Giáo trình Đường lối cách mạng Đảng công sản Việt Nam

Tóm tắt Giáo trình Đường lối cách mạng Đảng công sản Việt Nam: ...ực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam. ... nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội. Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn. Chú...nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và làm rõ thêm nội dung của nó. Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền tự do sống và làm việc theo khả năng và sở t...

pdf126 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 204 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Đường lối cách mạng Đảng công sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ngoại theo 
phương châm chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) khẳng định tiếp tục 
mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, 
chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh mở” và “đẩy 
nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. 
Đại hội VIII xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: 
ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức 
ASEAN; không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng 
quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đoàn kết 
với các nước đang phát triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và 
đóng góp cho hoạt động của các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế. 
So với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới là: 
một là, chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác; hai 
là, quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức 
phi chính phủ; ba là, lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ 
trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài. 
Cụ thể hoá quan điểm của Đại hội VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thức tư Ban 
chấp hành Trung ương, khoá VIII (12-1997), chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực 
hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Nghị quyết đề ra 
chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại 
với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. 
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), Đảng nhấn 
mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát 
huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên, Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc 
lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về 
đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xâu dựng nền kinh tế 
độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng 
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng 
hợp phát triển đất nước”. 
Cảm nhận đầy đủ “lực” và “thế” của đất nước sau 15 năm đổi mới, Đại hội IX 
đã phát triển phương châm của Đại hội VII là: “Việt Nam sẵn sang là bạn, là đối tác 
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát 
triển”. Chủ trương xây dựng quan hệ đối tác được đề ra ở Đại hội IX đánh dấu bước 
phát triển về chất tiến trình quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới. 
Tháng 11-2001, Bộ chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế. 
Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội 
nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị lần thức chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IX (5-
1-2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập 
 120
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện của các 
lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng(4-2006), Đảng nêu quan 
điểm: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và 
phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ 
quốc tế. Đồng thời đề ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. 
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường 
lối, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế bị động; phân tích lựa 
chọn phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó 
khăn khi hội nhập kinh tế quocó tế, không để rơi vào thế bị động; phân tích, lựa chọn 
phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn 
khi hội nhập kinh tế quốc tế. 
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị điều chỉnh, đổi mới 
bên trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương 
đến địa phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, hoàn chỉnh 
hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; 
tích cực, nhưng phải thận trọng, vững chắc. 
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của 
Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thộc các thành phần kinh tế và 
toàn xã hội. 
Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa 
phương hoá quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới 
(1986-1996), đến Đại hội X (2006) được bổ sung, phát triển theo phương châm chủ 
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự 
chủ,hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa 
phương hoá quan hệ quốc tế. 
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế 
a. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo 
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ 
hội và thách thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, tren cơ sở đó 
Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ dạo công tác đối ngoại. 
- Cơ hội và thách thức 
Về cơ hội: Xu thế hoà bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế 
tạo thuận lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt 
khác, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường 
quốc tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. 
Về thách thức: Những vấn đề toàn cầu như phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, 
tội phạm xuyên quốc giagây tác động bất lợi đối với nước ta. 
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: 
sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác 
 121
động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, 
thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính. 
Ngoài ra, lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân 
chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta. 
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể 
chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng 
tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua thách thức, 
tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, nếu không nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ 
lỡ, thách thức sẽ tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức 
ép trực tiếp, nhưng tác động đến đâu còn tuỳ thuộc vào khả năng và nỗ lực của 
chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh 
trước sức ép của các thách thức thì không những sẽ vượt qua được thách thức, mà 
còn có thể biến thách thức thành động lực phát triển. 
- Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại 
Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế 
thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của 
Tổ quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo them nguồn lực 
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên 
ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp đẻ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, 
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai 
trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào 
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và 
tiến bộ xã hội. 
- Tư tưởng chỉ đạo 
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu 
sắc các quan điểm: 
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng 
của Việt Nam. 
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa 
dạng hoá quan hệ đối ngoại. 
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc 
đẩy mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với 
từng đối tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô 
lập. 
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân 
biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hoà bình, hợp tác với khu vực; chủ 
động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu. 
Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác 
định hội nhập kinh tês quốc tế là công việc của toàn dân. 
 122
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; 
bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn 
lực bên ngoài; xây dựng nền kinh tếđộc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các 
lợi thế so sánh của đất nưởctong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách 
thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và 
Nhà nước. 
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của 
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tanưg cường sức mạnh của 
khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
b. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội 
nhập kinh tế quốc tế 
Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết 
Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2-2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn 
như: 
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền 
vững: Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình 
đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương 
mại toàn cầu, thiết lập một trât tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều kiện thuận lợi 
để đấu tranh bảo vệ quyền lợi dianh nghiệp Việt Nam tranh các cuộc tranh chấp 
thương mại với các nước khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhập kinh tế 
quốc tế. 
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ 
động và tichá cực xác định lộ hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng những ưu đãi 
mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực 
nhưng phải hội nhập từng bước, dần dând mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý. 
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các 
nguyên tắc, quy định của WTO: bảo đảm tính đồng bộ của hệ thông spháp luật; đa 
dnạg hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình 
thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế 
công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh. 
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà 
nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy 
mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện 
công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý. 
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong 
hội nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu 
hút đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp 
điều chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng dắn chiến lược sản 
 123
phẩm và thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng 
cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm. 
- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội 
nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây 
dựng cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ 
văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến đến sự phát triển đất nước, văn hoá 
và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá 
truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao 
lưu với các nền văn hoá bên ngoài. 
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, 
bảo hiểm, y tế; đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn 
chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế 
trên lĩnh vực bảo vệ môi trường. 
- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây 
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án 
chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. 
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước 
và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoai: Tạo cơ chế phối hợp 
chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân 
dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại 
song phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở 
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia 
đấu tranh vì một hệ thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi. 
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối 
với các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng 
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách 
hành chính. 
3. Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân 
a. Thành tựu và ý nghĩa 
Hơn 20 năm thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế, 
nước ta đã đạt được những kết quả: 
Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi 
trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Việc tham gia ký Hiệp định Pải (23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho 
vấn đề Camphuchia, đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và 
cộng đồng quốc tế. 
Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (10-11-1991); tháng 
11-1992 Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình 
thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ (11-7-1995). 
Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta 
với khu vực Đông Nam Á. 
 124
Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các 
nước liên quan. 
Đã đàm phán thành công với Malaixia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai 
thác” ở vìng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển giữa 
ta và các nước ASEAN. Đã ký với Trang Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới 
trên bộ, Hiệp định phân Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác về nghề cá. 
Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. 
Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chínhthức với tất cả các nước 
lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các 
nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã ký Hiệp định khung 
về hợp tác với EU (1995); năm 1999 ký thoả thuận với Trung Quốc khung khổ quan 
hệ “ Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”; 
tháng 5-2008 thiết lập quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam – Trung Quốc; 
ngày 13-7-2001, ký kết Hiệp định thương mại song phương việt Nam – Hoa Kỳ; 
tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (2001); khung khổ quan hệ đối tác 
tin cậy và ổn định lâu dài với Nhật Bản(2002). 
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 nước trên tổng số hơn 200 
nước trên thế giới. 
Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uỷ viên 
không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009. 
Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. 
Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc 
tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển 
châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN ( AFTA); tháng 3-1996, tham gia Diễn đàn 
hợp tác Á – Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11-1998, gia nhập 
tổ chức Diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (APEC); ngày 11-1-2007, Việt 
Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 
Năm là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học 
công nghệ và kỹ năng quản lý. 
Về mở rộng thị trường: Nước ta đã tạo dựng được quan hệ kinh tế thương mại 
với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 74 nước áp dụng quy chế tối huệ 
quốc; thiết lập và ký kết hiệp định thương mại hai chiều với gần 90 nước và vùng 
lãnh thổ. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất kẩu chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007 
đạt 48 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỷ USD. 
Việt Nam đã thu hút được khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Năm 2007, thu 
hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD; năm 2008 đạt khoảng 65 tỷ 
USD. 
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu 
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, 
dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các 
ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các 
 125
doanh nghoệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện 
đại. 
Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào 
môi trường cạnh tranh. 
Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới 
quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh 
để tồn tại và phát triển. 
Tư duy làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm thước đo và đội ngũ 
các nhà doanh nghiệp mới năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành. 
Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng: đã tranh thủ được các 
nguồn lực bên ngoài kết hợp với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh 
tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và 
củng cố độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và 
bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc 
tế. 
b, Hạn chế và nguyên nhân 
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội 
nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế: 
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị 
động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước 
lớn. 
Mộy số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở 
rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn 
chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ 
chức kinh tế quốc tế. 
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế 
quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. 
Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công 
nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ 
tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và 
có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. 
Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả 
về số lượng lẫn chất lượng. Cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc té, về 
kỹ thuật kinh doanh. 
Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 
đến 2008 mặc dù cond những hạn chế nhưng thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan 
trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế 0 xã hội, nền kinh tế Việt 
Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên trường 
quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối 
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng 
đắn và sáng tạo. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_duong_loi_cach_mang_dang_cong_san_viet_nam.pdf