cũng chịu ảnh hưởng rất N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 23 mạnh của điển tín giới trong việc trình bày nội dung, hình thức và cấu trúc của bài học. Trong TV5, tập 1, toàn bộ danh nhân được giới thiệu trong sách đều thuộc giới nam (tr.4, 5, 9, 15, 17, 46, 153). Trong 11 tấm gương người tốt trong xã hội có 8 ví dụ thuộc giới nam và 3 ví dụ thuộc giới nữ ( tr.38, 45, 49, 119, 123, 124, 130, 164, 150, 156, 165). Trong số những tác giả có tác phẩm được trích trong những bài tập đọc và những bài tập khác chỉ có 3 nhà văn nữ (tr. 110, 137, 150). Trong TV5, tập 2, trong số các danh nhân được giới thiệu trong sách có 2 người thuộc giới nữ là Triệu Thị Trinh (tr.87) và Nguyễn Thị Định (tr.126), còn lại toàn bộ thuộc giới nam (tr. 4, 6, 15, 25, 40, 62, 68, 76, 79, 81, 90, 109). Về tấm gương những người lao động bình thường, các đại diện nữ vắng bóng một cách tuyệt đối, chỉ có những người thuộc giới nam (tr.20, 30, 36, 51, 63, 136). Tất cả những tác giả có tác phẩm được đưa vào chương trình học đều là các tác giả nam. Trong Lịch sử và Địa lý 5, toàn bộ nhân vật lịch sử xuất hiện trong sách là nam giới, chỉ duy nhất có một nhân vật lịch sử thuộc nữ giới được nhắc đến là bà Nguyễn Thị Bình trong bài về “Lễ ký Hiệp định Pa-ri” nhưng cũng chỉ nhắc đến đúng trong một dòng giới thiệu hai đại diện của Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định. Trong những tranh, ảnh minh họa cho những tình huống, sự kiện lịch sử cũng chỉ có hầu hết là nam giới, nữ giới ít xuất hiện mà nếu xuất hiện thì cũng ở vào vị trí ngoài rìa mờ nhạt. Như vậy, nữ giới gần như vắng bóng trên vũ đài lịch sử, nếu có xuất hiện thì cũng chỉ là chứng nhân chứ không phải là chủ thể của lịch sử. Nam giới được khắc họa như là chủ thể, là tác giả của lịch sử, là người quyết định vận mệnh lịch sử dân tộc. Sự xuất hiện mờ nhạt, ít ỏi và thậm chí vắng mặt hoàn toàn của người phụ nữ trong SGK có thể dẫn đến những đánh giá sai lầm của HSTH về vai trò của phụ nữ trong lịch sử nước nhà và lịch sử nhân loại. Các em có thể cho rằng phụ nữ không có vai trò gì hoặc giữ một vai trò không đáng kể đối với sự phát triển của xã hội. Điều này một mặt củng cố điển tín về sự phân biệt giới, mặt khác không phản ánh đúng những thay đổi về vai trò và vị trí của người phụ nữ trong thực tế. Trong mấy thập kỷ gần đây, phụ nữ Việt Nam đã tham gia một cách tích cực vào đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị của đất nước và đã có nhiều đại diện tiêu biểu. Về phần mình, nam giới cũng đã có những thay đổi trong nhận thức về vai trò của mình trong gia đình và đã tham gia một cách tích cực hơn trong các công việc chăm sóc con cái, nhà cửa. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của điển tín giới, các soạn giả SGK đã vô tình hay cố ý gạt bỏ hình ảnh người phụ nữ trong các hoạt động xã hội cũng như người đàn ông trong bối cảnh gia đình và vẫn tiếp tục duy trì luồng tư tưởng thống trị trong xã hội là đề cao nam giới và hạ thấp nữ giới. Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi quy kết các tác giả SGK đã không tính đến những xu thế tiến bộ về bình đẳng giới ở Việt Nam và trên thế giới cũng như không biết sử dụng SGK như một công cụ giáo dục để làm thay đổi những điển tín tiêu cực và phổ biến những điển tín tích cực về giới. Ở lớp 5, SGK có hẳn một chương trình dạy về bình đẳng giới nhưng chính ở đây, quan niệm đơn giản và đôi khi không chính xác về vấn đề phân biệt giới của các soạn giả lại càng bộc lộ. Trong TV5, tập 2 có chủ điểm “Nam và nữ”, chủ điểm này được củng cố, tăng cường trong sách Đạo đức 5 với bài học “Tôn trọng phụ nữ” và trong sách Khoa học 5 với chủ đề “Con người và sức khỏe”. Trong TV5, tập 2, bài tập đọc mở đầu N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 24 cho chủ điểm vừa nêu là trích đoạn “Một vụ đắm tàu”. Tình huống câu chuyện, tính cách nhân vật phù hợp với điển tín về giới. Nam thì mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết, dũng cảm, là người giải quyết và đưa ra quyết định cuối cùng và sẵn sàng nhận mọi hậu quả của quyết định của mình. Nữ thì dịu dàng, yếu đuối, thụ động trong các tình huống khó khăn, là người thụ hưởng từ quyết định của nam giới. Như vậy, có thể nói, sự lựa chọn đoạn trích của các soạn giả SGK cũng đã chịu ảnh hưởng của điển tín giới. Cũng nằm trong chủ điểm này, bài tập đọc “Thuần phục sư tử” trích từ “Truyện dân gian A-rập” dùng ẩn dụ thuần phục sư tử để chỉ bí quyết thuần phục chồng. Theo đánh giá của chúng tôi, đoạn trích này là một minh họa phản sư phạm cho chủ đề bình đẳng nam nữ. Thứ nhất, trích đoạn được lấy từ truyện cổ Ả-rập mà các nước Ả-rập là nơi có thể nói mức độ bình đẳng nam nữ thấp nhất thế giới. Thứ hai, nội dung đoạn trích đề cập đến vấn đề phụ nữ phải quyến rũ đàn ông. Câu hỏi đặt ra là tại sao phụ nữ phải có nhiệm vụ quyến rũ đàn ông? Tại sao lại đẩy trách nhiệm giữ hạnh phúc gia đình cho một mình người phụ nữ ? Sự quyến rũ ở đây thực chất là một sự cống nạp, cống nạp càng nhiều thì khả năng chinh phục người được cống nạp càng cao. Sự cống nạp bao giờ cũng sinh ra từ một quan hệ bất bình đẳng trong đó có kẻ trên, người dưới. Vậy thì tại sao đàn ông lại được cho là đứng trên phụ nữ, phụ nữ phải phục vụ đàn ông? Chỉ một câu chuyện này có thể không gây hại nhiều đến việc xây dựng các biểu tượng tinh thần về giới ở HSTH nhưng nằm trong hệ thống chung từ lớp 1 đến lớp 5, lại được củng cố qua những cảnh sinh hoạt hàng ngày, chắc chắn sẽ hình thành và duy trì ở các em những điển tín sai lầm về giới và không có lợi cho sự phát triển tinh thần của các em. Cũng trong bài học này, mục kiểm tra mức độ hiểu bài có câu hỏi: “Theo vị giáo sĩ, điều gì làm nên sức mạnh của người phụ nữ?”. Đây chính là biểu hiện tinh vi của tư tưởng phân biệt giới, ca tụng thiên tính nữ để dễ bề thống trị. Trong sách Khoa học 5, quan niệm bình đẳng giới của SGK tỏ ra có phần đơn giản qua việc dùng ảnh minh họa chụp đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam đang đá bóng. Theo chúng tôi, bình đẳng không có nghĩa là anh hút thuốc, tôi cũng hút thuốc, anh mặc quần đùi, tôi cũng mặc quần đùi. Tóm lại, bình đẳng không có nghĩa là cào bằng, không đồng nghĩa với giống nhau. Cũng trong sách này, phần “Trò chơi bài tập” có bài tập yêu cầu xếp phiếu đúng ô trong thời gian nhanh nhất. Các tấm phiếu là các đặc điểm về giới tính và giới còn các ô là: nam, nữ, cả nam và nữ. Dạng bài tập này là một hình thức kích hoạt điển tín giới một cách nhanh và hiệu quả nhất. Qua những tấm phiếu có thể thấy được ý đồ của các soạn giả SGK trong việc phân biệt giới về đặc điểm sinh học, tính cách, vai trò trong gia đình, vị trí xã hội của nam và nữ. Việc phân định giới tuyến nam nữ một cách rõ ràng như vậy càng củng cố thêm điển tín về phân biệt giới. 4. Một số khuyến nghị Việc thay đổi một điển tín, nhất là điển tín về giới không thể diễn ra một sớm một chiều mà đó là cả một hành trình lâu dài và hành trình đó có thể phải đối đầu với rất nhiều chướng ngại vật. Một trong những chướng ngại vật đầu tiên là sự thiếu nhạy cảm nếu không muốn nói là sự vô cảm, thờ ơ của giáo viên và phụ huynh về vấn đề này. Chúng tôi đã tiến hành một số cuộc phỏng vấn giáo viên và phụ huynh học sinh về vấn đề phân biệt giới trong SGK tiểu học. Kết quả là hơn 75% số người được hỏi hoặc không bao giờ đặt vấn đề về sự tồn tại của vấn đề bình đẳng giới trong SGK hoặc cho rằng N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 25 những biểu hiện phân biệt giới phản ánh chân thực thực tế xã hội nên không thể coi đó là bất bình đẳng giới. Chỉ có gần 25% số người được hỏi nhận thức được tầm quan trọng của việc xử lý vấn đề giới trong SGK đối với việc phát triển nhân cách và định hướng nghề nghiệp tương lai của học sinh. Chính vì điển tín giới đã thấm sâu vào não trạng của chúng ta, trở thành một thứ tâm thức tập thể, quy định những hành vi xã hội của chúng ta nên sự tồn tại của điển tín giới trong SGK là điều dễ hiểu và không tránh khỏi. Tâm lý coi nam giới là trung tâm ăn sâu vào trí não chúng ta đến nỗi chúng ta thấy điều đó là tự nhiên, phải như thế và nếu khác đi chúng ta thấy có cái gì không thuận, không phải đạo. Các thể chế xã hội như gia đình, nhà trường...đã không ngừng vun đắp cho sự phân biệt giới để biến một ý đồ mang mục đích xã hội thành một điều tự nhiên đến nỗi ai cũng phải hành xử theo hướng đấy mà nếu đi chệch khỏi quỹ đạo này thì sẽ trở thành kẻ lạc loài [8]. Sự thống trị của nam giới trở nên hợp pháp vì có sự đồng tình của xã hội và sự đồng lõa của chính bản thân người phụ nữ. Một trở ngại thứ hai là tính bảo thủ của chúng ta trước những thay đổi. Đại đa số chúng ta cho rằng mô hình gia đình truyền thống trong đó người phụ nữ đảm nhiệm việc chăm sóc con cái, nhà cửa còn người đàn ông là trụ cột kinh tế khiến trẻ em cảm thấy an toàn hơn, yên tâm hơn nên không cần và không nên thay đổi. Chướng ngại vật cuối cùng là quan niệm cho rằng vấn đề bình đẳng giới chỉ liên quan đến người phụ nữ và chỉ riêng phụ nữ được hưởng lợi khi các hành động về bình đẳng giới được thực hiện. Như vậy, điều quan trọng là xác định quan niệm về bình đẳng giới. Theo chúng tôi, bình đẳng có nghĩa là sự ngang bằng về giá trị, là sự ngang bằng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, là sự ngang bằng về cơ hội. Bình đẳng còn có nghĩa là tôn trọng, tôn trọng chính mình và người khác ở tư cách con người, nói cách khác đó là tôn trọng sự khác biệt bởi trên thực tế chúng ta không có bề ngoài giống nhau và cũng không thể suy nghĩ giống nhau nên không thể bắt ép người khác phải giống mình và cũng không cố ép mình cho vừa vặn với người khác. Điều này dẫn đến một sự thật giản dị là một người đàn bà tốt có giá trị như một người đàn ông tốt, một người đàn bà thông minh có giá trị như một người đàn ông thông minh. Đàn bà và đàn ông có cơ hội như nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội, quyền thụ hưởng của đàn bà và đàn ông không bị quy định bởi họ là đàn ông hay đàn bà mà dựa vào năng lực cũng như những gì họ đóng góp cho công việc [9]. Do vậy, mục đích của việc thực hiện bình đẳng giới không phải là để phụ nữ cũng được hành xử giống như đàn ông, cũng được giữ những cương vị quan trọng như đàn ông. Đấu tranh đòi bình đẳng giới là đấu tranh để phụ nữ có thể tham gia một cách tích cực vào những việc có ích cho xã hội, tham gia vào sự tiến bộ xã hội và áp đặt sự tham gia đó bằng khả năng của mình. Như vậy, có thể nói, giáo dục bình đẳng giới trong nhà trường là cánh cửa đầu tiên của việc thực hiện bình đẳng giới mang ý nghĩa xã hội. Là công cụ giáo dục quan trọng, SGK cũng đồng thời phải là công cụ của sự biến đổi xã hội. Để SGK có thể thực hiện tốt chức năng này, chúng tôi đề xuất cần phải tiến hành đồng bộ các biện pháp sau đây: - Vấn đề nội dung chương trình SGK Trong chương trình SGK, cần phải dành cho người phụ nữ một vị trí xứng đáng trong tất cả các lĩnh vực, bối cảnh chứ không chỉ để họ xuất hiện một cách tập trung trong một chương riêng về nam và nữ như trong chương trình hiện hành. Cần phải để cho người phụ nữ xuất hiện trong những lĩnh vực, bối cảnh xã hội đa dạng N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 26 chứ không chỉ khuôn vào trong môi trường gia đình. Ngay cả trong những lĩnh vực nam giới chiếm đa số vẫn cần có đại diện của phụ nữ vì sự xuất hiện của phụ nữ dù ít ỏi nhưng cũng có khả năng định hướng nhận thức và hành động cho HS nam và HS nữ ở chỗ HS nam chấp nhận vị trí của người phụ nữ trong lĩnh vực này còn HS nữ có niềm tin vào khả năng thâm nhập của mình vào lĩnh vực được cho là dành riêng cho phái nam. Nói như thế không có nghĩa là SGK phải soán vị hoàn toàn giới nam và giới nữ: nam thì phải ở trong bếp còn nữ thì trên công trường mà điều quan trọng là để cho nam và nữ xuất hiện một cách không phân biệt trong tất cả các tình huống và hoàn cảnh. Điều này có tác dụng làm cho vấn đề nhận diện giới về mặt xã hội trở nên rõ ràng, hiển lộ, và đó chính là cơ hội để trao cho HS cả nam và nữ những khả năng giống nhau trong việc nhận diện giới và tự nhận diện bản thân. Trước khi thay SGK mới sau năm 2015, nên có một dự án nghiên cứu một cách đồng bộ vấn đề giới trong SGK của tất cả các môn học từ lớp 1 đến lớp 12. - Vấn đề đào tạo giáo viên Trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp sư phạm, nên có một môn học về giới hoặc lồng ghép vấn đề giáo dục giới vào những môn học liên quan gần. Các Sở Giáo dục nên tổ chức những buổi học chuyên đề về vấn đề giới trong SGK để giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn về vấn đề bình đẳng giới và có ý thức phát hiện những biểu hiện phân biệt giới trong SGK. - Vấn đề luật hóa sự phân biệt giới trong SGK Việt Nam đã có một số quy định trong luật pháp về chính sách bình đẳng giới (Hiến pháp, Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Lao động, Luật Khoa học Công nghệ, Luật Giáo dục và Luật Bình đẳng giới). Trong các luật này, Nhà nước nhấn mạnh nam nữ có quyền bình đẳng trong mọi cơ hội phát triển và thụ hưởng. Các luật này nêu các nguyên lý chung về vấn đề nam nữ bình quyền và các quy định gắn với từng phạm vi cụ thể như lao động, khoa học công nghệ. Trong Luật giáo dục 2005 [10]), vấn đề bình đẳng giới được nêu trong điều 10 chỉ là một yếu tố nằm trong một loạt những vấn đề bình đẳng khác như: dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng... Do tầm quan trọng của giáo dục trong việc hình thành nhân cách, rèn luyện đạo đức, xây dựng ý thức công dân ở HS [11] và vai trò của việc tăng cường bình đẳng giới đối với sự phát triển mọi mặt của xã hội, chúng tôi đề xuất trong Luật Giáo dục cần thêm một điều khoản hoặc ghép vào điều khoản 20 về việc loại trừ mọi điển tín tiêu cực về vai trò của nam và nữ ở mọi cấp học và mọi hình thức, phương tiện giáo dục. 5. Kết luận Kết quả phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng hình ảnh nam giới và nữ giới được thể hiện và giới thiệu trong SGK chịu ảnh hưởng rất rõ của điển tín về giới tồn tại trong xã hội, theo đó nam giới vẫn nắm gần như mọi lợi thế liên quan đến cơ hội phát triển và quyền thụ hưởng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nam giới được khắc họa như là động lực của sự phát triển xã hội, là chủ thể của lịch sử còn nữ giới bị khuôn vào vai trò làm vợ, làm mẹ và làm hài lòng người khác bằng sắc đẹp và thiên tính nữ của mình. Cách trình bày của SGK có thể gây những hậu quả xấu đối với HSTH. Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em có thể dễ dàng đồng hóa những biểu tượng về giới, xem đó như những khuôn thước về giới, lâu dần thâm nhiễm vào các em và sẽ định hướng cách hành xử liên quan đến giới của các em sau này. Vì vậy, cần phải có những động thái tích cực để cải thiện tình trạng phân biệt giới và ngăn không cho nó tồn tại dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong bài viết này, chúng tôi mạnh dạn nêu ra một số khuyến nghị về nội dung chương N.T. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 14-27 27 trình sách SGK, về vấn đề đào tạo giáo viên và luật hóa vấn đề phân biệt giới trong SGK. Chúng tôi hy vọng góp một tiếng nói nhỏ trong việc nâng cao chất lượng SGK bởi sau năm 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương thay mới SGK. Chúng tôi cũng ý thức được rằng những phân tích thực trạng và khuyến nghị của chúng tôi sẽ đầy đủ và thuyết phục hơn nếu bên cạnh việc phân tích cấu trúc, nội dung và hình thức SGK, chúng tôi tiến hành thêm các cuộc điều tra, phỏng vấn trên các đối tượng giáo viên, học sinh và những nhà quản lý giáo dục. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi có thể chắc chắn rằng điều đó không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Tài liệu tham khảo [1] J-B. Legal, Effets non conscients des stéréotypes sur les comportements et les performances, 2005, www.psychologie-sociale.org. (7/10/2013). [2] F. Morchain, Stéréotypes, Stéréotypisation et Valeurs, 2005, www.psychologie-sociale.org. (7/10/2013). [3] A. Chemin, Mauvais genre, Le Mensuel, n° 22, pp.82-86, 2011. [4] Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012. [5] C. Brugelles & S. Cromer, Analyser les représentations du masculin et du féminin dans les manuels scolaires, Les collections du CEPED, INED, Paris, 2005. [6] G. Le Bon, Tâm lý học đám đông (Nguyễn Xuân Khánh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), Nhà XB Tri thức, Hà Nội, 2006. [7] S. Rignault & P. Richert, La représentation des hommes et des femmes dans les livres scolaires, Rapport au Premier Ministre, La documentation française, Paris, 1997. [8] P. Bourdieu, Sự thống trị của nam giới (Lê Hồng Sâm dịch), NXB Tri thức, Hà Nội, 2010. [9] Báo cáo phát triển thế giới: «Bình đẳng giới và phát triển», Ngân hàng thế giới, 2012. [10] Luật Giáo dục, 2005. [11] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, 2013. Gender Stereotypes as Reflected in Vietnamese Language Textbooks for Primary School Students Nguyễn Thị Hương VNU University of Languages and International Studies, Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam Abstract: Based on the stereotyping theories by Légal and Morchal, the paper deals with the findings of gender stereotypes that are reflected in the current in-use Vietnamese language textbooks for the primary schools across Vietnam. Through the analysis of the manifestations relating to the gender identification and gender differentiation in the verbal and non-verbal form, the paper makes clear the governing of gender stereotypes on the part of the textbook compilers and the influence and impact of the gender stereotypes on the primary school age and on that basis, it is to propose a number of solutions and concepts on gender education, making a contribution to enhancing the awareness and actions in terms of gender equality. Keywords: Stereotypes, gender stereotypes, gender, gender equality, Vietnamese language textbook for primary school students.
File đính kèm:
- dien_tin_ve_gioi_trong_sach_giao_khoa_tieng_viet_tieu_hoc.pdf