Giáo trình Kỹ thuật số hóa tài liệu
Tóm tắt Giáo trình Kỹ thuật số hóa tài liệu: ...n giải cao nhất của màn hình ở các tốc độ trên 70 Hz. Các video card tốc độ cao được thiết kế sao cho một chip CPU nằm trên chính bộ điều khiển. Các bộ điều khiển với những chip như vậy, thường do công ty S3 sản xuất, đôi khi được gọi là "bộ tăng tốc đồ hoạ" (graphics accelerator) hay "bo ...chu kỳ làm việc trên 1 triệu ảnh/ tháng, có khả năng in 135 ppm ở mức 600 dpi ($250 000) Máy in- copy - máy in chủ có kết cấu CPU, bộ xử lý ảnh mành (raster image processor- RIP), bộ nhớ hệ thống, có khả năng nối mạng và phần mềm cho phép máy photocopy số chuẩn in ảnh số - độ phân giải t... Ngoài ra, việc phân vùng có thể được làm tự động. Khi phân vùng tự động, tính chính xác có thể bị giảm. Phân vùng bằng tay đảm bảo trình tự đọc đúng, nhưng lại đòi hỏi nhiều thời gian và nhân lực, vì vậy chỉ cần áp dụng khi phân vùng tự động không nhận dạng được những vùng chữ quá nhỏ (ví d...
được sử dụng. Nếu rr = 10, kích thước tư liệu tối đa là 12,5" (1,25 x 10 = 12,5). Nếu rr = 8, tư liệu 10" sẽ vừa khít với khoảng mở trên phim (1,25 x 8). Ngược lại, nếu biết kích thước của tư liệu nguồn và độ mở của camera, ta sẽ tính được tỉ lệ thu nhỏ bằng cách chia một kích thước của tư liệu cho độ mở (ví dụ, chia 12" cho 1,25, ta được tỉ lệ thu nhỏ = 10 (12: 1,25 = 9,6 và được làm tròn lên 10). Tính kích thước tư liệu tối đa (chiều rộng hoặc chiều dài) trên phim Công thức này có thể được tối giản nếu bạn thường xuyên dùng một cỡ phim nhất định, biết độ mở và chuyển về đơn vị in. kích thước tư liệu tối đa trên phim 16mm = 0,59 x rr kích thước tư liệu tối đa trên phim 35mm = 1,25 x rr Lưu ý: Những công thức dùng khi chụp 1 tư liệu trên 1 khung. Nếu 2 ảnh/ 1 khung thì kích thước tư liệu tối đa chỉ còn bằng một nửa. Ngoài ra, giữa 2 ảnh lại thường phải có một khoảng cách. Cuốn RLG Preservation Microfilming Handbook đưa ra *. Các kích thước RLG nhỏ hơn mức trung bình 1", ví dụ: đối với phim 85mm ở rr = 8, kích thước tối đa được đưa ra là 9. Bảng 2. Các kích thước tư liệu đối đa cho các phim 16mm và 35mm với các tỉ lệ thu nhỏ chuẩn RR 16mm 35mm 8 4,7 10 9 5,3 11,25 10 5,9 12,5 11 6,49 13,75 12 7,0 15,0 13 7,67 16,25 14 8,3 17,5 16 8,8 18,8 16 9,4 20 Chương này sẽ khảo sát một giải pháp "lai" nhằm tạo ra cả các vi phim gốc (microfilm masters) và ảnh số để lưu trữ và khai thác được các tư liệu nghiên cứu chất lượng kém. Các phương pháp của trường Đại học Yale (tạo ra ảnh số từ vi phim) và trường Đại học Cornell tạo ra COM (Computer Output Microfilm) từ các ảnh có độ phân giải cao) cũng sẽ được xem xét. Ngoài ra chương này còn bàn đến những vấn đề liên quan đến việc chuẩn bị tư liệu vi phim cho quá trình quét ảnh số. Biện giải cho giải pháp tạo ra cả phim và các phiên bản số Chương 1 và 2 đã bàn về những thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng ảnh số vào thư viện và lưu trữ. Một trong số những khó khăn lớn là thiếu một phương pháp được chấp nhận rộng rãi để khai thác được lâu dài các sưu tập ảnh số. Chỉ khi nào một phương pháp chuẩn được thực hiện cùng với các phương tiện kỹ thuật và giao thức chuẩn để di chuyển dữ liệu số hoá (xem chương 9) thì các thư viện và cơ sở lưu trữ mới dám thực hiện những dự án ảnh số vượt qua mức thí điểm. Năm 1992, uỷ ban Lưu trữ và Khai thác đã xuất bản tập báo cáo gây tiếng vang lớn của Don Willis mang tên "A Hybrid Systems Approach to Preservation of Printed Materials" (Một giải pháp hệ thống lai cho lưu trữ các vật liệu in). Trong báo cáo này, Willis đã biện luận hùng hồn cho giải pháp đồng thời tạo ra cả vi phim (để lưu trữ) và ảnh số (để khai thác). Tác giả bàn về những khả năng lựa chọn khác nhau để tạo ra cả phim lẫn tệp số, lưu ý về các ưu điểm và cân nhắc giữa chụp vào phim trước rồi mới quét hay quét trước rồi tạo ra phim từ ảnh số sau. Giải pháp tạo ra các vi phim gốc cho lưu trữ và tệp số chủ để khai thác có khả năng sẽ trở thành sự chọn lựa của thập niên tới, ít nhất là đối với các vật liệu được sử dụng rộng rãi và các vật liệu được lưu trữ để phân phối. Vấn đề thực sự có thể chỉ là xác định xem trường hợp nào nên sử dụng phương pháp "phim trước" và trường hợp nào nên "quét trước". Nâng cao mức chất lượng ảnh Cho đến nay, ta mới chỉ bàn về chất lượng ảnh dưới góc độ "bắt được đầy đủ thông tin" một cách phù hợp nhất với chi phí và khả năng khai thác. Giải pháp lai đòi hỏi phải đáp ứng được cả những yêu cầu về lưu trữ khi xét đến chất lượng ảnh số. Điều này hoàn toàn không thể thiếu trong một dự án chuyển đổi mà sau đó tư liệu nguồn có thể bị loại bỏ. Các nghiên cứu của Cornell và Yale Là hai dự án đang tiến hành, được tài trợ bởi Quỹ Tài trợ Khoa học nhân văn Quốc gia năm 1994, nhằm kiểm tra và đánh giá quan hệ tương hỗ giữa vi phim và ảnh số. Dự án "Từ số hoá đến COM" của Cornell Cornell đang tiến hành một dự án chứng minh kéo dài 2 năm về chuyển đổi các sách dễ hỏng thành các ảnh số 600 dpi 1-bit chất lượng cao, và tạo ra COM (vi phim ra từ máy tính) đáp ứng được các chuẩn lưu trữ về chất lượng và độ bền được xác định bởi ANSI/AIIM. 1500 tập sách được chọn để quét trong dự án là sách về lịch sử nông nghiệp trong thế kỷ 19 và 20. Tất cả các sách đều được tự quét và các sản phẩm COM được cung cấp cho Image Graphics, Inc. của Shelton, CT. Các ảnh số được đưa vào khai thác trong mạng của trường Đại học Cornell. Dự án nhằm rút ra các đánh giá về chất lượng, chi phí, đồng thời soạn thảo một cuốn sách hướng dẫn về sử dụng loại sản phẩm được gọi là "raster COM" ở các viện nghiên cứu và hãng dịch vụ. Dự án "Open Book" của Yale Trường Đại học Yale đang tiến hành một dự án dài hạn chuyển đổi vi phim thành ảnh số. "Open Book" là một dự án nghiên cứu và chứng minh nhằm nghiên cứu các phương tiện, chi phí và lợi ích của việc số hoá 10 000 tập sách được lưu trữ trong các thư viện - gồm các sưu tập về Lịch sử nước Mỹ, Lịch sử châu Âu và Lịch sử Khoa học Kinh tế Chính trị - đã được chụp vào vi phim theo các chuẩn RLG vào cuối thập kỷ 80. Trong phạm vi dự án này, vi phim của 2000 tập sách đã được quét thành các ảnh số 600 dpi 1-bit. Dự án đã xây dựng một hệ thống sách dẫn phục vụ khai thác ảnh để nghiên cứu và có thể khai thác trực tuyến trên mạng của trường Đại học Yale. Báo cáo kết hợp Cornell và Yale đều nhận thấy tầm quan trọng và khả năng bổ trợ cho nhau của hai dự án. Hai dự án đều có các điểm chung là: tạo ra phim và ảnh số có độ phân giải cao sử dụng cùng một công nghệ để sách dẫn và quản lý cơ sở dữ liệu tăng khả năng sử dụng các nguồn tài liệu cổ qua khai thác trực tuyến dữ liệu tương ứng về nội dung và chi phí, sản xuất, chất lượng- là đối tượng tốt cho các phân tích so sánh Đây là hai dự án có ý nghĩa lớn trong lưu trữ vì mục tiêu của nó là tìm hiểu về tình huống thích hợp để quét trước hay chụp phim trước sao cho đạt được cả hai mục tiêu lưu trữ và tăng cường khai thác qua công nghệ số. Báo cáo kết hợp của Cornell và Yale sẽ được xuất bản vào mùa thu 1996. Phương pháp "phim trước" Phương pháp này có những ưu điểm chính là đáp ứng được cả các mục tiêu lưu trữ trên phim theo những tiêu chuẩn đã được xác định rõ, và xác định được chất lượng ảnh số để đáp ứng được các nhu cầu hiện tại và trong tương lai về khai thác. Tuy nhiên, cần phải luôn lưu ý rằng quét phim sẵn sẽ khó khăn và tốn kém hơn quét nguyên bản bằng giấy hoặc phim được tạo ra chỉ với mục đích số hoá. Ưu điểm có các chuẩn rõ ràng trong0 lưu trữ với vi phim độ phân giải ảnh cao việc tạo ra, quản lý và lưu giữ vi phim lưu trữ nằm trong khả năng của các cơ sở chuyển đổi được các vật liệu cỡ lớn và sách dày có sẵn thiết bị và sử dụng được các cơ sở dịch vụ phim có sẵn (không mất chi phí chuẩn bị và chụp) tốc độ chuyển đổi từ phim nhanh hơn từ giấy (đặc biệt là với sách dày) Hạn chế chất lượng ảnh - ảnh số phải chịu ảnh hưởng của nhiều công đoạn trong chuỗi số hoá hơn: từ giấy - phim - ảnh số - chất lượng bị giảm 2 cấp (xem các ví dụ ở trang sau) - chỉ sử dụng được phim có độ tương phản cao có thang biến đổi hẹp, không phù hợp với những dạng tư liệu không phải là bản văn - được tối thích hoá để quét bản văn, hoặc để quét ảnh minh hoạ; thường phải làm 2 lần để quét được cả hai - chất lượng phim ảnh hưởng đến chất lượng ảnh số (mật độ và rr khác nhau, lệch, xước, chấm bẩn, chỗ nối) - đặc biệt với các phim từ trước năm 1985 - độ phân giải của máy quét phim có thể không đủ để bắt được đầy đủ thông tin cần thiết - máy quét phim có thể không hợp với rr được sử dụng - khi đó các ảnh số sẽ không có kích thước giống nguyên bản chi phí - các ảnh trên phim nằm lệch lạc làm chậm quá trình số hoá - thường xuyên phải điều chỉnh bằng tay các thiết định của quá trình quét (rr, ngưỡng, xén ảnh,...) - sự khác nhau về kích cỡ làm chậm quá trình số hoá hoặc làm giảm độ phân giải - sách dẫn phim tốn thời gian hơn sách dẫn trên tư liệu từ giấy - kết quả thử nghiệm của trường Đại học Yale cho thấy giá quét phim là 0,254$/ ảnh (xem thêm thông tin về nghiên cứu thử nghiệm này ở ) lựa chọn để quét - quét từ phim: quét cuộn phim thay cho quét theo chủ đề có thể ảnh hưởng đến các quét định chọn lọc và chi phí để quét; các sưu tập số theo chủ đề có thể sẽ chậm được hoàn thành vì phải chuyển đổi những cuộn phim có sẵn, đặc biệt trong các dự án được chia thành nhiều phần (Conway, D-Lib Magazine) Thách thức cơ bản của phương pháp này là phải hợp tác được với các hãng sản xuất để phát triển các phương tiện quét phim cũ một cách hiệu quả và tạo ra các phim mới phù hợp với dạng số mà nó sẽ được chuyển đổi thành. Phương pháp quét trước Ưu điểm chính của phương pháp này là tạo ra các ảnh số chất lượng cao trực tiếp từ nguyên bản, sau đó tạo ra vi phim từ các ảnh đó mà chất lượng không bị giảm hoặc giảm dưới mức có thể nhận biết. Với các tính năng chỉnh sửa ảnh, các máy quét giấy ngày nay trở thành một phương tiện hiệu quả để quét bản văn và ảnh minh hoạ trung thực với nguyên bản. Nhờ vậy, cả ảnh số lẫn COM đều đạt được yêu cầu về chất lượng. Tuỳ vào loại tư liệu được chọn để chuyển đổi mà phương pháp quét trước có thể mang lại chất lượng cao - đồng thời với chi phí thấp hơn - để tạo ra cả phim và ảnh số. Tuy nhiên phương pháp này thể hiện mặt hạn chế của nó trong chuyển đổi các tư liệu cỡ lớn hoặc sách dày, đòi hỏi cơ sở kỹ thuật cao để xử lý ảnh (cả quét và tạo ra COM) và sự hợp tác với các hãng sản xuất để phát triển các chuẩn dành cho COM trong lưu trữ. Ưu điểm chất lượng - ảnh số thuộc thế hệ đầu tiên, được quét trực tiếp từ nguyên bản - chất lượng chỉ bị giảm 1 cấp (xem ví dụ tr.179) - chất lượng giảm không đáng kể qua công đoạn từ ảnh số đến COM: giấy - số - phim - chỉ là một cấp giảm chất lượng ảnh - mật độ, kích thước ảnh, vị trí ảnh và khoảng cách trên COM hoàn toàn không thay đổi - có tính năng nửa tông tinh tế nên tạo được màu xám kể cả khi quét đen trắng - tính năng xem trước cho phép điều chỉnh trước khi chuyển đổi và xử lý - sản phẩm bằng giấy có chất lượng cao chi phí - thời gian chuẩn bị ngắn hơn vì tư liệu có thể được quét ngay chứ không phải đợi hoàn chỉnh - có thể sách dẫn trong chính quá trình chuyển đổi - các thủ tục kiểm tra chất lượng đối với COM được thông suốt vì các vấn đề về chất lượng ảnh đã được xác định ngay từ khi bắt đầu quét0 - quét COM: kích thước, vị trí ảnh, khoảng cách và mật độ cố định giúp quá trình chuyển đổi được tiến hành nhanh hơn - chi phí cho quét giấy ở độ phân giải cao giảm nhanh; chi phí để tạo ra COM thấp hơn 0,25$/ khung (2 ảnh) lựa chọn để chuyển đổi - tư liệu có thể được thu thập từ những địa điểm khác nhau, được quét ở những địa điểm khác nhau, sau đó ghi vào COM khi đã được hoàn chỉnh Hạn chế độ phân giải số thấp hơn độ phân giải ảnh chụp trong quá trình quét năng suất chưa có những chuẩn cần thiết cho các quy trình quét lưu trữ và tạo ra COM gồm các chuẩn về thư mục, sản xuất và kỹ thuật; khi ảnh số (không phải giấy) được ghi vào phim, nhìn chung là các yêu cầu về vi phim trong lưu trữ thường không được bảo đảm đầy đủ số lượng hãng kinh doanh COM có độ phân giải cao ít hơn số hãng quét phim quét COM: sử dụng các tỉ lệ thu nhỏ khác nhau có thể gây khó khăn cho việc tái tạo kích thước nguyên bản; độ phân giải thấp gây ra chất lượng ảnh số thấp Thách thức cơ bản khi sử dụng phương pháp này là phải phát triển và áp dụng các chuẩn về chất lượng và độ bền của ảnh, và phải thúc đẩy các hãng dịch vụ COM đưa ra những sản phẩm đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật này. Bước 1: Từ giấy đến vi phim Từ giấy đến ảnh số chuẩn bị thu thập đầy đủ bản sao đo ký tự nhỏ nhất "e" tạo ra các bảng chuẩn và trình tự quét tập hợp các tư liệu có sẵn xác định dpi, số bit; trình tự quét (không bắt buộc) chuẩn bị tài liệu cho cấu trúc sách chuyển đổi phim xem trước, khẳng định, quét; tạo ra các thư mục chứa tệp sách dẫn chuẩn bị chỉ dẫn về trình tự của sưu tập (không bắt buộc) sắp xếp các tệp xử lý tạo ra nhiều thế hệ tạo ra các tệp phái sinh QC mật độ kế, hộp sáng, máy đọc (nếu là phim dương bản) màn hình, giấy hậu xử lý chụp lại, QC, ghép nối quét lại, ghi vào đĩa liệt kê bổ sung danh mục nối với bảng danh mục (không bắt buộc) nhớ theo trình tự ngẫu nhiên trên đĩa Bước_2: Từ vi phim đến số Từ số đến COM chọn mục đích khai thác theo cuộn phim chứ không theo chủ đề mục đích lưu trữ chuẩn bị đánh giá chất lượng phim thu thập tài liệu để quét và sách dẫn xác định dpi, số bit kiểm tra tính thống nhất của dữ liệu; tạo ra các bảng chuẩn; xác định dpi phim, số bit; đặt RR; reel program; kết xuất các ảnh/ target để ghi chúng theo chiều đúng chuyển đổi xem trước, quét, khẳng định; tạo ra các thư mục chứa tệp ghi ảnh trực tiếp vào phim sách dẫn xác định "cấu trúc sách" từ các ảnh số, sau đó sắp xếp các tệp (không cần thiết) xử lý tạo các tệp phái sinh tạo ra một thế hệ QC màn hình, giấy mật độ kế, hộp sáng hậu xử lý quét lại, ghi vào đĩa quét lại, ghi vào COM, ghép nối liệt kê nối với bảng danh mục (không bắt buộc) tạo ra bản vi phim nhớ ngẫu nhiên trên đĩa theo trình tự Chương này sẽ bàn về những vấn đề trong việc duy trì khai thác các sưu tập ảnh số và cung cấp các nguồn tài liệu tham khảo cũng như nghiên cứu sâu hơn. Chúng tôi cũng cố gắng xác định những nguồn tài liệu có thể khai thác trực tuyến, và các URL ở đây đều có từ sau tháng 6-1996. Duy trì khai thác Đã có rất nhiều bài viết và nghiên cứu về "phục hồi" hay "di chuyển" các vật liệu số qua các cấu hình cứng/ mềm và các thế hệ sau này của công nghệ máy tính. Gần đây nhất là báo cáo RLG/CPA Task Force mang tên Preserving Digital Information: Final Report and Recommendations. Báo cáo đưa ra những khái niệm rõ ràng nhất trong vấn đề duy trì khai thác thông tin số. Bản báo cáo phân biệt giữa "phục hồi" và "di chuyển" như sau: Mục đích của di chuyển là để bảo vệ tính thống nhất của các đối tượng số và để đảm bảo khả năng khách hàng có thể gọi, hiển thị và mặt khác sử dụng những đối tượng đó ngay cả khi công nghệ thay đổi hàng ngày. Di chuyển bao gồm phục hồi, cũng là một cách lưu trữ bằng công nghệ số nhưng khác với di chuyển ở chỗ: phục hồi thường không tạo ra được một bản sao chính xác của một cơ sở dữ liệu hoặc một đối tượng thông tin tương tự khi phần cứng và phần mềm thay đổi và vẫn duy trì tính tương thích của đối tượng với thế hệ mới của công nghệ. (Task Force, tr.6) Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng vì nó tập trung vào vào công nghệ duy trì khả năng sử dụng. Để tạo ra những bản sao chính xác từng bit một của thông tin số thì không khó, song đảm bảo sự bền vững của tính chính xác đó thì lại không đơn giản. Cho đến nay, vẫn chưa có một quy trình thống nhất hay một chương trình chính thức nào để di chuyển (và thậm chí để phục hồi) các sưu tập ảnh số. Báo cáo Task Force đề xuất một số bước phát triển khả năng này. Bản báo cáo kêu gọi tạo ra một cơ sở hạ tầng quốc gia như một hệ thống lưu trữ số để chọn và lưu giữ các nguồn thông tin số. Bản báo cáo cũng thúc giục sự hợp tác giữa "những người cầm lái" trong việc tạo ra các bộ phận của cơ sở hạ tầng đó, phát triển các chuẩn và quy định, và dùng đến các rào chắn pháp luật và kinh tế để bảo vệ thông tin số. Nhiều consortia và tổ chức chuyên môn đã bắt đầu tìm cách giải quyết các vấn đề gắn với phát triển và duy trì các sưu tập số trong thư viện. Các cuộc thảo luận về những mô hình khác nhau đang được tiến hành bởi các tổ chức như Liên minh về thông tin mạng (Coalition for Networked Information), Hiệp hội Thư viện nghiên cứu (Association of Reseach Libraries), OCLC và RLG. Quỹ tài trợ Andrew W. Mellon đã tài trợ cho rất nhiều dự án xuất bản các ấn phẩm điện tử và phát triển thư viện số như JSTOR và các dự án Making of America (xem tr.191) nhằm đưa ra các mô hình kinh tế trong việc sử dụng các nguồn tài liệu trực tuyến. Năm 1994, Thư viện Quốc hội đã mở Thư viện số Quốc gia, và đến tháng 5-1995 lại liên kết với 14 thư viện nghiên cứu và cơ sở lưu trữ lớn nhất ở Mỹ nhằm thành lập Liên hiệp Thư viện số Quốc gia (NDLF). Mục đích hàng đầu của Liên hiệp là phát triển các quá trình và các phương tiện tổ chức để phát triển một thư viện số tầm cỡ quốc gia, có khả năng chọn lọc, lưu trữ và đáp ứng được nhu cầu khai thác rộng rãi. Để đạt được các mục tiêu của NDLF, một tổ đặc nhiệm đã được thành lập với nhiệm vụ xác định các điều kiện thủ tục và kỹ thuật đặc biệt cần thiết (liên quan đến khai thác, các quyền hợp pháp, kinh tế và lưu trữ). Báo cáo dự thảo của tổ đặc nhiệm sắp được hoàn chỉnh và sẽ có hiệu lực vào giữa năm 1996 sau khi được uỷ ban Lưu Trữ và Khai thác thông qua. Trên thế giới, các tổ chức văn hoá của Australia, gồm các thư viện hàng đầu ở các trường đại học và quốc gia đã thảo ra "Dự luật về Lưu trữ và Khai thác lâu dài các Đối tượng số ở Australia" và đưa vào mạng của Văn phòng Lưu trữ Quốc gia. Dự luật đưa ra 7 điều cơ bản liên quan đến việc tạo ra thông tin số và đưa chúng vào lưu trữ và khai thác. Một điều đáng chú ý là giả thiết cho rằng không cần phải ghi toàn bộ thông tin số, và chỉ cần bỏ chi phí vào lưu trữ các vật liệu số "khi nào chúng được đánh giá là vẫn còn giá trị và có ý nghĩa". Loại bỏ nguyên bản sau khi quét Mặc dù thông tin số hoá là rất có ý nghĩa nhưng dự án số hoá chỉ nên được thực hiện trong trường hợp lưu trữ thông tin số có lợi hơn lưu trữ chính nguyên bản về mặt tài chính. Số hoá ipso facto đưa ra câu hỏi: liệu có nên thay thế hoàn toàn nguyên bản bằng phiên bản số hoá hay không. Liệu ảnh số có đủ điều kiện để thay thế nguyên bản và nếu có thì khi nào nên loại bỏ nguyên bản? Dự án JSTOR dựa trên giả thiết rằng phiên bản số hoá của các cuốn tạp chí quan trọng hoàn toàn có khả năng thay thế cho các nguyên bản phải lưu trữ trên giá sách. Ngày càng có nhiều cơ sở lưu trữ thương mại và của chính phủ đang thực hiện các dự án sao lưu số hoá các tư liệu cần được lưu trữ lâu dài. Liệu các ảnh số có thể thay thế nguyên bản một cách hiệu quả và có lợi hay không còn là câu hỏi để ngỏ, nhưng các thư viện vẫn nên cân nhắc đến khả năng loại bỏ nguyên bản sau khi nội dung nghiên cứu của chúng đã được cô đọng vào các chữ số nhị phân. Hình 1 giới thiệu với bạn sơ đồ lựa chọn để quyết định xem có nên loại bỏ nguyên bản hay không. Chiến lược lưu trữ trong công nghệ ảnh số Chiến lược này dựa trên giả thiết rằng nguyên bản không cần phải giữ lại và giá trị của sưu tập số được xác định bằng nội dung nghiên cứu của nó chứ không bị hạn chế bằng các quyết định về mặt kỹ thuật tại một thời điểm nào đó của chuỗi số hoá. Chương trình lưu trữ thông tin số bắt đầu bằng việc cân nhắc các vấn đề liên quan đến di chuyển: quét ở mức chất lượng phù hợp với nội dung thông tin của nguyên bản; có kiểm tra chất lượng sử dụng những cấu hình hệ thống tuân theo các chuẩn thông dụng (không độc quyền) và các cấu trúc hệ thống mở sử dụng các dạng ảnh và các kỹ thuật nén không mất được sử dụng rộng rãi tạo ra các bản sao lưu dễ được phục hồi khi cần (đọc được đồng thời bằng máy và người sử dụng) duy trì các điều kiện môi trường lưu trữ phù hợp quản lý chặt chẽ các phương tiện, sao lại dữ liệu khi cần di chuyển dữ liệu và siêu dữ liệu qua các thế hệ công nghệ dự tính trước những tiến bộ về công nghệ trong tương lai Bổ sung kiến thức ấn phẩm này có thể trở nên lỗi thời ngay cả khi nó chưa đến được tay bạn, vì thế những nguồn tư liệu sau đây, được chia thành 10 nhóm, có thể cung cấp cho bạn một nguồn tham khảo nhất định. Chúng tôi đã cố gắng xác định những nguồn tài liệu có thể được cập nhật dễ dàng và thường xuyên, do đó có thể cung cấp cho bạn những thông tin mới nhất.
File đính kèm:
- giao_trinh_ky_thuat_so_hoa_tai_lieu.pdf