Dự báo phát triển giáo dục - Nguyễn Văn Hộ (Phần 2)

Tóm tắt Dự báo phát triển giáo dục - Nguyễn Văn Hộ (Phần 2): ... cứu; Kĩ năng bảo vệ sức khỏe và phát triển thể lực; Kĩ năng các thái độ và giá trị 49 2.7. Những quan niệm mới về dạy học. 1/ Trên cơ sở định hướng XHCN, mọi quá trình dạy học cần thể hiện được 3 nguyên tắc phổ quát là: (1) Dân chủ; (2) Khoa học; (3) Tiến bộ và nhân văn. Nói kh...ủa các chuyên gia, sau khi xa lộ thông tin xây dựng xong, thông qua việc giảng dạy từ xa theo kiểu trao đổi giữa hai phía, thời gian học tập của học sinh có thể giảm 40% so với trước, nhưng kiến thức thu nhận được sẽ tăng 30%, chi phí cũng tiết kiệm được 30%. Có thể dự kiến, theo đà mỗi ng...hiết để dập tắt hiện tượng chủ nghĩa riêng biệt đang lan rộng trong một số cơ sở trường học. • Chương trình quốc gia phải chuẩn bị cho sự chuyên môn hóa, gắn chặt với nghề nghiệp ở giai đoạn cuối. • Chương trình phải mang tới cho học sinh một “nền văn hóa chung”, bao gồm sự hiểu biết về ...

pdf42 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 177 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Dự báo phát triển giáo dục - Nguyễn Văn Hộ (Phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n người; hàng năm trao 
học vị Thạc sĩ và Tiến sĩ cho trên 10 vạn người. 
Giai đoạn hai (2011-2030) 
Giai đoạn này sễ điều chỉnh thêm một bước tỉ lệ của ba cấp giáo dục. Từng 
bước tăng tỉ trọng giáo dục đại học, phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12 
năm; trình độ và chất lượng phổ cập giáo dục phổ thông về cơ bản đạt tới hoặc 
tiếp cận trình độ các nước phát triền trung bình trên thế giới. Giáo dục kĩ thuật 
nghề nghiệp bám sát sự phát triền khoa học kĩ thuật tiến tiến của quốc tế. Giáo 
dục tại chức trở thành một hệ thống đan xen nhiều chiều, đạt tỉ lệ ngày càng lớn. 
Nâng cao chất lượng xóa mù chữ. Tỉ trọng người có trình độ đại học gần bằng 
mức chung của các nước phát triền. Cải thiện cơ bản điều kiện dạy học của các 
loại trường học, nâng chất lượng và hiệu quả giáo dục lên hàng đầu của thế giới. 
Mục tiêu cụ thể là: 
• Đầu tư cho giáo dục chiếm 6% tổng giá trị sản xuất quốc dân, đạt khoảng 
3,84-4,62 nghìn tỉ đồng. 
• Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12 năm. Duy trì số học sinh tiểu học ở 
mức 166 triệu người; học sinh trung học khoảng 146 triệu người; tỉ lệ học sinh 
vào học trung học phổ thông, trung học kĩ thuật, trung học nghề nghiệp đạt 
khoảng 95%; phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 nưm ở các vùng chiếm 95% dân số. 
• Nâng cao chất lượng xóa mù chữ. 90%-95% người lớn có năng lực giao 
tiếp bằng văn tự và năng lực đọc hiểu nói chung theo yêu cầu của xã hội đương 
thời; củng cố thành quả xóa mù chữ bằng các con đường học tập và ứng dụng đa 
dạng. 
• Nhanh chóng phát triền và phát huy vai trò ngày càng quan trọng của giáo 
dục tại chức; khoảng 1/10 số cán bộ tại chức sẽ được tào tạo dài hạn theo 
phương thức thoát li sản xuất hoặc thoát li một nửa thời gian sản xuất; tiến hành 
đổi mới tri thức bằng các hình thức khác nhau. 
 70
• Phát triền nhanh giáo dục đại học và giáo dục trên đại học (như: học viên 
nghiên cứu kết hợp nghiên cứu và dạy học, học viên nghiên cứu lí luận cơ bản, 
v.v) Tăng số lượng sinh viên đại học lên đến 27 triệu người, tỉ lệ nhập học đạt 
khoảng 30%. Số lượng nghiên cứu sinh đạt khoảng 1,5 triệu người; hàng năm 
cấp học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ cho khoảng 50 vạn người. 
Giai đoạn ba (2031-2050). 
Giáo dục của Trung Quốc ở giai đoạn này có sự phát triền, hoàn thiện thêm 
mọt bước. Tỉ lệ giữa giáo dục các cấp hợp lí, hình thành một hệ thống giáo dục 
lớn, trong đó lấy giáo dục nghĩa vụ chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc làm 
cơ sở, lấy giáo dục đại học dồi dào sức sống, phong phú về chủng loại và đa 
dạng về hình tiểu họcức làm chủ tiểu họcể, lấy giáo dục khoa học kĩ thuật mũi 
nhọn, cao, tinh và giáo dục siêu cao cấp mang tính nghiên cứu làm đầu tầu. 
Mục tiêu phát triền cụ thể của giai đoạn này là: 
• Đầu tư giáo dục chiếm 8% tổng giá trị sản xuất quốc dân, đạt khoảng 12,8 
nghìn tỉ đồng. 
• Phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 năm (hoặc giáo dục nghĩa vụ 15 năm, tức là 
bao gồm cả 3 năm giáo dục mẫu giáo) cho khoảng 330 triệu người trong độ tuổi 
từ 3-18 tuổi (nếu là giáo dục nghĩa vụ 15 năm thì là 440 triệu người). 
• Tỉ lệ người vào đại học là 60%, khoảng 17,6 triệu người. 
• Quy mô đào tạo nghiên cứu sinh đạt mức 2,1-2,5 triệu người, hàng năm 
trao học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ cho 70-80 vạn người. 
• Tổng số giáo viên đạt khoảng 32 triệu người. 
Các giải pháp chiến lược phát triền giáo dục Trung Quốc 
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp quy về giáo dục, tạo môi trường 
pháp chế có lợi cho sự phát triền gd 
2. Không ngừng tăng cường ý thức coi trọng giáo dục, toàn dân quan tâm 
đến sự nghiệp giáo dục. 
3. Bảo đảm đầu tư cho giáo dục, mở rộng nguồn vốn cho giáo dục, động 
viên mọi lực lượng xã hội hỗ trợ sự phát triền của giáo dục. 
4. Đẩy mạnh việc đầu tư phần cứng cho giáo dục. 
5. Tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên, nâng cao tố chất và địa vị xã 
hội của giáo viên. 
6. Từng bước mở rộng giáo dục tố chất, nâng cao hiệu quả xã hội của giáo 
dục. 
7. Nỗ lực tìm tòi sự sang tạo mới về chế độ giáo dục 
 71
8. Xử lí vấn đề thị trường hóa trong phát triền giáo dục đại học 
9. Tăng cường công tác nghiên cứu phát triền giáo dục. 
4. DỰ BÁO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘ SỐ NƯỚC THUỘC 
KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG 
4.1. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ở châu Á trong vòng 25 năm tới 
Một số hội nghị quốc tế và khu vực đã được tổ chức, thảo luận các vấn đề 
đào tạo và sử dụng lực lượng các nhà nghiên cứu và các nhà khoa học. Một hội 
nghị tổ chức từ 17-18/1/1999 tại New York và hội nghị tiểu họcứ hai tổ chức 
vào 6/1997 tại Kuala Lumpur đã đề cập tới một số thách thức nổi bật về đào tạo 
nguồn nhân lực đặt ra với các nước châu Á trong vòng 1/4 thế kỉ tới. Dưới đây 
là một số thách thức nổi bật trong một số lĩnh vực. 
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị 
• Sự hội nhập của các quốc gia vào nền kinh tế toàn cầu 
• Hậu quả của việc sử dụng lực lượng lao động trình độ thấp 
• Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự phát triền của các xa lộ thông tin 
không kiểm soát được 
• Sự thúc ép phải chuyển đổi cách thức quản lí từ tập trung sang phi tập trung 
• Nhận thức được tăng cường về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đặt ra 
các trách nhiệm lớn cho các chính phủ phải bảo vệ và duy trì. 
Trong lĩnh vực xã hội 
• Quá trình đô thị hóa mau chóng và các hậu quả của nó trong lĩnh vực xã 
hội và quản lý ở các cấp 
• Sự phát triền loại hình “Gia đình hạt nhân” và sự mất dần các gia đình đa 
thế hệ 
• Tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa việc tiếp tục duy trì các thành phần lao 
động với năng suất thấp (vì số đông vẫn tập trung ở lao động nông nghiệp và các 
nghề không chính thức ở thành thị) trong khi đối mặt với sự thiếu năng lực của 
các thành phần lao động với năng suất cao 
• Lực lượng lao động tiếp tục tăng lên và vẫn không được đào tạo đủ do sự 
bất cập của các hệ thống giáo dục. 
• Sự di chuyển của các lực lượng lao động từ quốc gia này sang quốc gia 
khác 
• Sự thúc ép đối với khu vực châu Á phải chuyển đổi từ một khu vực mang 
tính “thị trường” sang khu vực “tạo ra kiến thức”. 
 72
Trong lĩnh vực môi trường 
• Mâu thuẫn căng tiểu họcẳng giữa nhịp độ phát triền sản xuất và nhu cầu 
làm giảm bớt sự ô nhiễm và phá hủy môi trường. 
• Việc đưa dần phí tổn về môi trường vào hệ tiểu họcống tài chính và luật 
pháp. 
Trong lĩnh vực văn hóa 
Sự gia tăng, nhưng không phải là thống trị, cái gọi là “Văn hóa thế giới” 
trong xu tiểu họcế hội nhập của các nước châu Á. 
Nhu cầu duy trì và bảo tồn văn hóa và bản sắc của dân tộc và của khu vực 
nhằm tránh xu hướng đồng nhất. 
Trong lĩnh vực phương pháp dạy học 
Yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các nước châu Á phải thay đổi cách dạy học 
nhằm nâng cao vai trò tích cực, chủ động của người học, nhằm giúp học sẵn 
sang và tự tin bước vào cuộc sống lao động sang tạo trong thế kỉ tới. 
Các vấn đề về nông thôn 
• Mặc dù có xu hướng đô thị hóa mau chóng, trong vòng 1/4 thế kỉ tới hầu 
hết các nước châu Á vẫn là các nước “quá bán” về nông nghiệp. Chính phủ các 
nước châu Á đều có xu hướng chuẩn hóa chương trình dạy học quốc gia. Tuy 
nhiên học sinh các vùng nông thôn không có điều kiện tiếp thu chương trình 
quốc gia một cách đầy đủ để giúp họ có thể trở thành những người lao động có 
năng suất. Các phương thức dạy học thích hợp cần đặt ra cho học sinh các vùng 
nông thôn. 
• Nhằm mục đích xóa đổi giảm nghèo các nước châu Á phải có kế hoạch đầu 
tư nhiều hơn cho nghiên cứu các vấn đề về nông thôn và năng suất lao động ở 
nông thôn. 
Vấn đề chuyên môn hóa 
Các chương trình dạy học của nhiều nước châu Á thường có xu hướng 
phân hóa sớm và điều này tỏ ra không phù hợp với các thách thức đòi hỏi cách 
giải quyết có tính chất liên môn. 
Vấn đề kết hợp giữa nghiên cứu và dạy học 
Ở nhiều nước châu Á thường có sự thiếu gắn kết giữa các cơ quan thực 
hiện nghiên cứu và các cơ quan thực hiện dạy học. Sự kết hợp chặt chẽ cả hai 
chức năng này theo những phương thức hợp lí là phương cách tăng cường hiệu 
quả của cả việc dạy hoc và nghiên cứu trong thời gian tới. 
Hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu 
 73
Ở nhiều nước châu Á các hoạt động nghiên cứu đã không được tài trợ một 
cách đầy đủ. Các nguồn tài chính cần được huy động để hỗ trợ cho các hoạt 
động nghiên cứu nhiều hơn nhằm giúp các nước châu Á có thể phát triền hơn 
việc chỉ là các nguồn cung cấp nguồn nhân lực rẻ cho các nền công nghiệp đang 
ngày càng thể hiện tính chất đa dân tộc. 
Hỗ trợ cho giáo dục đại học 
Nhiều nước châu Á đã tỏ ra thiếu các nguồn nhân lực có kĩ năng cao ở 
nhiều lĩnh vực, do đó đã không thu hút được các nguồn đầu tư mới. Năng lực 
quản lí đòi hỏi các kĩ năng và tư duy tổng hợp đã tỏ ra thiếu ở nhiều nước châu 
Á. Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các thách thức 
này và đòi hỏi có những đầu tư thích đáng. 
4.2. Tư tưởng chiến lược giáo dục của các nước thuộc khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương 
Điều này rõ rang nhất trong khu vực là thay đổi về môi trường kinh tế. 
Năm 1996, các chiến lược được hình thành trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng 
trưởng, ngày nay, hầu hết các nước trong khu vực đang ở trong thời kỳ suy thoái 
kinh tế. Tuy nhiên không chỉ kinh tế mà tình hình chính trị cũng đã có nhiều 
thay đổi. Gần 1/4 số nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã thay đổi 
Chính phủ hoặc ít nhất là thay đổi Bộ trưởng Giáo dục. Những chính sách và các 
nhà hoạch định chính sách mới mang lại những ưu đãi và kỳ vọng mới đối với 
hệ thống giáo dục trong nước của họ. Ngoài kinh tế và chính trị, công nghệ và 
sự bùng nổ của thông tin đã mở ra những khả năng mà ngành giáo dục mới chỉ 
bắt đầu sử dụng một cách chậm chạp. 
Những khó khăn và thách thức thường gặp đối với ngành giáo dục trong 
khu vực không phải là mới, tuy nhiên chúng lại trở nên cấp bách khi nền kinh tế 
suy thoái và những nhu cầu cấp thiết lại không được quan tâm đầy đủ trong việc 
chuẩn bị giáo dục cho thế hệ kế tiếp. Mặc dù là ngành chăm sóc đến tương lai, 
nhưng ngành giáo dục lại là ngành ít thay đổi nhất do quy mô, sự ổn định và 
thiếu năng động của các hệ thống giáo dục và bệnh quan liêu. Tuy nhiên, cuộc 
khủng hoảng khu vực là một lời kêu gọi thúc giục đối với việc xem xét cơ bản 
về ngành giáo dục. 
Dưới đaya là một số vấn đề chung được đề cập tới trong tư tưởng phát triền 
giáo dục của các nước khu vực trong những thập kỉ đầu của thế kỉ 21. 
4.2.1 GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC SUỐT ĐỜI 
Kể từ khi cộng đồng quốc tế tán thành sự cần thiết phải coi giáo dục là 
quyền cơ bản của mọi người vào tháng 3/1990, khu vực châu Á-Thái Bình 
 74
Dương đã có tiến bộ đáng kể. Một loạt những sáng kiến và kế hoạch hành động 
đã được thiết lập và thực thi. Các nước châu Á-Thái Bình Dương đã thỏa thuận 
đặt giáo dục cơ sở và xóa mù chữ lên những ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, kết 
quả những cố gắng của họ lại rất đáng buồn vì mức độ và nhịp độ phát triền của 
các nước lại khác nhau. Một sự thật đang tồn tại mà chưa có cách nào giải quyết 
là người mù chữ ở châu Á-Thái Bình Dương hiện vẫn chiếm một phần lớn trên 
thế giới. Do vậy thách thức đặt ra là phải đẩy mạnh việc tiếp cận giáo dục cơ bản 
cho mọi người. Mặc dù tỉ lệ học sinh đã tăng tại nhiều nước trong khu vực châu 
Á-Thái Bình Dương nhưng 74 triệu (56%) trong số 132 triệu trẻ em trên thế giới 
đang ở dộ tuổi đi học (6-11) không được đến trường. Ít nhất 1/3 trong số đang đi 
học đã bỏ học trước khi tốt nghiệp tiểu học. Lý do thật dễ hiểu: nghèo đói, 
khoảng cách kinh tế xã hội, khác biệt giữa nông thôn và thành thị, quản lý sai 
lệch và thiếu các chương trình giáo dục đầy đủ. Hơn nữa, sự khác biệt giới tính 
cũng làm cho bức tranh càng u ám: khoảng 46 triệu (62%) trong số 74 triệu trẻ 
em không được đi học là các bé gái, tập trung hầu hết ở Nam Á. Phần lớn số 
người lớn mù chữ, thanh niên không được đi học đang sống trong những khu 
vực tách biệt hoặc trong khu vực nhà ổ chuột, ít được hoặc hầu như không được 
tiếp cận với những dịch vụ xã hội, giáo dục, đào tạo và tái đào tạo. Phần lớn 
trong số họ đều là người dân tộc thiểu số, người tị nạn hoặc thuộc những thành 
phần không được ưu đãi trong xã hội (Ví dụ: phụ nữ, trẻ em nữ). Do vậy, rất 
nhiều việc cần phải làm và con đường đi tới giáo dục cho mọi người vẫn còn 
đầy chông gai. Hội nghị thế giới về giáo dục cho mọi người đã xác định rằng 
vẫn còn nhiều những trở ngại như các nhân tố chính trị, kinh tế và tài chính, sự 
thiếu cung cấp giáo dục đẩy đủ, năng lực quản lý yếu kém trong việc thực hiện 
chiến lược giáo dục cho mọi người và tình trạng thiếu năng động, trì trệ của các 
hệ thống giáo dục. 
Các chiến lược cụ thể có liên quan tới giáo dục cho mọi người và giáo dục 
suốt đời tập trung vào các vấn đề cụ thể sau: 
- Các nguồn giáo dục 
Để trợ giúp sự phát triền về số lượng và chất lượng của giáo dục cho mọi 
người, nhân tố cơ bản là cải tiến việc sử dụng ngân sách và phân bổ nguồn lực. 
- Chiến lược về đội ngũ giáo viên 
Để có thể sử dụng tối đa lực lượng giáo viên, cần phải kiểm tra các điều 
kiện nhân sự về các kỹ năng, cấu trúc tuổi tác, cân bằng giới tính và phân bổ địa 
lý. Cũng cần phải kiểm tra các chính sách tuyển dụng, nhu cầu đào tạo, các hệ 
thống thẩm định và phát triền giáo viên và nhu cầu về phân bổ lại đội ngũ giáo 
viên. Cần phải có các biện pháp sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên và phát triền 
 75
những tố chất của họ. Các chính sách quản lý giáo viên hiện cũng là điều đáng 
quan tâm. 
- Trợ giúp điều hành phi tập trung 
Phi tập trung quản lý giáo dục đã được thảo luận từ nhiều năm nay. Tuy 
nhiên, nhiều nước chưa thực sự tiến hành ý tưởng này vì các cơ quant rung ương 
vẫn muốn duy trì quyền quyết định của mình. Một lý do nữa là các viên chức 
nhà nước không muốn ở dưới quyền của chính quyền địa phương. Tuy nhiên 
nếu các trường học đáp ứng các nhu cầu của địa phương thì cộng đồng địa 
phương cũng cần tham gia vào việc quản lý trường học. Ở địa phương, việc phi 
tập trung có thể dưới hình thức quản lý tại trường hoặc quản lý tại địa phương, 
trong khi đó cơ quant rung ương quản lý các chính sách, giúp đỡ về kĩ thuật, 
giám sát việc tiêu chuẩn hóa và dần dần ủy thác cho các cấp dưới. 
- Quan tâm tới các quyền lợi của phụ nữ và tăng cường ảnh hưởng đa dạng 
và cống hiến của họ đối với các mục tiêu phát triền của quốc gia. Nữ giới cần 
phải được tiếp cận và tham gia bình đẳng vào các hoạt động giáo dục kể cả việc 
quản lý. 
- Giáo dục thường xuyên và giáo dục lâu dài 
Để ủng hộ những cố gắng các nước nhằm giúp đỡ những đối tượng ngoài lễ 
xã hội và những thanh niên không được đi học, người ta đã đề nghị phát triền 
một chương trình hợp tác liên quốc gia dưới khẩu hiệu “Giáo dục phi chính 
quy”. Chương trình này sẽ tạo ra một nền tảng kĩ thuật lý tưởng trong việc trao 
đổi kinh nghiệm, định hướng lại và áp dụng những chương trình giáo dục cơ bản 
nhằm đáp ứng nhu cầu học tập cơ bản cho những đối tượng liên quan cũng như 
việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của các chiến lược và các chương trình của các 
nước thành viên. Giáo dục thường xuyên phải được coi như hình thức đầu tư sản 
xuất mà nó sẽ mang lại kết quả tích cực không chỉ đối với tăng trưởng kinh tế 
mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triền toàn bộ của con người. 
- Giáo dục trẻ em khuyết tật và giáo dục cho trẻ em từ khi còn nhỏ tuổi 
(dưới 5 tuổi) 
Gia đình, nhà trường và cộng đồng phải phối hợp hành động thông qua việc 
thực hiện xem xét các chương trình đào tạo, các hoạt động kế hoạch quy mô 
nhỏ, và nâng cao nhận thức của giáo viên và cha mẹ về những nhu cầu của 
những nhóm tuổi nhất định. 
4.2.2. GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ XÃ 
HỘI 
 76
“Xóa đói giảm nghèo là sự tối cần thiết về đạo đức, xã hội, chính trị và 
kinh tế đối với nhân loại”. Đây là tuyên bố của thập kỉ Liên Hợp Quốc 1997-
2006 về xóa đói giảm nghèo. Ước chừng hơn 1 tỷ người tại các nước đang phát 
triền đang sống cực kỳ nghèo khổ, 3/4 trong số họ là châu Á-Thái Bình Dương 
và một nửa ở Nam Á. 
Xóa đói giảm ngheo thông qua các hành động quốc gia và hợp tác quốc tế 
đã trở thành mục tiêu lớn trong thập kỉ này. Tuy nhiên, giữa các nhân tố chính trị 
và cải cách kinh tế, xóa đói giảm nghèo và việc nâng cao chất lượng cuộc sống 
nói chung cần phải có những hành động thống nhất trên mọi lĩnh vực xã hội, 
kinh tế, chính trị, pháp lý và giáo dục. 
Thực tế cho thấy là đầu tư vào lĩnh vực con người là vấn đề thiết yếu đối 
với xáo đói giảm nghèo. Việc nâng cao các điều kiện giáo dục, vệ sinh, y tế và 
dinh dưỡng sẽ trực tiếp góp phần vào xóa đói giảm nghèo. Hơn nữa, lao động 
đơn giản là tài sản chủ yếu của người nghèo. Biện pháp xóa đói giảm nghèo có 
hiệu quả nhất là thông qua giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao kĩ năng lao động. 
Những người nghèo ở các nước đều có những điểm chung: hầu hết họ đều mù 
chữ hoặc trình độ văn hóa thấp, sức khỏe và dinh dưỡng kém, nghèo đói rất phổ 
biến ở các dân tộc thiểu số, nữ giới là những người phải chịu thiệt thòi nhiều 
nhất do nghèo đói gây ra. 
Giáo dục đóng vai trò đặc biệt trong xóa đói giảm nghèo. Nó có một tầm 
quan trọng đặc biệt trong việc bảo tồn và ổn định văn hóa, trong khi lại là công 
cụ để đạt được thay đổi về kinh tế xã hội. Không có giáo dục thì không có thay 
đổi kinh tế, chính trị nhưng chỉ có giáo dục thì cũng không thể đạt được những 
thay đổi này. Vì vậy, Giáo dục và đào tạo là những nhân tố quyết định để vươn 
tới tiến bộ xã hội tại những nước đang phát triển. Những nhân tố này đang được 
phát triền thông qua các chương trình giáo dục. 
5. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH CHUNG 
Mặc dù giữa các nước có những sự khác biệt nhất định trong việc định rõ 
các chiến lược và các kế hoạch cụ thể về phát triền giáo dục ở thế kỷ 21, nhưng 
có thể thấy rõ những điểm chung nổi bật sau: 
- Các nước đều nhận định rõ xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế và sự thay đổi 
của kinh tế đã và sẽ tác động tới giáo dục và đòi hỏi chiến lược phát triền giáo 
dục phải gắn bó chặt chẽ và đáp ứng các yêu cầu phát triền kinh tế xã hội ở thế 
kỉ 21. Nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao cho thế kỉ 21 là nhu cầu chung 
mang tính toàn cầu, đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản và toàn diện về nội 
dung và phương thức giáo dục, đào tạo, nhằm chuẩn bị cho các công dân của các 
 77
nước sự sẵn sang tham dự vào các hoạt động và lao động ở một thế giới ngày 
càng biến đổi. 
- Các nước nhấn mạnh tới yêu cầu của giáo dục thế kỷ 21 phải là giáo dục 
vì sự phát triền bền vững, sự phát triền bền vững của mỗi cá nhân, mỗi cộng 
đồng, mỗ quốc gia và của cả thế giới. Yêu cầu Giáo dục vì sự phát triền bền 
vững đã quy định các mục tiêu và các nguyên tắc giáo dục chung ở nhiều nước, 
nhấn mạnh tới: 
• Giáo dục cho tất cả mọi người và giáo dục suốt đời 
• Sự tham gia tích cực của cộng đồng vào giáo dục 
• Chất lượng thực sự của quá trình dạy học 
• Sự quan tâm và đầu tư của Chính phủ 
• Sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế 
- Từ những nhận thức chung trên các nước đều đã xây dựng những chiến 
lược và kế hoạch cụ thể cho việc phát triền giáo dục ở thế kỉ 21, trong đó có thể 
thấy rõ các điểm chung sau: 
• Hoàn thành phổ cập giáo dục phổ thông tiến tới phổ cập ở mức cao hơn 
• Cải cách quyết liệt về nội dung và phương pháp giáo dục: Nội dung hiện 
đại, hướng tới tương lai, tăng cường tính thực tiễn, sử dụng các phương pháp 
dạy học tích cực với việc áp dụng đa phương tiện (Multimedia), cùng với việc 
tăng cường cơ hội tiếp cận công nghệ thông tin trong dạy học. 
• Nhấn mạnh vai trò của giáo viên, đặc biệt giáo viên giỏi. Các nước đểu chú 
trọng cải tiến công tác đào tạo huấn luyện giáo viên (trước khi hành nghề và tại 
chức) và cải tiến hệ thống khuyến khích vật chất cho giáo viên. 
• Đa dạng hóa các loại hình trường học. 
• Phát triền giáo dục nghề, giáo dục đại học, cao đẳng. 
• Huy động cao sự hỗ trợ của các thành phần kinh tế quốc dân và quốc tế cho 
giáo dục, tăng cường sự phân bổ ngân sách nhà nước cho giáo dục bằng việc 
sắp xếp lại sự phân bổ ngân sách với ưu tiên hàng đầu cho giáo dục. Tăng cường 
đầu tư cho nghiên cứu và tăng cường sự liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo. 

File đính kèm:

  • pdfdu_bao_phat_trien_giao_duc_nguyen_van_ho_phan_2.pdf