Giáo trình Lịch sử các học thuyết pháp lý - Đoàn Minh Duệ (Phần 1)

Tóm tắt Giáo trình Lịch sử các học thuyết pháp lý - Đoàn Minh Duệ (Phần 1): ... bản. Cội nguồn của ý tưởng này là từ Chu lễ. Khổng tử chủ chương “tòng Chu”. Cả đời Khổng tử có một ý nguyện không nguôi là khôi phục lại Chu lê. Khổng tử bảo lâu lâu mà không nằm mơ thấy Chu Công là thấy mình đã suy rồi. Sở dĩ Khổng tử “tòng Chu” là vì chính Chu lễ đã gợi mở cho ông ý tưởn...ực nhà nước. Phương thức vô vi chống lại việc can thiệp quá mức bằng quyền lực nhà nước vào đời sống của nhân dân. Lão tử viết:" Bậc trị nước giỏi nhất thì dân không biết có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu quý và khen, thấp hơn nữa thì dân sợ, thấp nhất thì bị dân khinh lờn." (Thái thượng, b...r.CN) Người thể hiện sự phát triển cao của các tư tưởng chính trị trong thời gian này là Solon. Solon vừa là một nhà thơ, nhà hiền triết, vừa là nhà lập pháp, nhà hoạt động chính trị lỗi lạc của Hy Lạp cổ đại. Vào khoảng năm 594 ông đã được bầu làm thống chế ở Athens và đã tiến hành hàng loạ...

pdf62 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Lịch sử các học thuyết pháp lý - Đoàn Minh Duệ (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Họ có trách nhiệm giữ gìn quốc gia, chống thù trong giặc ngoài. 
3. Nông dân và thợ thủ công là những người mà trong tâm khảm chứa đầy dục 
vọng. Họ sẽ làm việc để phục vụ thành bang. Họ có trách nhiệm bảo đảm mọi nhu cầu 
thiết yếu cho các đẳng cấp trên. 
1 Xem: “Lch s các t tng chính tr”, sđd, tr. 70,. 
2 Xem: “Lch s các t tng chính tr”, Sđd, tr. 72. 
 55
Trong tác phẩm "Luật pháp" viết lúc cuối đời, ông tiếp tục soạn thảo phương án 
cải cách nhà nước và xã hội. ở phương án này, ông vẫn bảo vệ nguyên tắc bất công xã 
hội và quy định phạm vi các quyền chính trị của công dân phụ thuộc vào thành phần 
xã hội của người đó. Xã hội lý tưởng này có thể gọi là "nền cộng hòa thứ hai". Nó 
khác với "nền cộng hòa thứ nhất" (đã mô tả ở trên) ở chỗ nó là chế độ hỗn hợp giữa 
dân chủ và quý tộc chứ không phải giữa quân chủ và quý tộc. Công dân trong nhà 
nước đó gồm khoảng 5.040 người, được chia thành 4 giai cấp: các nhà triết học, chiến 
binh, thường dân và nô lệ. 
3. 6. Aristotle (384- 322tr.CN) 
Aristotle là nhà bách khoa lớn nhất của Hi lạp cổ đại. có những đóng góp chủ yếu 
và rất lớn cho sự phát triển cho nhiều ngành khoa học hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực 
đạo đức học, tâm lý học, sinh vật học, chính trị học . Thời Thượng cổ người ta cho 
rằng ông có hơn 400 tác phẩm. Ngày nay chỉ còn 47 tác phẩm gần trọn vẹn và những 
đoạn trích của ước chừng 100 tác phẩm khác. Tác phẩm của ông thuộc nhiều lĩnh vực: 
Lôgíc học, Triết học, Vật lý học, Đạo đức học v.v.. 
Ông cho rằng, nguồn gốc của kinh tế là các hộ gia đình, nhưng chỉ thế thôi thì 
không đáp ứng được nhu cầu của con người, cần có sự nỗ lực hợp tác của nhiều người 
để xây dựng các hệ thống tưới tiêu, phòng thủ chống lại kẻ địch và v.v.. Làng là sự 
phát triển tự nhiên tiếp theo. Một sự phát triển cuối cùng để đáp ứng các yêu cầu lớn 
hơn của con người là các thành bang. Mục đích của Thành bang là bảo đảm cho công 
dân một cuộc sống tốt. Đời sống chính trị là được sắp đặt cho chất lượng và sự hoàn 
hảo của cuộc sống. Mỗi người phải có một cuộc sống cao thượng biểu hiện bằng sự 
thống nhất giữa hạnh phúc và phẩm hạnh, có hoạt động trí tuệ và có sự thông thái 
được cân đối của một đời sống thường ngày. 
Theo Aristotle, pháp luật thể hiện rõ bản chất của nhà nước vì nhờ có pháp luật 
mà các quyền của công dân được thể hiện và được củng cố. Pháp luật có nhiệm vụ trợ 
giúp các cá nhân thỏa mãn trong các quan hệ nhằm thực hiện quyền của mình. Song 
quyền của con người không thống nhất giữa mọi người mà phải có sự khác biệt giữa 
người giầu và người nghèo. 
Ông chia pháp luật thành hai loại: pháp luật chung (tự nhiên) và pháp luật riêng 
(được xác lập trong mỗi dân tộc). Pháp luật chung thì cao hơn pháp luật riêng. Trong 
pháp luật riêng lại có luật pháp thứ nhất để xây dựng, tổ chức thành bang và các luật 
pháp có tính chất phụ thuộc vào luật pháp thứ nhất. Tổng thể pháp luật tạo thành công 
lý chính trị và công lý chính trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa những người tự do 
và bình đẳng. Aristotle không yêu cầu phải có sự bình đẳng về chính trị giữa các công 
dân. Ông có khuynh hướng đặt đạo đức học phải phục vụ pháp luật, đặt cơ sở đạo đức 
 56
học cho pháp luật. Với mục đích này, ông coi các quy phạm phápluật là "công lý". 
Hành động một cách công bằng tức là hành động theo pháp luật. Theo ông, công lý 
còn là "sự thật". Pháp luật trừu tượng và không thể thâu tóm toàn bộ sự đa dạng của 
hoàn cảnh cụ thể được điều chỉnh. Nếu như trường hợp cá biệt nào đó không nằm 
trong khuôn khổ của quy định chung thì cần phải bổ sung cho chỗ thiếu của pháp luật, 
hơn nữa cần phải bổ sung đúng như người lập pháp sẽ làm, nếu như vào thời điểm 
thông qua họ biết được điều này. Ông viết: "Thực chất của sự thật là như vậy, nó thể 
hiện trong việc điều chỉnh pháp luật khi do tính chất tổng quát của mình không đáp 
ứng được yêu cầu". 
Giống như Plato, Aristotle cũng xây dựng mô hình xã hội lý tưởng. Việc tìm 
kiếm phương án thực hiện một chế độ chính trị hoàn thiện nhất được Aristotle trình 
bày một cách chi tiết trong việc phân loại các nhà nước theo hình thức của chúng. Ông 
đánh giá rằng chính phủ tốt nhất tất yếu không phải là một đối với tất cả các thời đại 
và tất cả các nước. Chính phủ vốn là người chủ cao nhất của thành bang nên việc cai 
trị tất yếu phải thuộc về một cá nhân, hoặc một số người hoặc cuối cùng là về số đông. 
Do đó, tiêu chuẩn đầu tiên để phân biệt các chính phủ là số lượng người cai trị. Theo 
tiêu chuẩn này thì các chính phủ gồm có: Chính phủ của một người, chính phủ của số 
ít và chính phủ của số đông. Tiêu chuẩn thứ hai để phân loại chính phủ là dựa vào chất 
lượng, sinh ra từ bản chất của chính phủ. Theo tiêu chuẩn này thì có hai loại chính 
phủ: Chính phủ thuần túy hay từ cội nguồn và chính phủ bị biến chất hay chệch dòng. 
Chính phủ thuần túy là những chính phủ mà một người, thiểu số hay đa số cai trị theo 
lợi ích chung, hoạt động theo luật pháp. Còn chính phủ biến chất là chính phủ khi 
những người cai trị chỉ vì lợi ích của riêng mình, không còn vì lợi ích chung. Kết hợp 
hai tiêu chuẩn này sẽ có hai loại của ba hình thức. 
1. Các hình thức thuần túy hay chân chính gồm: 
- Vương quyền hay quân chủ: là chính phủ của một người duy nhất nhưng vì lợi 
ích của tất cả mọi người và bị đặt dưới pháp luật. 
- Nền quý tộc trị: là chính phủ của số ít, bắt đầu từ trên hai người đến một nửa 
cộng một, nó là chính phủ của những người tốt nhất. 
- Nền cộng hòa: là chính phủ của số lớn trong lợi ích chung. 
2. Các hình thức biến chất hay sai lệch gồm có: 
- Chế độ độc tài: là chính phủ của một người duy nhất nhưng chỉ vì lợi ích của 
hắn. 
- Chế độ tập đoàn thống trị hay đầu sỏ chính trị: là chính phủ của số ít nhưng chỉ 
vì lợi ích của những người cầm quyền. 
- Chế độ dân chủ trị: là chính phủ của số đông, chống những người giàu. 
 57
Trên cơ sở sơ đồ chung này, ông phân chia các hình thức chính phủ một cách chi 
tiết hơn. Cụ thể: 
1- Các nền quân chủ: đó là chính phủ của một người duy nhất, có thể là vương 
quyền hay quân chủ, song cũng có thể là độc tài theo cách nói của Aristotle. Nó lại 
gồm các dạng như: 
+ Nền quân chủ tuyệt đối tức là tất cả quyền lực thuộc về nhà vua, vua là chủ của 
nhân dân hay của dân tộc. 
+ Nền quân chủ anh hùng: là nền quân chủ của các thời đại và các dân tộc chinh 
chiến. Vua vừa là một võ tướng thế truyền, vừa là giáo chủ, vừa có những chức phận 
về tư pháp và về năng lực chính trị đối nội và đối ngoại. Các chức năng này được trao 
cho nhà vua bằng sự thừa nhận của nhân dân do uy tín tập hợp và lãnh đạo chiến đấu, 
chinh phục được lãnh thổ thành lập thành bang và làm rạng rỡ nó bằng nghệ thuật cai 
trị. Sự thừa nhận này được hiểu như là sự chịu ơn đối với người chủ chiến thắng hay 
người sáng lập thành bang. Và về sau những đặc quyền quân sự, tôn giáo, tư pháp và 
chính trị được truyền kế thế tập cho người kế nghiệp vua. 
+ Người tướng (thủ lĩnh) quân sự trọn đời. Đây là nền quân chủ chỉ được thực 
hiện trong một đời. Vua được trao quyền lực tối cao bằng cách tuyển cử. Người này 
chỉ có quyền lực tối cao trong hai lĩnh vực quân sự và tôn giáo. 
+ Vương quyền hầu như độc tài: là chế độ quá độ nối liền với chế độ độc tài. Sự 
chuyên quyền ở đây đã rất lớn, song vẫn dựa trên cơ sở luật pháp và có sự thế tập. Sự 
tuân theo nó là hợp pháp chứ không phải do bạo lực. 
+ Vương quyền mà nhà vua được lập nên bằng sự lựa chọn tự do chứ không phải 
bằng thế tập. Nhà vua nắm quyền chuyên chế khi thì trọn đời, khi thì chỉ tạm thời, 
trong một thời gian hay trong một hoạt động nhất định. Chẳng hạn nhà vua được ủy 
thác quyền hành trong thời kỳ chiến tranh hay đàn áp những cuộc nổi loạn. 
+ Chế độ độc tài: nó không có sự khác biệt với chế độ quân chủ về số lượng 
người cầm quyền. Về mặt chất lượng nó có đặc trưng là tên độc tài đứng xa mọi trách 
nhiệm và chỉ vì lợi ích của hắn. Hắn không tham khảo ý kiến về các lợi ích của những 
người có tài năng ngang và hơn hắn. Ông phê phán gay gắt chế độ này, song ông cho 
rằng chế độ độc tài có thể đi gần tới chế độ vương quyền khi nó tuân thủ pháp luật hay 
ý chí của các công dân đã xây dựng nên nó. Ngược lại, chế độ vương quyền gần với 
chế độ độc tài khi việc thi hành chức vụ của vua là độc tài và hoàn toàn độc đoán. 
2- Các chế độ tập đoàn thống trị 
Chế độ tập đoàn thống trị là chính phủ của số ít, số các nhà cai trị ở đây biến đổi 
lớn từ một vài người cho đến một số lớn song vẫn là thiểu số trong dân cư của Thành 
 58
bang. Việc phân loại các chế độ tập đoàn thống trị có thể thực hiện một cách tuyệt đối 
theo số lượng. Theo tiêu chuẩn này thì có thể có bốn hình thức: 
+ Chế độ đa độc tài (hay vương triều): là chế độ có sự tích tụ của cải và quyền 
lực vào một vài người. Những tên đầu sỏ cai trị theo thế tập như một tên độc tài tập 
đoàn, nên gọi là đa độc tài. Chế độ này vừa dựa trên nguyên tắc thế tập, vừa là chế độ 
độc đoán của các pháp quan thay thế cho các quy tắc của luật pháp. 
+ Hình thức thứ hai về cơ bản giống hình thức trên, song khác ở chỗ số người 
nắm quyền đông hơn và mặt khác luật pháp can thiệp để điều tiết các chức vụ. Số thuế 
phải đóng cho việc nắm chức vụ trong chính phủ khá cao. 
+ Hình thức thứ ba: số người nắm quyền lực nhiều hơn hình thức trên. Những 
người đầu sỏ này không đủ mạnh để không cần thống trị theo luật, song họ đủ sức để 
giành cho họ những đặc quyền lớn. Chức vụ của họ có được nhờ sự tuyển lựa. 
+ Hình thức thứ tư: số người tham gia vào chính phủ đông hơn vì số thuế phải 
đóng được giảm đi nhiều. Thuế không phải là phương tiện để tham gia vào chính phủ 
mà chỉ để được thừa nhận là công dân đối với những ai có ích cho công việc công 
cộng. Đến lúc đó có thể bỏ chế độ tập đoàn thống trị vì số người tham gia vào việc 
lãnh đạo Thành bang thuộc về đa số những người tự do và lớn tuổi. 
- Các chế độ đầu sỏ trên vừa được xếp loại chủ yếu về phương diện số lượng, 
cũng có thể được xếp loại theo tiêu chuẩn chất lượng. Từ đó chế độ tập đoàn thống trị 
trở thành quý tộc chính trị. Aristotle vạch rõ: "Cái tên đẹp quý tộc trị chỉ được áp dụng 
thực sự với tất cả sự đúng đắn vào nhà nước gồm có những công dân có đức hạnh, 
trong tất cả chiều rộng của khái niệm và không phải chỉ có một vài những đức hạnh 
riêng biệt". 
Chế độ quý tộc trị có thể có 4 hình thức: 
+ Hình thức thứ nhất: về bản chất, quyền lực chỉ thuộc về những người giàu có 
cho nên tiêu chuẩn để lựa chọn các pháp quan là của cải. 
+ Hình thức thứ hai: là chế độ mà trong đó các pháp quan được chọn tùy theo tài 
năng của họ, hoặc ít ra cũng tùy theo của cải. Do vậy, tiêu chuẩn về tài năng và của cải 
ngang bằng nhau. 
+ Hình thức thứ ba: số người có quyền chính trị là số đông và là những người có 
phẩm hạnh, có của cải. 
+ Hình thức thứ tư là nền cộng hòa, tức là hình thức mà Aristotle ưa thích nhất. 
Trong chế độ này, chỉ các công dân sung túc là những người duy nhất quản lý tốt 
Thành bang, vì đồng thời họ là kẻ bảo vệ Thành bang. Sự liên hợp chính trị sẽ là tốt 
nhất khi nó được bao gồm những công dân tốt nhất, đó là những người sống trong sự 
sung túc, không bị cuốn hút bởi của cải và suy nghĩ cũng không bị đè nén bởi sự nghèo 
 59
nàn và lo âu. Các công dân nắm một sở hữu trung bình sẽ ở vào vị trí thích hợp nhất để 
thực hành đức hạnh mà đức hạnh chủ yếu là sự điều độ. Người cần trước hết cho thành 
bang là những người bình đẳng và giống nhau về những phẩm chất trong hoàn cảnh 
trung bình. Những người làm công, các thợ cày, các thợ thủ công và thương nhân đều 
không được tham gia vào việc quản lý, lãnh đạo Thành bang, giống như nô lệ, bởi vì 
họ cũng làm những công việc hèn hạ. 
Tóm lại, như nước cộng hòa của Plato, nước Cộng hòa của Aristotle cũng là một 
nền cộng hòa của các nhà triết học. Song khác với nền thông thái trị của Plato, nền 
cộng hòa của Aristotle là chính phủ của một đội ngũ ưu tú uyên bác và mở rộng của 
các công dân triết gia có được những của cải cần thiết cho đời sống, cho các vấn đề về 
tinh thần cũng như cho những vấn đề về cai trị. Qua đây có thể thấy rõ lập trường giai 
cấp của Aristotle. 
 Như vậy, theo Aristotle, chức năng của Hội nghị nhân dân (mà thực chất là Hội 
nghị công dân) là lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia, 
tương tự như chức năng của các cơ quan lập pháp ngày nay. Ông cho rằng cách thức tổ 
chức và hoạt động của cơ quan này rất khác nhau ở các nhà nước có hình thức khác 
nhau. Trong chế độ dân chủ thì tất cả các quyền trên được trao cho tất cả mọi người vì 
nhân dân nhằm đạt tới sự bình đẳng và được trao bằng nhiều phương pháp. 
Như vậy, theo Aristotle, bộ phận hành pháp của nhà nước bao gồm nhiều chức 
vụ có vị trí, chức năng, thẩm quyền và con đường hình thành khác nhau và những 
người giữ các chức vụ ấy đều có quyền lực riêng, tức là có quyền quản lý một lĩnh vực 
hoạt động nào đó và họ cũng có quyền theo dõi, kiểm tra, giám sát lẫn nhau. 
4. Tư tưởng chính trị - pháp lý thời kỳ văn minh Huy Lạp 
Sự gia tăng của các mâu thuẫn giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ đã làm cho 
các thành bang nhỏ suy yếu, lỗi thời, không còn thực hiện được chức năng là bộ máy 
thống trị của giai cấp chủ nô và trở thành miếng mồi cho những thiết chế hùng mạnh 
hơn. Vào những năm 330tr.CN, Hi Lạp rơi vào sự thống trị của Macedoine. Cuộc 
chiến tranh của hoàng đế Alecxandre Macedoine ở Ba Tư (356 - 323tr.CN) đã mở ra 
thời đại văn minh cổ Hi Lạp. 
4.1. Epicure (341- 270 tr.CN) 
Ông là người theo chủ nghĩa Democrite, một trong những nhà triết học duy vật 
lớn nhất và nhà vô thần thời đại Hi Lạp hóa. Ông xem xét xã hội qua lăng kính đạo 
đức. Epicure tìm thấy mục đích cuộc sống là xa lánh những đau khổ và đạt đến một 
trạng thái tinh thần thanh thản, hoàn toàn xa rời hoạt động chính trị, xa rời đám đông 
và chìm vào yên tĩnh, kín đáo, giữa đám bạn bè "giống như mình". Trung thành với tư 
 60
tưởng của Democrite đã nêu lên là: vạn vật, kể cả linh hồn đều do nguyên tử cấu tạo 
nên, Epicure phản đối thuyết thần quyền và cho rằng con người sung sướng tột độ khi 
giải thoát được cái lo, cái sợ hay là phiền não về cõi đời mà ta không đến được. Được 
như vậy, con người khỏi phải sợ sệt và cúng bái. Tư tưởng chủ yếu của ông là đời sống 
con người chớ có lo âu, bận rộn, tìm kiếm cái gì cho nhọc trí, mệt xác, cứ sống đơn 
giản, có thái độ điều hòa theo thiên nhiên là sung sướng. 
Theo ông, nhà nước và pháp luật có nguồn gốc từ thỏa thuận xã hội được thống 
nhất với mục đích ngăn chặn tác hại có thể nảy sinh trong mối quan hệ giữa mọi 
người. Ông cho rằng: "Những người lần đầu tiên đưa ra luật pháp, thiết lập phương 
thức cầm quyền và chế độ hành chính tại các đô thị, qua đó trợ giúp việc đảm bảo an 
ninh nhất cho đời sống. Bởi lẽ nếu như ai đấy xóa bỏ mọi thứ đó thì chúng ta sẽ lại 
phải sống như dã thú..."1. Các đạo luật sẽ không còn tính công lí nếu như nó sinh ra 
không vì lợi ích giao tiếp chung giữa mọi người. Sự vi phạm pháp luật sẽ phải trả giá 
do "những người trừng phạt" thực hiện. Epicure kêu gọi sự tuân thủ luật pháp và theo 
ông, "pháp luật được xác lập dành cho những người thông thái không phải để cho họ 
không làm điều ác, mà để tránh cho họ không được làm điều ác"2. 
Epicure là người đã bác bỏ khuynh hướng thống trị của bất kì một ai đối với quần 
chúng và mơ ước giải phóng Hi Lạp khỏi ách thống trị của Macedoine. Ông cũng lên 
án sự đối xử dã man đối với nô lệ và thừa nhận sự bình đẳng đối với phụ nữ như một 
nhà tư tưởng của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ ôn hòa. 
4.2. Trường phái khắc kỉ 
Trường phái khắc kỉ do Zenon (336 – 264 tr.CN) sáng lập ở Athens vào khoảng 
năm 300tr.CN. Sau đó Khorixip (280 - 207tr.CN) được coi là người thứ hai sáng lập 
trường phái này. 
Cơ sở triết học của học thuyết về đạo đức xã hội của những người khắc kỉ là học 
thuyết về sự thống nhất thế giới do trí tuệ toàn cầu điều khiển. Cá nhân chỉ là hạt bụi 
của cái chính thể thần linh. Những khác biệt về đẳng cấp và dân tộc giữa người và 
người là huyền bí đối với vũ trụ. Bất cứ ai cũng đều có thể hạnh phúc (nô lệ hay người 
tự do, kẻ man rợ hay người văn minh cũng vậy), nếu như người đó tuân theo định 
mệnh bằng lòng với vị trí của mình trong cuộc sống, thờ ơ với những gì diễn ra xung 
quanh. Hạnh phúc đến với các nhà thông thái sẽ có thể đảm bảo cho sự tồn tại của nhà 
nước - một thể chế không phải là nhân tạo, không phải là kết quả thỏa thuận của toàn 
bộ ý chí con người mà là sản phẩm của tự nhiên. 
1 Xem: “Lch s các hc thuyt chính tr trên th gii” – Sd, trang 82. 
2 Xem: “Lch s các hc thuyt chính tr trên th gii” – Sd, trang 83. 
 61
Đạo đức học của các nhà theo chủ nghĩa khắc kỉ rất phức tạp và đầy mâu thuẫn. 
Kết luận về sự bình đẳng tinh thần và tình hữu ái của tất cả mọi người như con đẻ của 
một vị thần chung đã mang trong lòng mình ngòi nổ to lớn và khuyến khích trào lưu 
cách mạng của nền dân chủ Hi Lạp, của những người được trả tự do, của những người 
nô lệ. Những lời kêu gọi đề cao kiểu sống lãnh đạm và tuân thủ kiểu sống đó, những 
khẩu hiệu kêu gọi các vị quân chủ phục vụ cho các thần dân được phát ra. Tư tưởng 
phái khắc kỉ đã có lợi cho các ông hoàng Macedoine và tạo cơ sở lí luận cho chính 
sách xâm lược của La Mã. Phù hợp với điều đó, những tư tưởng cách tân của chủ 
nghĩa khắc kỉ đã đặt nền móng cho tín ngưỡng Thiên chúa giáo. 
4.3. Polybe (201- 120 tr.CN) 
Các quan điểm của các nhà khắc kỉ đã để lại dấu ấn khá rõ trong tư tưởng của 
Polybe - đại diện xuất sắc của tư tưởng chính trị Hi Lạp nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn 
đến tư tưởng về nhà nước và pháp luật của La Mã, đến mức đã có người gọi ông là 
"người Hi Lạp latinh hóa". Trong công trình nổi tiếng "Lịch sử trong bốn mươi quyển" 
của mình, ông đã luận giải những nguyên nhân, hoàn cảnh lịch sử đưa tới việc La Mã 
chinh phục các dân tộc khác đồng thời dành một phần (Quyển VI) để phân tích các vấn 
đề về nhà nước và pháp luật. 
Ông có vai trò chính trị lớn trong cuộc đối địch giữa La Mã và Macedoine (171 - 
168tr.CN) và chỉ huy đội kị binh của liên minh Archenne. Là đảng viên đảng quý tộc, 
ông bị những người dân chủ tận tâm với sự liên minh hoàn toàn với La Mã đưa đi làm 
con tin đầu tiên. 
Polybe cho rằng sự hình thành, phát triển của nhà nước là quá trình tự nhiên 
giống như tiến trình của các thực thể sống. Các quy luật điều khiển quá trình này do 
chính tự nhiên sinh ra, chúng do số mệnh định sẵn và không phụ thuộc vào ý chí của 
con người. Nhưng Polybe không hiểu sự phát triển như là sự vận động về phía trước 
và lên cao theo hình xoáy ốc mà chỉ coi nó là tổng thể các chu kì đơn điệu, lặp đi lặp 
lại, tức là sự chuyển động vô tận theo đường tròn bao gồm các giai đoạn nảy sinh, 
trưởng thành, suy sụp và tiêu vong. Từ đó ông kết luận rằng sự phát triển của nhà nước 
là "trật tự tự nhiên mà trong đó các hình thức cầm quyền được thay đổi tương ứng với 
nó, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và lại trở về khởi thủy". 
Polybe lặp lại việc xếp loại truyền thống của Aristotle về các chính phủ. Ông 
chia chúng thành quân chủ chính trị, quý tộc chính trị và dân chủ chính trị, cộng hòa là 
hình thức lí tưởng của Aristotle còn với Polybe thì nó mang diện mạo hình ảnh lịch sử. 
Một giá trị khác của chế độ hỗn hợp là kháng cự được sự diễn biến nguy hại đi 
đến suy đồi của các chế độ khác nhau. Đối với Polybe cũng như đối với tất cả những 
người cổ đại, "trạng thái trì trệ" là không thể chấp nhận được. Theo khái niệm cơ bản 
 62
của triết học Hi Lạp mà Heraclite đã nêu ra là "mọi cái trôi qua và không gì dừng lại" 
thì mọi hiến pháp, dù nó tốt sẽ có xu hướng suy đồi, biến chất, đi đến diệt vong vì rằng 
nó có một cách tự nhiên trong nó nguyên tắc của sự diệt vong. Theo Polybe, chu kì 
phát triển của nhà nước bao gồm sự luân phiên của các hình thức nhà nước (tương tự 
Plato và Aristotle). 
CÂU HỞI ÔN TẬP CHƯƠNG 3: 
1. Nội dung tưởng chính trị của Heraclit? 
2. Đánh giá một số giá trị tiêu biểu của Tư tưởng chính trị Hy Lap cổ đại? 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_lich_su_cac_hoc_thuyet_phap_ly_doan_minh_due.pdf
Ebook liên quan