Giáo trình Kinh tế phát triển - Bài 1: Những vấn đề cơ bản của kinh tế học phát triển

Tóm tắt Giáo trình Kinh tế phát triển - Bài 1: Những vấn đề cơ bản của kinh tế học phát triển: ...c định được quy mô của nền kinh tế. Do đó, thước đo tăng trưởng kinh tế đầu tiên là tổng sản phẩm quốc nội. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) là giá trị của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ được sản xuất và cung ứng trên phạm vi một quốc gia hay lãnh thổ trong một năm. Đây ...ọng hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu trong GDP không chỉ phản ánh mức độ phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia, mà còn phản ánh cơ cấu các ngành kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, các ngành kinh tế đều phải được đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của dân cư. Trong nền kinh tế...ó ti vi, tủ lạnh, máy giặt, điện thoại ... Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 11 III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN Quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế của các quốc gia chịu tác động...

pdf14 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 125 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Kinh tế phát triển - Bài 1: Những vấn đề cơ bản của kinh tế học phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh 
thần. Việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp 
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai đòi hỏi phải chuyển giao các nguồn lực sẵn có 
từ thế hệ này sang thế hệ khác: các nguồn tài nguyên thiên nhiên, kết cấu hạ tầng kinh 
tế - xã hội, các nguồn vốn, các năng lực của con người Đến Hội nghị thượng đỉnh 
thế giới về phát triển bền vững ở Johannesbug (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002, khái 
niệm phát triển bền vững được làm rõ hơn. Phát triển bền vững là quá trình phát triển 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 5 
có sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội 
và bảo vệ môi trường. 
 Bền vững về kinh tế thể hiện ở tăng trưởng kinh tế ổn định, cơ cấu kinh tế tiến bộ, 
chất lượng tăng trưởng cao... 
Bền vững về môi trường thể hiện ở việc giữ gìn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, 
bảo vệ cân bằng sinh thái. 
Bền vững về xã hội thể hiện ở công bằng xã hội: xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện cho mọi 
người có cơ hội và năng lực trong hưởng thụ và phát triển, dân chủ hoá xã hội... 
II. CÁC THƯỚC ĐO TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
1. Các thước đo tăng trưởng kinh tế 
a) Tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân 
 Để xác định được mức tăng trưởng của nền kinh tế, trước hết phải xác định được 
quy mô của nền kinh tế. Do đó, thước đo tăng trưởng kinh tế đầu tiên là tổng sản phẩm 
quốc nội. 
 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) là giá trị của toàn bộ 
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất và cung ứng trên phạm vi một quốc gia hay lãnh thổ 
trong một năm. Đây là thước đo quan trọng, phản ánh tương đối chính xác quy mô của 
các hoạt động kinh tế của một quốc gia, một ngành, địa phương hay khu vực. GDP được 
xác định bằng các phương pháp sau đây: 
 + Phương pháp sản xuất: 
 GDP = + + + 
Tức là bằng giá trị gia tăng cộng với thuế nhập khẩu. 
 + Phương pháp phân phối: 
 GDP = + + + 
Thuế nhập 
khẩu 
Tổng giá trị các yếu tố đầu 
vào và chi phí trung gian 
Tổng giá trị 
sản lượng 
Quỹ khấu 
hao 
Thuế Lợi nhuận 
của các doanh 
nghiệp 
Thu nhập 
của các hộ 
gia đình 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 6 
 Tức là bằng thu nhập của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế cộng với quỹ khấu hao. 
 + Phương pháp tiêu dùng: 
 GDP = C + I + G + X - M 
 Tức là bao gồm toàn bộ tiêu dùng của các hộ gia đình (C), đầu tư cho sản xuất của 
các doanh nghiệp (I), chi tiêu của chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (X-M). 
 Theo các cách xác định trên đây, GDP phản ánh năng lực sản xuất, mức thu nhập 
hoặc mức tiêu dùng trong phạm vi một quốc gia, một ngành, một địa phương mà không 
kể đến quyền sở hữu năng lực sản xuất, mức thu nhập đó. 
 Để xác định quy mô của các hoạt động kinh tế, Kinh tế học phát triển còn sử dụng 
thước đo tổng sản phẩm quốc dân (GNP - Gross National Product). 
 Tổng sản phẩm quốc dân là toàn bộ giá trị hàng hoá và dịch vụ do công dân của 
một nước sản xuất và cung ứng trong một năm (ở trong nước và ở nước ngoài). Như vậy, 
GNP phản ánh năng lực sản xuất hoặc mức thu nhập thật sự của nhân dân một nước. 
 GNP của một nước có thể được xác định bằng cách lấy GDP cộng với thu nhập 
ròng (thu nhập ròng bằng thu nhập của công dân nước đó sống ở nước ngoài trừ đi thu 
nhập của người nước ngoài đầu tư vào nước đó). 
 b) Tốc độ tăng trưởng kinh tế 
 Đó là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa phần tăng thêm của GDP (hoặc GNP) với 
GDP (hoặc GNP). Đây là thước đo hết sức quan trọng, trực tiếp đo lường mức độ tăng 
trưởng kinh tế. 
  GDP (GNP) 
g = x 100% 
 GDP (GNP) 
 g: tốc độ tăng trưởng 
  GDP (GNP): mức tăng thêm của GDP hoặc GNP. 
c) Chỉ số giá cả CPI (consumer price index) 
 Sự thay đổi của GDP và GNP có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thay đổi của 
giá cả. CPI là chỉ số đo lường mức thay đổi chung về mức giá trong nền kinh tế. Để xác 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 7 
định tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế, cần phải loại bỏ tác động của giá cả bằng cách 
lấy GDP hoặc GNP danh nghĩa chia cho chỉ số giá cả. Do đó, chỉ số giá cả CPI được coi 
là thước đo tăng trưởng kinh tế. 
Chỉ số giá cả được xác định bằng công thức sau: 
  P1Q0 
 CPI = 
  P1Q0 
P1: giá cả hàng hoá và dịch vụ ở kỳ hiện tại 
P0: giá cả hàng hoá và dịch vụ ở kỳ gốc 
Q0: khối lượng hàng hoá và dịch vụ kỳ gốc 
d) Sức mua ngang giá PPP (purchasing power parity) 
Mức giá của hàng hoá và dịch vụ ở các quốc gia không giống nhau. Do đó, để có 
thể so sánh chính xác hơn GDP hoặc GNP của các quốc gia, cần phải sử dụng thước đo 
sức mua ngang giá. 
Sức mua ngang giá là mức giá tại Mỹ tính cho một giỏ hàng hoá và dịch vụ điển 
hình của các nước đang phát triển. 
2. Các thước đo cơ cấu kinh tế 
a) Tỷ trọng các ngành trong GDP 
Đây là thước đo trực tiếp đo lường cơ cấu kinh tế. Thước đo này cho biết tương 
quan giữa các ngành của nền kinh tế. Đây là biểu hiện quan trọng sự phát triển của nền 
kinh tế. Tỷ trọng của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai khoáng 
ngày càng giảm xuống; tỷ trọng của công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng 
lên có nghĩa là nền kinh tế càng ít phụ thuộc vào tự nhiên; năng suất và hiệu quả của nền 
kinh tế càng cao. Căn cứ vào tỷ trọng của các ngành, có thể hình dung một cách khái 
quát trình độ phát triển của một nền kinh tế. Chẳng hạn, ở các nước phát triển, khu vực 
III phải chiếm trên 70% GDP; khu vực II chiếm 18-20% GDP; khu vực I chỉ chiếm từ 3-
5% GDP. 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 8 
b) Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế 
 Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế là tỷ lệ phân chia lao động xã hội vào các 
ngành nghề khác nhau. Cơ cấu lao động do cơ cấu các ngành kinh tế quy định. Do đó, cơ 
cấu lao động là sự phản ánh cơ cấu các ngành kinh tế và trình độ phát triển của nền kinh 
tế. Khi cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo hướng tiến bộ thì tỷ trọng lao động ở khu vực 
I sẽ giảm xuống, tỷ trọng lao động ở khu vực II và III sẽ tăng lên. 
c) Cơ cấu dân cư theo khu vực thành thị - nông thôn 
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ là quá trình phát triển 
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Quá trình đó làm cho khu vực đô thị phát triển nhanh 
chóng. Điều đó làm cho tỷ lệ dân cư sống ở thành thị ngày càng tăng, tỷ lệ dân cư sống ở 
nông thôn ngày càng giảm. Bởi vậy, cơ cấu dân cư theo khu vực thành thị và nông thôn 
là thước đo cơ cấu kinh tế. 
d) Tỷ trọng hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu trong GDP 
Tỷ trọng hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu trong GDP không chỉ phản ánh mức độ 
phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia, mà còn phản ánh cơ cấu các 
ngành kinh tế. Trong nền kinh tế đóng, các ngành kinh tế đều phải được đầu tư nhằm đáp 
ứng nhu cầu nhiều mặt của dân cư. Trong nền kinh tế mở, những ngành có tiềm năng, có 
lợi thế sẽ có điều kiện phát triển và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế và tỷ trọng hàng 
hoá và dịch vụ xuất khẩu trong GDP cũng càng lớn. 
3. Các thước đo động lực của các tiến bộ kinh tế 
 a) Tỷ lệ vốn đầu tư nội địa trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế 
 Vốn là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng, phát triển kinh tế. Nếu nguồn vốn 
trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế thì có nghĩa là 
những tiến bộ kinh tế xuất phát từ nội lực, từ nguyên nhân bên trong. Ngược lại, nếu tỷ lệ 
tiết kiệm và đầu tư nội địa chiếm tỷ lệ nhỏ thì những tiến bộ kinh tế là do nguồn vốn bên 
ngoài quyết định; nền kinh tế phụ thuộc bên ngoài. 
 b) Tỷ lệ lao động kỹ thuật và lao động quản lý là người bản địa trong lực lượng 
lao động kỹ thuật và lao động quản lý của nền kinh tế 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 9 
 Lao động là một trong bốn nguồn lực cơ bản để tăng trưởng, phát triển kinh tế. 
Trong nguồn lực này, bộ phận lao động kỹ thuật và lao động quản lý có vai trò rất quan 
trọng; quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Hơn nữa, việc đào tạo bộ phận nguồn nhân 
lực này rất tốn kém cần nhiều thời gian và không dễ dàng thực hiện trong điều kiện các 
nước đang phát triển. Tỷ lệ lao động kỹ thuật và lao động quản lý là người bản địa càng 
lớn có nghĩa là những tiến bộ kinh tế càng vững chắc vì xuất phát từ nội lực. 
 c) Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước 
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế 
 Kim ngạch xuất khẩu không chỉ thể hiện quy mô của nền kinh tế, sự phát triển của 
các quan hệ thị trường và mức độ hội nhập kinh tế quốc tế mà còn phản ánh cơ cấu các 
ngành kinh tế. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong 
nước lại đo lường mức độ đóng góp của nhân tố bên trong, của nội lực vào chỉ số đó. 
4. Các thước đo chất lượng cuộc sống 
 a) Thu nhập bình quân trên đầu người 
 Mức thu nhập quyết định việc thoả mãn các nhu cầu vật chất và các nhu cầu tinh 
thần cả về số lượng và chất lượng. Do đó, thu nhập bình quân trên đầu người là thước đo 
hết sức quan trọng đo lường chất lượng cuộc sống của dân cư. 
 b) Số calorie bình quân trên đầu người một ngày 
 Nhu cầu cơ bản hàng đầu của con người là được đảm bảo về dinh dưỡng để tồn tại 
và phát triển. Để đo lường mức độ thoả mãn nhu cầu cơ bản đó, Kinh tế học phát triển sử 
dụng thước đo: Số calorie bình quân trên đầu người một ngày. 
 c) Các chỉ số về giáo dục 
 Các chỉ số về giáo dục bao gồm: tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong các 
độ tuổi, số năm đi học bình quân, số giáo viên/ một nghìn dân, số sinh viên / một nghìn 
dân, số người có trình độ đại học và trên đại học / một nghìn dân... Các chỉ số này phản 
ánh trình độ phát triển giáo dục của một quốc gia và mức độ thụ hưởng các dịch vụ giáo 
dục của dân cư. 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 10 
 d) Các chỉ số về y tế 
 Các chỉ số về y tế bao gồm: tỷ lệ trẻ em trong các độ tuổi, tỷ lệ dân cư được tiêm 
phòng; số bác sĩ / một nghìn dân; số giường bệnh / một nghìn dân... Các chỉ số này phản 
ánh trình độ phát triển y tế của một quốc gia và mức độ thụ hưởng các dịch vụ y tế của 
dân cư. 
 e) Các chỉ số công bằng xã hội 
 Chất lượng cuộc sống không chỉ phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và 
dịch vụ để thỏa mãn các nhu cầu của con người, mà còn phụ thuộc vào sự công bằng 
trong việc phân phối các hàng hóa và dịch vụ đó (hay phân phối thu nhập). Để đo lường 
mức độ công bằng trong phân phối thu nhập, các chỉ số được sử dụng là: hệ số Gini, tỷ lệ 
nghèo đói, hệ số chênh lệch giàu nghèo... . 
 f) Chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI (Human development index) 
 Đây là chỉ số tổng hợp phản ánh trình độ phát triển nguồn nhân lực và mức độ thụ 
hưởng các thành quả kinh tế của dân cư. Chỉ số này bao gồm ba chỉ số nhỏ: tuổi thọ 
trung bình; mức độ phổ cập giáo dục; thu nhập bình quân trên đầu người. Như vậy, HDI 
không chỉ phản ánh mức sống vật chất, mà còn đo lường cả mức sống tinh thần của dân 
cư và do đó, chỉ số này đo lường chính xác hơn chất lượng cuộc sống của dân cư. 
 g) Chỉ số GDI (gender - related development index) 
 Bình đẳng nam nữ không chỉ là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia, mà còn là 
biểu hiện của trình độ phát triển kinh tế. Nền kinh tế phát triển càng cao, điều kiện thực 
hiện bình đẳng nam nữ càng tốt. 
 Để đo lường mức độ bình đẳng nam nữ, người ta sử dụng chỉ số GDI. Chỉ số này 
đo lường mức độ bình đẳng nam nữ trên các phương diện: tạo thu nhập, trình độ học vấn, 
sự tham gia vào các công việc xã hội. Nam giới và nữ giới càng bình đẳng thể hiện chất 
lượng cuộc sống càng cao. 
 Trên đây là những thước đo chất lượng cuộc sống chủ yếu. Ngoài ra, để đo lường 
chất lượng cuộc sống, các thước đo khác có thể được sử dụng như: số đầu 
sách/người/năm, số lần xem phim/ người/năm, tỷ lệ các gia đình có ti vi, tủ lạnh, máy 
giặt, điện thoại ... 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 11 
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA KINH 
TẾ HỌC PHÁT TRIỂN 
 Quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế của các quốc gia chịu tác động của những 
nhân tố nào? Có cách nào phát huy những nhân tố thuận lợi, khắc phục những nhân tố 
ngăn cản, kìm hãm quá trình đó? Những nước đi sau có thể học tập những gì từ kinh 
nghiệm của các nước đi trước và những gì là rập khuôn, giáo điều cần phải né tránh? 
Khoa học kinh tế nghiên cứu những vấn đề đó là Kinh tế học phát triển. 
Kinh tế học phát triển là khoa học kinh tế nghiên cứu quá trình chuyển dịch của các 
nền kinh tế từ trạng thái nghèo nàn lạc hậu, thu nhập thấp sang trạng thái hiện đại, phát 
triển, thu nhập cao. 
 Quá trình chuyển dịch của các nền kinh tế trước hết chịu sự chi phối của các quy 
luật kinh tế; những nguồn lực cơ bản như: vốn, lao động, tài nguyên, khoa học - công 
nghệ; cơ cấu kinh tế, cơ chế kinh tế... Do đó, Kinh tế học phát triển phải sử dụng tri thức 
của nhiều ngành khoa học khác mà trước hết là Kinh tế chính trị, Kinh tế học vi mô, 
Kinh tế học vĩ mô... Bên cạnh những vấn đề chung, quá trình tăng trưởng, phát triển kinh 
tế của các quốc gia lại không giống nhau do những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, 
điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo... Do đó, Kinh tế học phát triển 
còn phải nghiên cứu những đặc điểm riêng này. 
 Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Kinh tế học phát triển trùng hợp với trạng thái 
và xu hướng vận động của nền kinh tế các nước đang phát triển. Vì vậy, có thể nói rằng 
Kinh tế học phát triển trực tiếp nghiên cứu quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế ở các 
nước đang phát triển và có thể coi Kinh tế học phát triển là khoa học kinh tế dành cho 
các nước này. 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 12 
IV. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TĂNG 
TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 
1. Những đặc điểm chung 
a) Mức sống thấp 
Tuy có những khác nhau nhất định nhưng nhìn chung mức sống của dân cư ở các 
nước đang phát triển rất thấp. Trong khi thu nhập bình quân trên đầu người ở các nước 
phát triển hàng chục nghìn đô la Mỹ một năm thì thu nhập bình quân trên đầu người ở 
các nước đang phát triển chỉ là hàng nghìn đô la Mỹ một năm, thậm chí dưới một nghìn 
đô la Mỹ một năm. 
Do mức sống thấp nên tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư thấp. Đầu tư thấp làm cho nền 
kinh tế tăng trưởng chậm, không có điều kiện để cải thiện mức sống. Tỷ lệ tiết kiệm và 
đầu tư thấp vẫn không được cải thiện. Đó là cái vòng luẩn quẩn đầu tiên mà các nước 
đang phát triển gặp phải và rất khó thoát ra. Đây là một trở ngại to lớn với quá trình tăng 
trưởng kinh tế của các nước này. 
b) Năng suất lao động thấp 
Năng suất lao động ở các nước đang phát triển nhìn chung rất thấp. Có nhiều 
nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó: công nghệ lạc hậu; quản lý yếu kém; học vấn, tay 
nghề, sức khoẻ người lao động thấp kém... Năng suất lao động thấp làm cho nền kinh tế 
tăng trưởng chậm, không có điều kiện để đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý, nâng cao 
sức khoẻ, thể lực cho người lao động... Do đó, việc nâng cao năng suất lao động rất khó 
khăn và nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng chậm chạp. 
c) Tỷ lệ thất nghiệp cao 
Tình trạng thất nghiệp ở các nước đang phát triển nhìn chung rất trầm trọng. Đó là 
kết qủa việc dân số tăng nhanh; khả năng tạo việc làm rất hạn chế do thiếu hụt các nguồn 
lực, vướng mắc về cơ chế, chính sách... Điều đó làm cho số người ăn theo rất lớn. Tỷ lệ 
thất nghiệp cao trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng 
chậm. Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, các nước đang phát triển lại không có điều kiện 
tạo việc làm cho người dân. 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 13 
d) Phụ thuộc vào nông nghiệp và xuất khẩu hàng sơ chế 
Đa số các nước đang phát triển là nước nông nghiệp, tức là ở các nước này, nông 
nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu và nông phẩm là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Điều đó 
làm cho nền kinh tế của các nước đang phát triển phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên, năng 
suất lao động và hiệu quả kinh tế rất thấp. Tình trạng đó làm cho quá trình tăng trưởng 
kinh tế ở các nước đang phát triển hết sức khó khăn, tốc độ tăng trưởng chậm chạp. Khi 
nền kinh tế tăng trưởng chậm, các nước đang phát triển không có điều kiện để phát triển 
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nên phải tiếp tục dựa vào nông nghiệp và xuất khẩu 
hàng sơ chế. 
e) Phụ thuộc cao vào các quan hệ quốc tế 
Trong xu thế chung của thời đại, quan hệ kinh tế giữa các quốc gia không ngừng 
mở rộng và phát triển. Việc các nước đang phát triển tham gia vào đời sống kinh tế quốc 
tế là tất yếu khách quan và cần thiết. Nhưng các quan hệ kinh tế quốc tế đã được thiết lập 
theo “trật tự” có lợi cho các nước phát triển, không có lợi cho các nước đang phát triển 
và đang bị chi phối bởi chính sách của các nước phát triển. Do đó, tham gia vào đời sống 
kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí thua thiệt. Vì 
thế, quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước này diễn ra chậm chạp và tiếp tục phụ 
thuộc vào các quan hệ quốc tế. 
Những đặc điểm trên đây làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước đang 
phát triển hiện nay khó khăn hơn rất nhiều so với các nước phát triển trước đây. Các 
nước đang phát triển khó có thể đi những con đường mà các nước phát triển đã đi qua. 
2. Tính đa dạng của các nước đang phát triển 
 Mặc dù có những đặc điểm chung hết sức quan trọng trên đây nhưng sự khác biệt 
(hay tính đa dạng) giữa các nước đang phát triển cũng hết sức to lớn. 
 a) Sự khác biệt về quy mô 
 Các nước đang phát triển có diện tích không giống nhau. Trong khi có những 
quốc gia có diện tích rất lớn như Trung Quốc, ấn Độ thì lại có những quốc gia hay lãnh 
thổ rất nhỏ như Brunây, Butan... Sự khác biệt về quy mô sẽ ảnh hưởng rất khác nhau đến 
quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế. Quy mô lớn có ưu điểm là tài nguyên nhiều, thị 
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người 
Kinh tế phát triển - Bài 1 Trang 14 
trường tiềm năng lớn, ít phụ thuộc hơn vào bên ngoài... nhưng lại có nhược điểm là quản 
lý hành chính khó khăn, phát triển không cân bằng giữa các vùng, sự không đồng nhất về 
dân tộc... Những quốc gia có quy mô nhỏ lại có những thuận lợi và khó khăn hoàn toàn 
khác so với các nước có quy mô lớn. Do đó, quá trình tăng trưởng của các nước cũng 
thuận lợi và khó khăn không giống nhau. 
 b) Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên 
 Ngoài diện tích, những nhân tố khác thuộc về điều kiện tự nhiên của các quốc gia 
cũng không giống nhau. Những quốc gia có nhiều tài nguyên, đất đai màu mỡ, khí hậu 
ôn hoà, ít thiên tai... quá trình tăng trưởng kinh tế sẽ thuận lợi hơn. Ngược lại, những 
quốc gia nghèo tài nguyên, khí hậu khắc nghiệt, nhiều thiên tai... quá trình tăng trưởng 
kinh tế sẽ rất khó khăn. 
 c) Sự khác biệt về con người 
 Mỗi quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển riêng. Điều đó để lại dấu ấn rất 
sâu đậm về nhân cách, lối sống, tác phong lao động, ý chí và đạo đức kinh doanh... 
Những phẩm chất riêng của mỗi dân tộc sẽ có những ảnh hưởng to lớn đến quá trình tăng 
trưởng, phát triển kinh tế. 
 d) Mức độ phụ thuộc vào bên ngoài về kinh tế, chính trị khác nhau 
 Do những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, mức độ phụ thuộc của 
các quốc gia vào các quan hệ quốc tế cũng không giống nhau. Điều đó sẽ làm cho quá 
trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thuận lợi hoặc khó khăn rất khác nhau. 
 Những khác biệt trên đây làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước đang 
phát triển không giống nhau. Đây là điều cần tính đến khi tham khảo kinh nghiệm lẫn 
nhau giữa các nước này. 
 Chúc Anh/Chị học tập tốt! 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_phat_trien_bai_1_nhung_van_de_co_ban_cua.pdf