Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin

Tóm tắt Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin: ...i gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức: M = m' . V hoặc M = m v x V (1) Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên. Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m' và V. 4. Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối và siêu ngạch Giá t...át triển sản xuất. Tuy nhiên, một loạt công ty ở các nước Anh, Pháp, Hà Lan... đã vượt qua cả lệnh cấm vận của Mỹ để đầu tư vào các nước đang phát triển. Chẳng hạn họ đầu tư thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam - đó là bằng chứng rõ rệt chứng minh cho xu hướng trên. Sở dĩ như vậy là vì tì... nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Kinh tế hộ gia đình chưa tham gia hợp tác xã thuộc thành phần kinh tế cá thể hoặc tiểu chủ: Hộ gia đình và hợp tác xã được tổ chức theo chính sách và Luật hợp tác xã là đơn vị cơ bản trong kinh tế nông nghiệp. Với tính chất là hộ gia đình xã v...

pdf198 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 947 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội. Mọi hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối 
 188
ngoại đều phải hướng vào mục tiêu đó, tránh tình trạng vì lợi ích kinh tế trước 
mắt, xa rời mục tiêu dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa. 
III- Những hình thức kinh tế 
đối ngoại chủ yếu hiện nay 
1. Ngoại thương 
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa, 
dịch vụ (hàng hóa hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập 
khẩu. 
Ngoại thương là một trong những hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất 
trong các hình thức của kinh tế đối ngoại. 
Đối với các nước, đặc biệt là những nước đang phát triển như nước ta, 
ngoại thương có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng của cải và sức mạnh tổng 
hợp, tắng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các 
quốc gia trong trao đổi quốc tế; là một động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; 
"điều tiết thừa, thiếu" của mỗi nước; nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu 
ngành nghề trong nước; tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao 
động, nhất là trong các ngành xuất khẩu. 
Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa, gia 
công tái xuất khẩu, xuất khẩu tại chỗ (bán hàng thu ngoại tệ trong nước). Trong 
đó, xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động ngoại thương ở 
các nước nói chung và ở nước ta nói riêng. 
Quá trình phát triển thương mại quốc tế đòi hỏi tự do hoá thương mại; đồng 
thời thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lý. Đối với nước ta hiện nay, để 
đẩy mạnh hoạt động ngoại thương cần hướng vào giải quyết các vấn đề sau: 
+ Tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. 
Nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống trong nền kinh tế "mở" đòi hỏi phải 
tăng nhập khẩu. Do vậy, tăng kim ngạch xuất khẩu là yêu cầu bức xúc đối với 
nước ta. 
Định hướng đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới là: Tăng nhanh tỷ 
trọng xuất khẩu các sản phẩm chế biến có giá trị tăng thêm cao, giàu hàm lượng 
công nghệ, có sức cạnh tranh, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực mới, hạn 
chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua 
chế biến; Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho 
các mặt hàng có khả năng cạnh tranh; Tăng thêm thị phần ở các thị trường lớn và 
khai mở các thị trường còn nhiều tiềm năng. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất 
khẩu 5 năm tới (2006-2010) lên hơn hai lần 5 năm trước (tổng kim ngạch xuất 
 189
khẩu hàng hoá 5 năm: 2001-2005 đạt gần 111 tỷ USD). 
+ Về nhập khẩu - chính sách mặt hàng nhập. 
Chính sách nhập khẩu phải tập trung vào việc hình thành và chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phục vụ chiến lược hướng 
mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản 
xuất có hiệu quả ở trong nước; 
+ Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tự do và 
chính sách bảo hộ thương mại. 
Chính sách thương mại tự do có nghĩa là Chính phủ không can thiệp bằng 
biện pháp hành chính đối với ngoại thương, cho phép hàng hóa cạnh tranh tự do 
trên thị trường trong nước và nước ngoài, không thực hiện đặc quyền và ưu đãi 
đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của nước mình, không có sự kỳ thị đối với hàng 
hóa xuất khẩu của nước ngoài. 
Chính sách bảo hộ thương mại có nghĩa là Chính phủ thông qua biện pháp 
thuế quan và phi thuế quan như: hạn chế về số lượng nhập khẩu, chế độ quản lý 
ngoại tệ để hạn chế hàng hóa nước ngoài xâm nhập. Cần kết hợp hai xu hướng đó 
trong chính sách ngoại thương sao cho vừa bảo vệ và phát triển kinh tế, bảo vệ 
thị trường trong nước, vừa thúc đẩy tự do thương mại, khai thác có hiệu quả thị 
trường thế giới. 
+ Hình thành tỷ giá hối đoái một cách chủ động, hợp lý. 
Tỷ giá hối đoái là tỷ giá giữa đồng tiền của nước sở tại với đồng tiền của nước 
ngoài. Tỷ giá hối đoái là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng trong trao đổi 
kinh tế đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đối với xuất, nhập khẩu. Do vậy, việc xây dựng 
một tỷ giá hối đoái thống nhất, sát giá thị trường tiền tệ là rất cần thiết cho mỗi nước. 
2. Đầu tư quốc tế 
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là 
quá trình trong đó một hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để 
xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho tất cả các bên 
tham gia. yếu tố quốc tế của đầu tư quốc tế thể hiện sự khác nhau về quốc tịch 
của các bên tham gia đầu tư, nhưng mọi hoạt động đầu tư quốc tế đều nhằm mục 
đích sinh lợi. 
Đầu tư quốc tế có tác động hai mặt đối với các nước nhận đầu tư. Một mặt 
làm tăng thêm nguồn vốn, tăng công nghệ mới, nâng cao trình độ quản lý tiên 
tiến, tạo thêm việc làm, đào tạo tay nghề, khai thác tài nguyên, chuyển đổi cơ cấu 
kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới. Mặt 
khác đối với các nước kém phát triển, đầu tư quốc tế cũng có khả năng làm tăng 
 190
sự phân hóa giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng lãnh thổ, làm cạn kiệt 
tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường sinh thái, tăng tính lệ thuộc vào bên ngoài. 
Những điều bất lợi này cần được tính đến và cân nhắc kỹ trong quá trình xây 
dựng, thẩm định, ký kết và thực thi dự án nhận đầu tư. 
Có hai loại hình đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. 
Đầu tư trực tiếp (FDI) là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử 
dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu 
tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu 
trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. 
Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: 
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Hình thức này không cần thành 
lập một pháp nhân mới. 
- Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để 
hình thành xí nghiệp mới có Hội đồng quản trị và ban điều hành chung. 
- Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. 
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao. Hình thức này đòi hỏi cần 
có nguồn vốn lớn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ 
tầng. 
Thông qua các hình thức trên mà các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu 
công nghệ cao... sớm hình thành và phát triển. 
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng 
vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều 
hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc 
lợi tức cổ phần (nếu là cổ phần). Trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một bộ 
phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho chính phủ một số 
nước có nền kinh tế đang phát triển. Bộ phận này có tỷ trọng lớn và thường đi 
kèm với điều kiện ưu đãi. ODA bao gồm các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các 
khoản tín dụng ưu đãi khác do các tổ chức trong hệ thống Liên Hợp Quốc, các 
chính phủ, các tổ chức kinh tế dành cho các nước chậm phát triển. Các hình thức 
viện trợ chủ yếu của ODA là tiền mặt, hàng hóa, tín dụng thương mại ưu đãi, hỗ 
trợ công trình, hỗ trợ dự án. 
Từ năm 1988 đến hết năm 2005, nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào nước ta đã 
có gần 65,7 tỷ USD đăng ký và khoảng 33 tỷ USD thực hiện. Trong giai đoạn 
2001-2005, tổng vốn FDI thực hiện là 14,3 tỷ USD; tổng vốn ODA cam kết đạt 
11,2 tỷ USD, vốn ODA giải ngân đạt 7,9 tỷ USD. Tuy nhiên, môi trường đầu tư 
của Việt Nam kém hấp dẫn so với một số nước xung quanh. Chưa thu hút được 
 191
nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn; chưa chủ 
động khai thác vốn đầu tư gián tiếp quốc tế. 
Định hướng đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2006-2010 
là: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành chính, đào tạo 
nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để thu hút mạnh các 
nguồn vốn quốc tế; mở rộng địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào các thị 
trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển 
biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI. Đẩy nhanh tốc độ 
giải ngân ODA. Từng bước mở rộng đầu tư gián tiếp của nước ngoài. 
3. Hợp tác khoa học - kỹ thuật 
Hợp tác khoa học - kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức, như: trao 
đổi những tài liệu - kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh 
nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân. 
Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa học 
kỹ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chưa nhiều, phương tiện vật 
chất còn thiếu thốn như nước ta thì việc tham gia hợp tác khoa học kỹ thuật với 
nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng 
cách với các nước tiên tiến. 
4. Tín dụng quốc tế 
Đây là quan hệ tín dụng giữa nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội, các cá 
nhân ở trong nước với các chính phủ, các tổ chức (gồm cả tổ chức phi chính phủ) 
và cá nhân ở nước ngoài, trong đó với các tổ chức ngân hàng thế giới và ngân 
hàng khu vực là chủ yếu. 
Tín dụng quốc tế được thể hiện dưới nhiều hình thức: hoặc vay nợ bằng tiền 
tệ, vàng, công nghệ, hàng hóa, hoặc có thể qua hình thức đầu tư trực tiếp (bên 
nhận đầu tư không có vốn, phải vay của bên đầu tư). 
Ưu điểm của hình thức này là vay nợ để có vốn đầu tư mở rộng sản xuất, 
xây dựng kết cấu hạ tầng - những khu vực cần vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm. 
Tuy nhiên, nếu không có phương án đầu tư đúng, được tính toán một cách 
khoa học thì việc chi tiêu vốn vay sẽ không có hiệu quả, vốn vay sẽ trở thành một 
gánh nặng cho nền kinh tế. 
5. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ 
Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ chủ yếu là: 
a) Du lịch quốc tế 
 192
Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người, kinh tế càng phát 
triển, năng suất lao động càng cao thì nhu cầu du lịch - nhất là du lịch quốc tế 
càng tăng. 
Ngành kinh tế du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt 
động tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm 
đáp ứng các nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, thăm quan, giải trí, tìm 
hiểu, lưu niệm... của du khách. 
Phát triển ngành du lịch quốc tế sẽ phát huy lợi thế của Việt Nam về cảnh 
quan thiên nhiên, về nhiều loại lao động đặc thù mang tính dân tộc, truyền thống 
của Việt Nam. 
b) Vận tải quốc tế 
Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân công lao 
động xã hội và quan hệ buôn bán giữa các nước với nhau. 
Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông 
qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng 
hóa. 
Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt, 
đường bộ (ôtô), đường hàng không... trong các phương thức đó, vận tải đường 
biển có vai trò quan trọng nhất. 
Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận 
tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh 
vận tải quốc tế. 
c) Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ 
Hiện nay nhu cầu lao động ở các nước phát triển vẫn còn lớn do kinh tế 
phát triển, tỷ lệ tăng dân số ở các nước này có xu hướng giảm và nhất là do 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi cách mạng khoa học và công nghệ. Những 
ngành khó cơ giới hoá tự động hoá, độc hại, nguy hiểm hoặc cần nhiều lao 
động không lành nghề như xây dựng, khai mỏ, công nghiệp nhẹ, công nghiệp 
lắp ráp ôtô, điện tử hiện vẫn cần lao động. 
Việt Nam với dân số trên 83 triệu người, kinh tế chưa phát triển là một 
nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại nhiều lợi ích 
trước mắt và lâu dài. 
d) Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác 
Ngoài những hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn có nhiều 
hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin 
bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn. 
 193
6. Phân công hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hóa 
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công và hợp tác sản xuất 
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà mang tính quốc tế. Trong nền kinh tế hiện 
đại, mỗi quốc gia có những ưu thế riêng trong việc sản xuất ra những sản phẩm 
nhất định, thậm chí những chi tiết sản phẩm nhất định. Nếu các quốc gia thực 
hiện phân công và hợp tác sản xuất trên cơ sở chuyên môn hoá, sản phẩm có thể 
đạt được chất lượng tốt nhất, chi phí thấp nhất và đem lại lợi ích cho tất cả các 
bên tham gia. 
Chuyên môn hóa bao gồm: chuyên môn hóa những ngành khác nhau và 
chuyên môn hóa trong cùng một ngành (chuyên môn hóa theo sản phẩm, theo bộ 
phận sản phẩm hay chi tiết và công nghệ). Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu 
kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. 
IV- Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng, 
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 
Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại cần thực 
hiện đồng thời hàng loạt các giải pháp trong đó có các giải pháp chủ yếu sau đây: 
1. Bảo đảm sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế - xã hội 
Môi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định 
đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước 
ngoài - hình thức chủ yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh 
nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu sự ổn định chính trị không được bảo đảm, môi 
trường kinh tế không thuận lợi, thiếu các chính sách khuyến khích, môi trường xã 
hội thiếu tính an toàn... sẽ tác động gián tiếp hoặc trực tiếp đến tỷ suất lợi nhuận của 
các đối tác, theo đó, sẽ tác động xấu tới quan hệ hợp tác kinh tế, trước hết là đối 
với việc thu hút đầu tư nước ngoài. 
2. Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại 
Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng, hiệu quả kinh tế đối 
ngoại. Một mặt phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác phải sử 
dụng linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chính 
sách thích hợp đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại. Chẳng hạn đối với hình 
thức ngoại thương cần phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất kinh 
doanh hàng xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ 
cao, phát triển mạnh mẽ những sản phẩm hàng hóa dịch vụ có khả năng cạnh 
tranh, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc biệt là nông sản, đầu tư cho sản 
xuất trong nước, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập 
khẩu, v.v.. 
3. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội 
 194
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh 
tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức 
đang hình thành và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng 
đóng vai trò quan trọng và yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt 
là kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, 
giao thông vận tải. 
Do vậy, phải có chiến lược đầu tư đúng, nhất là đầu tư tập trung có trọng 
điểm, dứt điểm và có hiệu quả cao, đặc biệt phải kiên quyết chống các hiện tượng 
tiêu cực gây thất thoát vốn đầu tư. 
4. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại 
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua đã khẳng định 
rằng nếu thiếu sự quản lý của Nhà nước, kinh tế đối ngoại sẽ không thể mở 
rộng và mang lại hiệu quả cao, thậm chí còn dẫn đến những hậu quả khó 
lường trước không chỉ về kinh tế mà còn nguy hại hơn là hậu quả về chính trị. 
Vì vậy việc tăng cường quản lý nhà nước trở thành vấn đề cấp bách. Chỉ có 
tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước mới có thể bảo đảm mục tiêu, 
phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối 
ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu quả cao. 
Thông qua sự tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước sẽ khắc phục được 
tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong 
nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, tránh được sự thua thiệt về lợi ích... 
5. Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại 
Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng. 
Cũng vì thế vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề 
phức tạp cần được xử lý linh hoạt. 
Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng 
bước xây dựng các đối tác mạnh (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý, phong 
cách giao tiếp quốc tế...) có tầm cỡ quốc tế, đóng vai trò đầu tàu trong quan hệ 
kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp vẫn là những chủ thể 
chủ yếu trực tiếp hoạt động kinh tế đối ngoại nên cần phải xúc tiến xây dựng 
một số doanh nghiệp nhà nước thành tập đoàn xuyên quốc gia. Các tập đoàn này 
sẽ là lực lượng đầu tàu trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và thông 
qua đó lôi cuốn các doanh nghiệp khác. 
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là 
vấn đề quan trọng đối với Việt Nam. Song trong tương lai và lâu dài cần quan 
tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn lực quốc tế lớn về 
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác. 
 195
Mỗi giải pháp trong hệ thống 5 giải pháp nói trên tuy đều có vị trí khác 
nhau, song sự phân định cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng và nâng cao 
hiệu quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo nên sức 
mạnh tổng hợp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại của nền kinh tế 
nước ta. 
Các giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại phải đặt 
trong tổng thể các giải pháp đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là các giải 
pháp chủ yếu sau: Nâng cao nhận thức chung về hội nhập kinh tế quốc tế; xây 
dựng chiến lược phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng cao 
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước; đổi mới cơ chế chính 
sách quản lý, hoàn thiện hệ thống pháp luật; đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn 
nhân lực; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và 
Nhà nước đối với các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế. 
Câu hỏi ôn tập 
1. Phân tích sự tất yếu khách quan và lợi ích của việc mở rộng quan hệ kinh 
tế đối ngoại ở nước ta hiện nay. 
2. Phân tích các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh tế đối ngoại. 
3. Trình bày các hình thức kinh tế đối ngoại chủ yếu. 
4. Trình bày các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả 
kinh tế đối ngoại. 
 196
Mục lục 
Phần mở đầu: 
Nhập môn kinh tế chính trị 
Chương I: Đối tượng, phương pháp, chức năng của kinh tế chính trị 
Mác - Lênin 
Chương II: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 
Phần thứ nhất: 
Những vấn đề kinh tế chính trị của 
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa 
Chương III: Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất 
hàng hóa 
Chương IV: Sản xuất giá trị thặng dư - Quy luật kinh tế cơ bản của chủ 
nghĩa tư bản 
Chương V: Vận động của tư bản cá biệt và tái sản xuất tư bản xã hội 
Chương VI: Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá 
trị thặng dư 
Chương VII: Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền 
nhà nước 
Phần thứ hai: 
Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương VIII: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cơ cấu kinh tế nhiều 
thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt 
Nam 
Chương IX: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương X: Kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội ở Việt Nam 
Chương XI: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt 
Nam 
Chương XII: Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá 
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương XIII: Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội ở Việt Nam 
 197

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_chinh_tri_mac_lenin.pdf