Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật - Phần 2

Tóm tắt Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật - Phần 2: ...quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả cao. Do chức năng tổ chức và quản lý kinh tế có tính chất phức tạp và phạm vi rộng, nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý hành chính- kinh tế. Quá trình này chỉ...ất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp luật vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài. Những tàn dư của tư tưởng quá khứ được giữ lại, nhất là trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi thói quen và truyền thống còn đóng vai trò to lớn. Ví dụ những biểu hiện của tâm lý pháp luật...ới các quan hệ xã hội nhất định và biến chúng thành quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật nảy sinh giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau. Như vậy, quy phạm pháp luật và năng lực chủ thể là 2 điều kiện chung cho sự xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, sự tác động c...

pdf82 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật - Phần 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chống vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
4. Không tách rời công tác pháp chế với văn hoá và văn hoá pháp lý
Trình độ văn hoá nói chung và trình độ văn hoá pháp lý nói riêng của các chủ thể 
pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trình 
độ văn hoá của công chúng càng cao thì pháp chế càng được củng cố mạnh mẽ. Vì vậy, 
một yêu cầu đặt ra là phải chú trọng gắn công tác pháp chế với việc nâng cao trình độ văn 
hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng của cán bộ, công chức nhà nước, nhân viên 
các tổ chức xã hội và mọi công dân.
III. TRẬT TỰ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các mối quan hệ xã hội trong 
đó con người thực hiện các hành vi hợp pháp. Về thực chất, trong mọi xã hội, trật tự pháp 
luật là cái đích mà các nhà nước hướng tới. Để có trật tự pháp luật, về phía cá nhân, đòi 
hỏi con người phải thể hiện hành vi của mình một cách hợp pháp. Về phía các tổ chức 
nhà nước và xã hội, trật tự pháp luật được bảo đảm khi nhà nước thực hiện đúng thẩm 
quyền quy định trong pháp luật, đối với các tổ chức xã hội, trong tổ chức và hoạt động 
bảo đảm nguyên tắc hợp pháp, phù hợp với lợi ích của các thành viên và toàn xã hội.
Trật tự pháp luật và pháp chế là hai khái niệm gần gũi với nhau, tuy nhiên nó vẫn 
là hai khái niệm khác nhau mặc dù nó đều có các điểm chung: đều mang bản chất giai 
cấp và đều đối lập với tình trạng tuỳ tiện, không thực hiện pháp luật. Ngoài điểm đồng 
nhất, pháp chế và trật tự pháp luật có những đặc thù riêng của mình, nếu pháp chế là sự 
đòi hỏi phải tôn trọng, thực hiện một cách nghiêm ngặt đối với các quy định của pháp 
luật của các công dân, các nhà chức trách, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, 
138
còn trật tự pháp luật là một hệ thống các mối quan hệ xã hội trong đó các chủ thể pháp 
luật thực hiện các hành vi hợp pháp khi tham gia vào các quan hệ.
IV. VẤN ĐỀ TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa 
ở nước ta đang là vấn đề cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, mở rộng 
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải áp dụng nhiều biện 
pháp đồng bộ trong đó có các biện pháp cơ bản như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng 
đối với công tác pháp chế; Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật 
xã hội chủ nghĩa; Tăng cường công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật; Tăng 
cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp 
luật.
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế
Đây là biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong quá trình củng cố và tăng 
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc Đảng 
đề ra đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề ra chiến 
lược toàn diện về công tác pháp chế. Trong từng thời kỳ Đảng đề ra những phương 
hướng về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức pháp 
luật của nhân dân, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường cho các cơ quan làm 
công tác pháp luật, pháp chế, tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng tham gia tích cực, 
chống vi phạm pháp luật ... đó là sự lãnh đạo toàn diện, có ý nghĩa quyết định đối với kết 
quả của công tác pháp chế.
2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ 
nghĩa
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa, muốn tăng 
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật, phải có một hệ thống 
pháp luật tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Để có được một hệ thống pháp luật như vậy, 
phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên tiến hành hệ thống hoá pháp luật 
để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp, mâu thuẫn, lạc hậu, bổ sung 
những thiếu sót trong hệ thống pháp luật; kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của 
Đảng thành pháp luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể, 
đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật để đảm bảo 
cho hệ thống các văn bản pháp luật được mang tính khoa học và đạt trình độ kỹ thuật cao, 
mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham gia vào việc xây dựng pháp luật.
3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật
Đây là một biện pháp lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm bảo đảm cho pháp 
luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, cụ thể là:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công tác giải thích 
pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định pháp luật làm cơ sở cho 
việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật đạt kết quả tốt.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm nâng cao 
trình độ nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của nhân dân.
- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ, phẩm chất 
chính trị và khả năng công tác để xắp xếp vào các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp 
chế.
139
- Chú trọng công tác tổ chức, kiện toàn các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp 
chế. Xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, cải tiến các 
phương pháp chỉ đạo và thực hiện, đồng thời tạo điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho 
hoạt động của các cơ quan đó đạt hiệu quả cao.
- Trong từng thời kỳ cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để thấy rõ những 
thiếu sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đề ra những phương 
hướng và biện pháp tăng cường hiệu lực công tác đó.
4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi 
vi phạm pháp luật
Biện pháp này nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi 
người đều bình đẳng trước pháp luật. Biện pháp này đòi hỏi trước hết phải thường xuyên 
tổ chức việc kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là hệ thống cơ quan làm 
công tác bảo vệ pháp chế để phát hiện những sai sót, lệch lạc, kịp thời uốn nắn, rút kinh 
nghiệm bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng theo đúng nguyên tắc và 
yêu cầu của pháp luật.
Xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức theo nguyên 
tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Đối với cơ quan bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có phương pháp 
hoạt động thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu 
cực, vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh, chính xác, đúng quy 
định của pháp luật. 
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích khái niệm pháp chế.
2. Trình bày mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế.
3. Những bảo đảm cho nền pháp chế xã hội chủ nghĩa?
4. Các yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa?
5. Các biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa?
140
141
CHƯƠNG XXI
ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT, CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
I. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật
 Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội 
khách quan. Điều này có nghĩa là pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội bằng cách ghi 
nhận, củng cố, bảo vệ chúng, cũng như tạo khả năng, điều kiện, khuôn khổ cho những 
quan hệ xã hội phát sinh, phát triển phù hợp với dự kiến của các nhà làm luật. 
Pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội theo 2 hướng: Thứ nhất, đối với những 
quan hệ xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội thì pháp luật bảo 
vệ và định hướng cho sự phát triển của chúng. Thứ hai, đối với những quan hệ mâu thuẫn 
với yêu cầu khách quan của xã hội và lợi ích của nhân dân thì pháp luật tạo ra những biện 
pháp ngăn cản, hạn chế sự phát triển của chúng.
Pháp luật không thể trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt sự tồn tại của các 
quan hệ xã hội bởi các quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan. Pháp luật chỉ có thể 
đưa các quan hệ xã hội vào trật tự, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Pháp luật hướng tới những quan hệ xã hội bằng các hình thức: tác động có tính tư 
tưởng, giáo dục mang đến cho con người thông tin và nâng cao ý thức của họ đối với 
pháp luật và điều chỉnh có tính quy phạm và tính bắt buộc chung.
Như vậy, cần phân biệt khái niệm tác động pháp luật và điều chỉnh pháp luật. 
Điều chỉnh pháp luật cũng là sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội, nhưng 
khác với khái niệm tác động pháp luật theo nghĩa rộng, điều chỉnh pháp luật là việc dùng 
pháp luật với tính cách là yếu tố có tính quy phạm và tính bắt buộc chung để điều chỉnh 
các quan hệ xã hội. Có thể nói, điều chỉnh pháp luật là tác động pháp luật hiểu theo nghĩa 
hẹp.
Sự điều chỉnh pháp luật có những đặc điểm sau đây:
- Điều chỉnh pháp luật là một trong những loại hình của điều chỉnh xã hội;
- Điều chỉnh pháp luật là điều chỉnh có tính định hướng, tính tổ chức và tính hiệu 
quả;
- Điều chỉnh pháp luật là sự điều chỉnh được thực hiện thông qua một hệ thống 
các phương tiện pháp lý cơ bản, đặc thù: quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật 
mang tính cá biệt, cụ thể, quan hệ pháp luật, hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Tóm lại, điều chỉnh pháp luật được hiểu là việc Nhà nước dựa vào pháp luật, sử 
dụng một loạt các phương tiện pháp lý đặc thù (quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng 
pháp luật, quan hệ pháp luật, hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) để điều chỉnh 
các quan hệ xã hội, tác động đến quan hệ xã hội theo phương hướng nhất định.
2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh pháp luật
a. Đối tượng điều chỉnh pháp luật
Đối tượng điều chỉnh pháp luật là các quan hệ xã hội nhưng không phải pháp luật 
điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội cụ thể mà chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội quan 
trọng, cơ bản, điển hình liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân 
con người.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật còn có thể là những quan hệ xã hội phái sinh, 
nghĩa là chúng chỉ xuất hiện khi có quy phạm pháp luật, ví dụ: các quan hệ tố tụng, các 
quan hệ bảo hiểm...
142
Phạm vi điều chỉnh của pháp luật có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể, phụ 
thuộc vào ý chí chủ quan của Nhà nước và các điều kiện chính trị, xã hội khác.
Khả năng (mức độ) và phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật chịu 
ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản như :
- Tính chất của các quan hệ xã hội;
- Điều kiện về kinh tế, văn hoá, xã hội;
- Ý thức pháp luật của nhân dân, của cán bộ, công chức nhà nước, của những nhà 
chính trị;
- Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
Xác định phạm vi đối tượng điều chỉnh pháp luật là xác định ranh giới của việc sử 
dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác định ranh giới của sự “can 
thiệp công khai” của Nhà nước thông qua pháp luật vào sự phát triển của các quan hệ xã 
hội.
b. Phương pháp điều chỉnh pháp luật
Phương pháp điều chỉnh pháp luật là cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ 
xã hội để đạt được mục đích đề ra. Nội dung của phương pháp điều chỉnh pháp luật được 
quy định bởi đặc điểm nội dung, tính chất của quan hệ xã hội và bởi vai trò của chủ thể 
điều chỉnh.
Phương pháp điều chỉnh pháp luật có những đặc điểm là: Do Nhà nước (thông 
qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) đặt ra; được ghi nhận trong quy phạm pháp 
luật; được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở có thể áp dụng các biện pháp cưỡng 
chế nhà nước trong những trường hợp cần thiết.
Các hình thức tác động lên các quan hệ xã hội có thể là: cấm đoán (không cho 
pháp tiến hành một số hoạt động nhất định), bắt buộc (buộc phải thực hiệnmột số hoạt 
động nhất định) hoặc cho phép (được phép hoạt động trong một phạm vi nhất định).
Mỗi ngành luật có những phương pháp điều chỉnh riêng. Lý do của sự khác biệt 
đó là vì có sự khác nhau về:
- Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
- Trật tự hình thành quan hệ pháp luật.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật.
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Thông thường, các phương pháp điều chỉnh pháp luật được chia thành 2 loại đặc 
trưng là phương pháp mệnh lệnh- quyền uy và phương pháp tự định đoạt (thoả thuận). 
Phương pháp mệnh lệnh dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà trong đó một bên 
tham gia là nhà nước (cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Phương pháp tự định đoạt 
thường dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà các bên tham gia quan hệ có địa vị 
bình đẳng với nhau. 
3. Các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật
Sự điều chỉnh pháp luật đó là quá trình phản ánh sự kế tiếp nhau của sự điều 
chỉnh pháp luật. Ở đây chỉ nêu ra một số giai đoạn cơ bản có liên quan tới quá trình điều 
chỉnh pháp luật. Cần chú ý là việc phân chia này chỉ mang tính tương đối.
Giai đoạn thứ nhất, quá trình điều chỉnh pháp luật bắt đầu đưa ra các quy phạm 
pháp luật. Các quy phạm bắt con người phải hành động phù hợp với lợi ích của sự phát 
triển xã hội. Đó là giai đoạn quy định, hay nói cách khác là giai đoạn sáng tạo, hình thành 
các quy phạm pháp luật.
143
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn tác động của các quy phạm pháp luật, trong giai 
đoạn áp dụng các quy phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ 
pháp luật xuất hiện. Sự kiện pháp lý là yếu tố liên kết quy phạm pháp luật với hậu quả 
pháp lý xảy ra, là điều kiện cần thiết của giai đoạn này.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, nghĩa 
là các quyền và nghĩa vụ được thực hiện trong đời sống xã hội bởi cá chủ thể của quan hệ 
pháp luật.
Áp dụng các quy phạm pháp luật là giai đoạn có thể xảy ra của sự điều chỉnh pháp 
luật. Thực chất của giai đoạn này là ở chỗ ra các quyết định mang tính chất quyền lực nhà 
nước, đảm bảo cho sự xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật. Nhờ giai 
đoạn áp dụng pháp luật mà Nhà nước đưa vào quá trình điều chỉnh pháp luật các quan hệ 
cụ thể, kiểm tra sự xuất hiện và thực hiện nó.
Quá trình điều chỉnh pháp luật nói trên có thể diễn tả dưới dạng sơ đồ sau:
Sự thiết chế quy 
phạm pháp luật
Xuất hiện quyền và 
nghĩa vụ pháp lý Thực hiện quyền 
và nghĩa vụ pháp 
lý
Áp dụng quy phạm 
pháp luật (sự kiện pháp 
lý là điều kiện cần có 
cho sự kết nối)
 II. CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
Cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống thống nhất các phương tiện pháp luật, 
nhờ đó mà thực hiện được sự điều chỉnh có kết quả các quan hệ xã hội phù hợp với các 
mục đích của xã hội.
Hệ thống các phương tiện pháp lý mà thông qua đó pháp luật điều chỉnh các quan 
hệ xã hội bao gồm: Các quy phạm pháp luật, các văn bản cá biệt, các quan hệ pháp luật, 
các hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý.
1. Quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, do các cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền ban hành. Nhiệm vụ của quy phạm pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là:
- Xác định những tổ chức, cá nhân (gọi chung là chủ thể) chịu sự tác động của 
quy phạm pháp luật;
- Xác định những hoàn cảnh, điều kiện mà trong đó các chủ thể cần phải chỉ đạo 
hành vi của mình theo quy định của nhà nước;
- Nêu cách xử sự bằng cách chỉ ra các quyền, nghĩa vụ của chủ thể.
2. Văn bản áp dụng pháp luật
Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, văn bản cá biệt có vai trò cụ thể hoá những 
quy tắc xử sự chung thành những quy tắc xử sự cụ thể cho những chủ thể xác định, ghi 
nhận quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Các quyền và nghĩa vụ mà văn bản cá biệt đưa ra 
cho các chủ thể cụ thể không thể khác biệt về nội dung so với những quy định trong quy 
phạm pháp luật.
Văn bản áp dụng pháp luật có thể tham gia vào cơ chế điều chỉnh pháp luật ở hai 
giai đoạn khác nhau. 
- Giai đoạn đầu để cá biệt hoá quy tắc xử sự chung thành quy tắc xử sự cá biệt khi 
quy phạm pháp luật quy định (đòi hỏi) là sự cá biệt hoá các quyền và nghĩa vụ đó phải do 
144
cơ quan nhà nước có thẩm quyền (những người có trách nhiệm, quyền hạn) tiến hành chứ 
không phải do những chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó tiến hành.
- Giai đoạn sau nó được dùng để cá biệt hoá các biện pháp tác động của nhà nước 
mà bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy định đối với các chủ thể pháp luật.
Tuy nhiên, cần chú ý là trong một số trường hợp, sự cá biệt hoá các quyền và 
nghĩa vụ pháp lý không nhất thiết phải thực hiện bằng văn bản cá biệt, ví dụ: một số quy 
định trong Luật Hôn nhân và Gia đình.
Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể chỉ phát sinh, thay đổi, chấm dứt khi 
trong thực tế cuộc sống xuất hiện những điều kiện, hoàn cảnh, sự kiện cụ thể mà chúng 
đã được nêu ra trong các quy phạm pháp luật (đó là sự kiện pháp lý). Sự kiện pháp lý 
trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là chiếc cầu nối giữa ý chí nhà nước (thể hiện trong quy 
phạm pháp luật ) và quan hệ xã hội.
3. Quan hệ pháp luật
Dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội đã làm cho quan hệ xã hội 
mang tính chất pháp lý, nghĩa là tạo ra cho các bên tham gia quan hệ xã hội đó có các 
quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Quan hệ pháp luật là một yếu tố cần 
thiếtcủa cơ chế điều chỉnh pháp luật, nhờ đó mà quy phạm pháp luật được thực hiện trong 
cuộc sống. Quan hệ pháp luật phát sinh với nội dung là quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp 
lý đối với các chủ thể cụ thể đã có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, để cho quyền và 
nghĩa vụ đó được thực hiện phải thông qua hành vi thực tế thực hiện các quyền và nghĩa 
vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật. Như vậy, bằng hành vi thực tế của mình các chủ thể 
pháp luật đã làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống hiện thực.
4. Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp 
luật. Nó là cơ sở tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình điều chỉnh pháp luật để việc điều 
chỉnh pháp luật được tiến hành đúng đắn, có cơ sở khoa học và đạt hiệu quả cao.
5. Pháp chế
Pháp chế là một nguyên tắc cơ bản của quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó đòi hỏi 
mọi hoạt động điều chỉnh pháp luật phải phù hợp với pháp luật. Chỉ quản lý xã hội bằng 
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa mới xoá bỏ được sự 
quản lý dựa trên ý chí chủ quan, tuỳ tiện, xoá bỏ được sự quản lý tuỳ thuộc vào các tình 
tiết ngẫu nhiên, vào tâm trạng và tính cách của nhà quản lý, làm cho các yếu tố của cơ 
chế điều chỉnh pháp luật có thể liên kết được trong một thể thống nhất, hoạt động nhịp 
nhàng và đồng bộ nhằm đạt được các mục đích đặt ra.
Tóm lại, cơ chế điều chỉnh pháp luật là một hệ thống phức tạp các phương tiện, 
quy trình pháp lý ràng buộc lẫn nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau. Chính vì thế, hiệu 
quả điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào tất cả mọi yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật 
chứ không riêng gì một yếu tố nào, nếu trong quá trình điều chỉnh pháp luật, một yếu tố 
nào đó không được đảm bảo sẽ dẫn đến nguy cơ mục đích điều chỉnh pháp luật sẽ không 
đạt được. 
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật?
2. Yếu tố quy định mức độ và phạm vi điều chỉnh pháp luật?
145
3. Quá trình điều chỉnh pháp luật?
4. Khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật?
146
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 
Hà Nội, 2005. 
2. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư 
pháp, Hà Nội - 2007. 
3. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia 
Hồ Chí Minh, NXB lý luận chính trị, Hà Nội - 2004. 
4. Vũ Hồng Anh, Tổ chức và hoạt động của nghị viện một số nước trên thế giới, 
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001. 
5. Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, NXB Tư pháp, Hà 
Nội - 2006. 
6. Montesquieu, Tinh thần pháp luật, người dịch - Hoàng Thanh Đạm, NXB Giáo 
dục, Hà Nội -1996. 
7. Lê Minh Tâm, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Những vấn 
đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội - 2003. 
8. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992. 
9. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc các kỳ VI, VII, VIII, IX, X. 
147

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ly_luan_ve_nha_nuoc_va_phap_luat_phan_2.pdf