Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn (Phần 1)

Tóm tắt Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn (Phần 1): ...hân công lao động giữa các nước. Nó cho phép sử dụng một cách phù hợp và hiệu quả các nguồn lực vào sản xuất. Nhưng hệ thống thương mại WTO còn đem lại nhiều hơn như thế bởi những nguyên tắc quan trọng được thiết lập trong hệ thống. Không phân biệt đối xử chỉ là một trong những nguyên tắc củ...ng thế giới và luật lệ buôn bán quốc tế. 3.1.7. Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong điều hành kinh doanh. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xây dựng được hệ thống thông tin như: thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về ...h nghiệp chủ yếu dành cho đoàn đi khảo sát thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu này là cần thiết nhưng sẽ phải chi phí đáng kể về thời gian và tiền bạc. Mặt khác, thực hiện chuyến đi khảo sát ở thị trường nước ngoài là rất tốn kém và nếu không được chuẩn bị tốt về nội dung, phương pháp cũng ...

pdf79 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty nước ngoài, xuất khẩu 
theo mạng lưới của công ty nước ngoài (OEM), dần dần tự mình thiết kế sản phẩm 
(ODM), tạo ra những sản phẩm độc đáo để chào hàng với TNCs, sản phẩm càng độc đáo 
càng có ưu thế trong việc thương lượng với họ, và cuối cùng tiến đến giai đoạn xây 
dựng thương hiệu, làm chủ hoàn toàn sản phẩm công nghiệp (OBM), không còn phụ 
thuộc vào TNCs nữa. Quá trình chuyển từ OEM sang ODM rồi đến OBM là quá trình tự 
lập của các công ty trong nước, lúc đầu dựa vào ngoại lực để dần dần củng cố nội lực để 
cuối cùng tự lập hoàn toàn. 
4.6. Tăng cường năng lực thể chế và chuyên môn cho hội nhập kinh tế quốc tế 
của Việt Nam 
Việc tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam trong 
MLSXPPTC về thực chất là việc Việt Nam sẽ phấn đấu để hội nhập thắng lợi trong nền 
kinh tế toàn cầu và khu vực nhằm thực hiện CNH, HĐH đất nước. Điều đó cũng đồng 
nghĩa với việc tăng cường năng lực thể chế và chuyên môn cho hội nhập kinh tế quốc tế 
của Việt Nam. Trên thực tế, các hiệp định mậu dịch tự do nói chung đang đặt ra rất 
nhiều vấn đề về năng lực và kỹ thuật cho các nước đang phát triển. Đối với việc tham 
gia WTO cũng như các FTA/RTAs khác, chúng ta đang phải đối phó với thách thức lớn 
về năng lực hội nhập yếu. Thực sự là chúng ta chưa đủ nhân lực và năng lực để đàm 
phán, ký kết cùng lúc nhiều hiệp định thương mại tự do, và điều hành chế độ thương mại 
73 
Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- 
phân biệt trên cơ sở của các hiệp định thương mại tự do với nhiều đối tác khác nhau. 
Chúng ta cũng thực sự chưa đủ lực để xử lý những vấn đề hết sức phức tạp mà hiệp định 
thương mại tự do luôn đặt ra, đơn cử như vấn đề xuất xứ hay cơ chế giải quyết tranh 
chấp. Với hệ thống đồ sộ các quy định và luật lệ như vậy, đặt ra bài toán vô cùng nan 
giải đối với việc xây dựng nguồn nhân lực nước nhà. Vì vậy, cả Nhà nước, các doanh 
nghiệp và các tổ chức hỗ trợ phi Chính phủ của Việt Nam cần nỗ lực hết mình, tự trau 
dồi kiến thức và kỹ năng chuyên môn, tham gia các Hiệp định khu vực thương mại tự do 
một cách chọn lọc để cọ sát và trải nghiệm thực tế, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của 
các nước đi trước ta, đồng thời tranh thủ khai thác tốt nhất nguồn hỗ trợ tài chính, kỹ 
thuật của các đối tác trong khu vực và các nước ASEAN khác, của cộng đồng quốc tế 
nhằm xây dựng năng lực hội nhập tốt nhất cho phát triển. 
Cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho hội nhập, chú ý đào tạo ứng dụng các 
kỹ năng nghiên cứu thị trường, marketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ 
thuật ngoại thương, nâng cao trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề. 
Việc đào tạo cần theo hai hướng, trước mắt, đối với người lao động cần thuần thục về kỹ 
năng và chuyên môn hoá sâu. Mặt khác phải chú trọng đặc biệt tới đào tạo, bồi dưỡng 
nhân tài, có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của nhân loại cho phát 
triển của Việt Nam về lâu dài 
Cần kết hợp hài hòa giữa hợp tác song phương, khu vực và đa phương, trong đó: 
Tập trung thực hiện các cam kết trong WTO. Việt Nam đã chính thức gia nhập 
WTO vào ngày 11/01/2007, đánh dấu bước quan trọng trong quá trình hội nhập kinh 
tế quốc tế. Gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện các cam kết chung đối với các 
nước thành viên. Việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong WTO có ý nghĩa 
hết sức quan trọng đối với Việt Nam, giúp Việt Nam nâng cao tính hấp dẫn của môi 
trường đầu tư và tăng cường mối quan hệ thương mại với các đối tác khác. Đây 
không chỉ là nhiệm vụ mà còn có vai trò vô cùng quan trọng để Việt Nam có thể cải 
cách kinh tế trong nước, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, tăng cường năng 
lực cạnh tranh, tăng năng suất lao động và lợi ích của người tiêu dùng. Việc thực 
hiện các cam kết không tránh khỏi việc dẫn đến một số cú sốc về kinh tế, tuy nhiên 
lợi ích cuối cùng mà nó đem lại sẽ rất lớn. 
- Lựa chọn đối sách thích hợp trước sự phát triển nhanh chóng của các FTA song 
phương. Xu hướng phát triển của các FTA song phương trên thế giới hiện nay đang 
diễn ra mạnh mẽ, đem lại nhiều lợi ích cho các nước tham gia. Bất kỳ quốc gia nào đi 
theo mô hình kinh tế mở, trong đó có Việt Nam, đều phải quan tâm và điều chỉnh 
theo xu thế này nếu không muốn bị cô lập và gặp bất lợi cả về kinh tế và chính trị. 
Theo đó, Việt Nam cần chủ động nghiên cứu và chuẩn bị các bước đi phù hợp để 
tham gia ký kết các FTA trong thời gian tới. Việt Nam cần theo đuổi hình thức tự do 
hóa thương mại mới theo hướng hội nhập sâu để thu được tối đa lợi ích từ quá trình 
tự do hóa. 
- Tích cực, chủ động tham gia các sáng kiến liên kết mới. Quá trình tự do hóa 
diễn ra vô cùng mạnh mẽ hiện nay đã làm nảy sinh ngày càng nhiều các hình thức 
liên kết mới có mức độ tự do hóa ngày càng sâu rộng hơn, ví dụ như Sáng kiến Khu 
74 
Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- 
vực thương mại tự do APEC (FTAAP) hay ý tưởng hình thành Cộng đồng Đông á. 
Những sáng kiến liên kết mới thường nhằm khắc phục những hạn chế của các hình 
thức liên kết đã có. Việc Việt Nam chủ động tham gia vào các hình thức liên kết mới 
này cũng giúp nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời 
tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia vào việc hình thành nên các “luật chơi” mới, 
góp phần nâng cao tiếng nói của nhiều nền kinh tế nhỏ và đang phát triển như Việt 
Nam. 
 4.7. Thúc đẩy chuyên môn hoá và tính chuyên nghiệp của hoạt động hiệp hội 
Hiệp hội cần hoạt động một cách chuyên nghiệp dưới dạng một tổ chức nghề nghiệp xã 
hội chứ không phải là một tổ chức hành chính hoá. Để có thể hoạt động một cách chuyên 
nghiệp, cần xây dựng năng lực chuyên môn cho tổ chức hiệp hội, bên cạnh việc tăng cường 
năng lực thể chế của hiệp hội. Điều này có nghĩa là các lãnh đạo hiệp hội cần được đào tạo 
và tập huấn về kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn, về toàn cầu hoá và liên kết, phát triển quan 
hệ đối tác trong một ”thế giới phẳng”. 
4.8. Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế, tham gia mạng lưới hiệp hội nghề 
nghiệp và ngành hàng khu vực và toàn cầu 
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và các doanh nghiệp tham gia ngày càng sâu rộng vào 
mạng lưới sản xuất, phân phối toàn cầu, tổ chức hiệp hội là người tập hợp và đại diện 
quyền lợi cho các doanh nghiệp cần đi tiên phong trong các hoạt động hợp tác và liên 
kết khu vực và toàn cầu. Hơn nữa, môi trường toàn cầu hoá cũng tạo những điều kiện 
thuận lợi cho các tổ chức đoàn thể, hiệp hội ngành nghề của doanh nghiệp phát triển, mở 
rộng quy mô, tính chất để trở nên có tính "mở" hơn, mang tính thị trường hơn, bao quát 
và thu hút ngày càng rộng rãi hơn các doanh nghiệp hội viên, không phân biệt nguồn 
gốc sở hữu, loại hình tổ chức và tính chất ngành nghề, địa phương. Sự hợp tác, phối hợp 
hoạt động của các doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng và củng cố trong kinh tế, đồng thời 
mở rộng dần sang lĩnh vực xây dựng chính sách, cải thiện môi trường đầu tư và cả các 
lĩnh vực chính trị - xã hội khác. 
4.9. Nhóm giải pháp đối với doanh nghiệp 
*Xây dựng và triển khai các chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 
trên cơ sở năng lực tham gia vào GPDN 
Doanh nghiệp là chủ thể của hội nhập kinh tế quốc tế và sẽ là đối tượng sẽ chịu tác 
động trực tiếp và khắc nghiệt nhất do phải đối mặt nhiều nhất với các hoạt động thương 
mại, giao lưu và luân chuyển vốn, nhân lực ở phạm vi toàn cầu. Trong cuộc chơi toàn 
cầu, doanh nghiệp phải tìm cho ra lời giải của bài toán hóc búa là sẽ quyết định tham gia 
vào công đoạn nào, mắt xích nào trong dây chuyền sản xuất - kinh doanh xuyên quốc gia 
theo phương thức toàn cầu: Thiết kế hay sản xuất/chế tạo hay thực hiện marketing/phân 
phối và hỗ trợ người tiêu dùng. Nếu tìm được ngách đứng (market niches) cho mình 
trong GPDN, doanh nghiệp có thể thu lợi gấp 10-20 lần so với quá trình tự do hoá 
thương mại thuần túy mang lại do có thể trực tiếp tiếp nhận các công nghệ cao và các 
thông tin, tri thức cập nhật. 
Tuy nhiên, để tìm lời giải tối ưu cho bài toán tham gia của doanh nghiệp Việt Nam 
vào GPDN, điều quan trọng là doanh nghiệp phải xác định đúng khả năng, đánh giá 
75 
Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- 
đúng năng lực để hình thành chiến lược tham gia phù hợp và hiệu quả. Các doanh 
nghiệp phải xác định được chiến lược mặt hàng và chiến lược thị trường đúng đắn. Trên 
cơ sở lựa chọn đúng chiến lược thị trường, chiến lược mặt hàng mà đổi mới công nghệ 
sản xuất, công nghệ quản lý; áp dụng các tiêu chuẩn ISO, hoàn thiện phương thức kinh 
doanh; tạo ra bản sắc riêng có, những nét độc đáo riêng có của doanh nghiệp mình thông 
qua đó mà thu hút khách hàng, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu, tham gia 
tích cực vào GPDN. 
Theo chúng tôi, trước mắt các doanh nghiệp Việt Nam, mà đa phần là các DNNVV 
cần tích cực tham gia vào những GPDN mà yếu tố quản trị mạng lưới tương đối đơn 
giản như các GPDN mạng lưới thị trường hoặc mạng môđun. Các doanh nghiệp cần nỗ 
lực đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp hay thực hiện hoạt động thuê 
ngoài trong các ngành chế biến thực phẩm, dệt may, giày dép... kể cả một số hoạt động 
nhượng quyền thương mại. Các hoạt động đơn giản và phù hợp này sẽ giúp doanh 
nghiệp tích luỹ vốn, trải nghiệm và cọ sát với cạnh tranh toàn cầu để trưởng thành và 
phát triển. Về lâu dài, các doanh nghiệp cần nghiên cứu và chủ động tham gia các 
GPDN có hình thức quản trị mạng lưới tinh vi, phức tạp, ứng dụng công nghệ quản trị 
mạng lưới tiên tiến, thậm chí, có những doanh nghiệp mạnh có thể giữ vị trí thống lĩnh 
GPDN. Đó là việc các doanh nghiệp tham gia các hoạt động xuất, nhập khẩu trong liên 
kết với hoạt động đầu tư, mua bán bản quyền, sáng chế... trong những ngành công 
nghiệp công nghệ cao như công nghệ thông tin, phần mềm, các dịch vụ tư vấn có hàm 
lượng, trí tuệ cao... 
* Tích cực chủ động trong xây dựng và phát triển quan hệ đối tác lâu bền 
Thực tiễn cạnh tranh và yêu cầu tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, 
trở thành bộ phận của chuỗi giá trị toàn cầu sẽ cho phép và buộc các doanh nghiệp phải 
mở rộng và tăng cường các quan hệ hợp tác, gắn kết kinh tế ngày càng sâu, rộng, chặt 
chẽ và toàn diện hơn. Các quan hệ kinh doanh theo mạng sẽ rất phát triển và ngày càng 
trở nên phức tạp, với sự tham gia đồng thời của tất cả các doanh nghiệp với đủ loại hình, 
quy mô, tính chất và trình độ phát triển khác nhau, ngày càng mang tính liên cấp, liên 
ngành, liên quốc gia... trong sự tuân thủ các luật chơi và tiêu chuẩn chất lượng đồng 
nhất. Mỗi doanh nghiệp sẽ vừa có sự chuyên môn hoá sâu trong sản xuất - kinh doanh, 
vừa có sự năng động cao, sẵn sàng điều chỉnh thay đổi, đa dạng hoá các mẫu mã, sản 
phẩm, lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước những biến động nhanh chóng của thị trường 
và đơn đặt hàng của đối tác. 
Như vậy, vấn đề liên kết DN ở đây có ý nghĩa về mặt nâng cao khả năng cạnh tranh 
trong nội bộ ngành, sử dụng lợi thế cạnh tranh của khu vực, khai thác chuỗi giá trị để tạo 
nên sản phẩm mang tính cạnh tranh cao. Cuối cùng, chính những sản phẩm mang tính 
cạnh tranh lại giúp doanh nghiệp đứng vững trong các liên kết (trở thành mắt xích không 
thể thiếu trong GPDN). 
Mặt khác qua các kiểu quản trị GPDN mà chúng tôi đã giới thiệu, chúng ta thấy để 
tham gia vào các GPDN dạng quan hệ, phụ thuộc hay liên kết dọc, chi phí để gia nhập 
mạng là rất cao trong khi các TNC lại có rất nhiều lựa chọn đối với các nhà cung cấp. Vì 
vậy, việc xây dựng quan hệ đối tác lâu bền trong GPDN không những giúp doanh 
76 
Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- 
nghiệp đứng vững trong một mạng lưới mà còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, 
tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 
Vấn đề là, doanh nghiệp sẽ xây dựng quan hệ đối tác lâu bền như thế nào? Doanh 
nghiệp cần phải tích cực chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế; phải tăng cường liên 
kết hợp tác theo chiều dọc và chiều ngang; xác lập quan hệ bạn hàng và nhanh chóng 
hình thành hệ thống phân phối. Cần nhận thức rằng cạnh tranh và hợp tác luôn song 
hành trong hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Quá trình nghiên cứu 
GPDN cho chúng ta thấy rõ, ngày nay, các Công ty xuyên quốc gia (TNC) tuy là đối thủ 
cạnh tranh với nhau gay gắt nhưng cũng sẵn sàng hợp tác vì lợi ích của chính họ. Doanh 
nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ, vốn ít càng cần phải tăng cường liên kết và hợp tác theo 
những hình thức và phương pháp phù hợp để trở lên lớn mạnh và thu hái thành quả từ 
lợi ích về quy mô... 
* Tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên các yếu tố về vốn, khoa 
học công nghệ, thông tin truyền thông và đặc biệt là con người 
- Giải bài toán về vốn của doanh nghiệp: 
Như chúng tôi đã giới thiệu, doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hầu hết là doanh 
nghiệp nhỏ và vừa nên nhìn chung đều gặp khó khăn về vốn. Đặc biệt khu vực doanh 
nghiệp tư nhân, hiện chiếm hơn 90% số lượng doanh nghiệp nhưng chỉ chiếm trên 24% 
tổng vốn đầu tư toàn xã hội và vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh bình quân chỉ là 
5,57 tỷ đồng/doanh nghiệp. Tuy đạt được độ linh hoạt cao và có thể phản ứng nhanh 
nhạy với môi trường kinh doanh nhưng với lượng vốn eo hẹp như vậy, các doanh nghiệp 
sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. 
Tăng cường liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp là một cách để tăng nguồn vốn. 
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp FDI, tạo thuận lợi và hỗ trợ DNNVV tham gia 
trong các liên kết chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) và trở thành các nhà thầu phụ cũng là 
cách để tăng tiềm lực vốn cho doanh nghiệp. 
Việc thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa 
cũng giúp giải bài toán nguồn vốn cho doanh nghiệp... 
- Xây dựng năng lực khoa học công nghệ của doanh nghiệp: 
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ của thế giới đang tiến mạnh như vũ 
bão với những thành tựu của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật 
liệu mới đang làm cho nền kinh tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức. Với sự tích hợp 
ngày càng cao, liên kết ngày càng rộng, nhiều tri thức công nghệ sản xuất không hoàn 
toàn được hiển hiện kiểu trọn gói dưới dạng hữu hình trong các thiết bị, máy móc, hay 
quy trình, tài liệu hướng dẫn sẵn có mà chứa đựng vô số tri thức ngầm ẩn, dưới dạng vô 
hình, đòi hỏi một năng lực nghiên cứu, khám phá nhất định mới có thể nhận biết và giải 
mã được. Vấn đề thay đổi để thích nghi, đổi mới để phát triển sẽ là bài toán lớn trong 
việc nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp. 
Để có thể từ những cải tiến, thay đổi mang tính nhỏ, lẻ chuyển sang giai đoạn cải 
biến lớn, đổi mới và sáng tạo công nghệ, doanh nghiệp không chỉ cần biết phải làm thế 
nào mà còn phải hiểu tại sao như vậy và tiến đến biết làm thế nào cho tốt hơn. Quá trình 
77 
Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- 
nhận biết và giải mã công nghệ này dẫn đến phương pháp học hỏi qua nghiên cứu 
(learning by research) để nâng cao năng lực công nghệ. Đây là cách nhanh nhất đối với 
các nước đang phát triển để làm chủ và sáng tạo công nghệ trong hội nhập kinh tế quốc 
tế và TCH. Trên nền năng lực công nghệ mới này, doanh nghiệp sẽ tạo ra tri thức mới, 
biến đổi công nghệ sẵn có để sáng tạo ra công nghệ của riêng mình, tạo ra cho mình 
năng lực sáng tạo công nghệ mới, từ đó làm xuất hiện các sản phẩm mới với sức cạnh 
tranh cao. Nhu cầu tự nhiên là doanh nghiệp cần phải tự tổ chức hoặc thuê mướn nhân 
lực làm công tác nghiên cứu chuyên nghiệp để giải quyết các vấn đề của mình, tức là 
dựa vào lực lượng lao động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức 
chặt chẽ, theo hệ thống riêng. 
- Phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp: 
Không phải là nguồn vốn, mà chính là tư duy chiến lược đúng đắn dựa trên sự tiếp 
cận nhanh chóng, thuận lợi, chính xác các thông tin đa dạng cần thiết và việc ứng dụng 
các thành tựu khoa học - công nghệ, cũng như thu hút, trọng dụng, phát huy các nhân tài 
trong mọi lĩnh vực... mới trở thành động lực chính quyết định sự tồn tại, phát triển của 
doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp thành công cũng thường là các doanh 
nghiệp xây dựng và bảo vệ thành công thương hiệu, cũng như văn hoá kinh doanh đặc 
sắc của mình và thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội có liên quan của doanh nghiệp. 
Với các tập đoàn kinh tế và các công ty, cũng như toàn xã hội, điều cực kỳ quan 
trọng là phải lấy định hướng toàn cầu thay cho định hướng quốc gia. Friedman đưa ra 7 
quy tắc vàng cho các công ty và tập đoàn muốn thành công trong môi trường kinh doanh 
mới, trong đó có quy tắc “Người tí hon có thể hành động như người khổng lồ”. Cách để 
các công ty nhỏ có thể thịnh vượng trong thế giới phẳng chính là học cách làm chuyện 
lớn. Bí quyết để người tí hon làm được chuyện lớn là nhanh chóng chiếm lĩnh lợi thế của 
các công ty mới để hợp tác và vươn xa hơn, nhanh hơn, rộng hơn và sâu hơn. 
Trong quá trình tham gia vào GPDN, lực lượng lao động chất lượng cao, những 
doanh nhân, nhà quản trị doanh nghiệp, cán bộ kỹ thuật, công nghệ ở doanh nghiệp là 
lực lượng trực tiếp nắm bắt các thông tin kinh tế, thương mại, các tiến bộ kỹ thuật và 
công nghệ để tham gia vào quá trình chuyển hoá vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên 
thành sản phẩm, hàng hoá. Họ là nhân tố quan trọng nhất trong việc đáp ứng các thử 
thách cam go và có vai trò quyết định sự thành bại trong hội nhập kinh tế quốc tế cũng 
như quyết định chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, giúp cho đất nước tránh được tụt 
hậu, giảm được khoảng cách giàu - nghèo với các nước phát triển. Thông qua các 
chương trình đào tạo chuẩn mực, đa dạng, theo từng đối tượng cụ thể, lực lượng lao 
động này sẽ được phát triển cả về số lượng và chất lượng. 
Để đảm bảo phát triển theo chiều rộng, thu hút thêm đầu tư, mở thêm nhiều cơ sở 
sản xuất, phát triển mạng lưới dịch vụ và phân phối sản phẩm trong và ngoài nước thì 
việc tăng cường lao động về số lượng là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, chất lượng lao 
động lại có vai trò quyết định đến việc xác định được cần sản xuất ra sản phẩm gì để có 
khả năng cạnh tranh cao, yếu tố nào là ưu thế trong cạnh tranh quốc tế, công nghệ, kỹ 
thuật gì có thể thực hiện nhằm đứng vững trên sân nhà và vươn mạnh ra thị trường quốc 
tế. Nói cách khác, chất lượng lao động sẽ quyết định việc tham gia MLSXPPTC theo 
78 
Giáo trình đào tạo Kỹ năng tư vấn --------------------------------------------------------------------- 
chiều sâu. 
Đối với nước ta hiện nay, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa. Quy mô 
nhỏ và vừa tuy có độ năng động và tính linh hoạt cao nhưng không có đủ điều kiện và 
nguồn lực đầu tư một cách đầy đủ cho hoạt động KH&CN. Thậm chí, ngay trong nhiều 
tổng công ty và tập đoàn kinh tế lớn, lực lượng cán bộ nghiên cứu còn rất yếu về trình 
độ chuyên môn và thiếu về các trang thiết bị cần thiết. Như vậy, việc hỗ trợ đổi mới 
công nghệ của doanh nghiệp đòi hỏi phải có sự can thiệp của lực lượng KH&CN ở quy 
mô quốc gia. Viện nghiên cứu và trường đại học, với các trang thiết bị chuyên dùng và 
đội ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên sâu lúc này sẽ phải đảm nhận chức năng xúc tác thúc 
đẩy quan hệ Nhà nước - nghiên cứu - sản xuất thông qua việc tổ chức nghiên cứu tập 
trung và quy mô để hỗ trợ tạo ra các nguồn tri thức và công nghệ bên ngoài doanh 
nghiệp. Hội nhập quốc tế về KH&CN do vậy đã mang sắc thái mới là phải phục vụ tốt 
hơn cho doanh nghiệp - đối tượng chịu tác động trực tiếp trong hội nhập. 
Chú thích: 
- Mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu (Global Production and Distribution 
Network - GPDN) 
- Chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value CHƯAin- GVC) 
- Chuỗi cung ứng toàn cầu (Global supply chưain-GSC) 
- Các công ty xuyên quốc gia (TNC) 
79 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_dao_tao_ky_nang_tu_van.pdf