Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật - Phần 2
Tóm tắt Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật - Phần 2: ...quá trình phát triển đúng hướng của nền kinh tế và mang lại hiệu quả cao. Do chức năng tổ chức và quản lý kinh tế có tính chất phức tạp và phạm vi rộng, nhà nước không thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế cụ thể mà chỉ thực hiện việc quản lý hành chính- kinh tế. Quá trình này chỉ...ất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp luật vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài. Những tàn dư của tư tưởng quá khứ được giữ lại, nhất là trong lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi thói quen và truyền thống còn đóng vai trò to lớn. Ví dụ những biểu hiện của tâm lý pháp luật...ới các quan hệ xã hội nhất định và biến chúng thành quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật nảy sinh giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau. Như vậy, quy phạm pháp luật và năng lực chủ thể là 2 điều kiện chung cho sự xuất hiện, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, sự tác động c...
chống vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. 4. Không tách rời công tác pháp chế với văn hoá và văn hoá pháp lý Trình độ văn hoá nói chung và trình độ văn hoá pháp lý nói riêng của các chủ thể pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trình độ văn hoá của công chúng càng cao thì pháp chế càng được củng cố mạnh mẽ. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra là phải chú trọng gắn công tác pháp chế với việc nâng cao trình độ văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng của cán bộ, công chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân. III. TRẬT TỰ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa là một hệ thống các mối quan hệ xã hội trong đó con người thực hiện các hành vi hợp pháp. Về thực chất, trong mọi xã hội, trật tự pháp luật là cái đích mà các nhà nước hướng tới. Để có trật tự pháp luật, về phía cá nhân, đòi hỏi con người phải thể hiện hành vi của mình một cách hợp pháp. Về phía các tổ chức nhà nước và xã hội, trật tự pháp luật được bảo đảm khi nhà nước thực hiện đúng thẩm quyền quy định trong pháp luật, đối với các tổ chức xã hội, trong tổ chức và hoạt động bảo đảm nguyên tắc hợp pháp, phù hợp với lợi ích của các thành viên và toàn xã hội. Trật tự pháp luật và pháp chế là hai khái niệm gần gũi với nhau, tuy nhiên nó vẫn là hai khái niệm khác nhau mặc dù nó đều có các điểm chung: đều mang bản chất giai cấp và đều đối lập với tình trạng tuỳ tiện, không thực hiện pháp luật. Ngoài điểm đồng nhất, pháp chế và trật tự pháp luật có những đặc thù riêng của mình, nếu pháp chế là sự đòi hỏi phải tôn trọng, thực hiện một cách nghiêm ngặt đối với các quy định của pháp luật của các công dân, các nhà chức trách, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, 138 còn trật tự pháp luật là một hệ thống các mối quan hệ xã hội trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện các hành vi hợp pháp khi tham gia vào các quan hệ. IV. VẤN ĐỀ TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Trong giai đoạn hiện nay vấn đề củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang là vấn đề cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ trong đó có các biện pháp cơ bản như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế; Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa; Tăng cường công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. 1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế Đây là biện pháp cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong quá trình củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc Đảng đề ra đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề ra chiến lược toàn diện về công tác pháp chế. Trong từng thời kỳ Đảng đề ra những phương hướng về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường cho các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế, tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng tham gia tích cực, chống vi phạm pháp luật ... đó là sự lãnh đạo toàn diện, có ý nghĩa quyết định đối với kết quả của công tác pháp chế. 2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa, muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật, phải có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Để có được một hệ thống pháp luật như vậy, phải thực hiện nhiều biện pháp như: phải thường xuyên tiến hành hệ thống hoá pháp luật để phát hiện và loại bỏ những quy định pháp luật trùng lặp, mâu thuẫn, lạc hậu, bổ sung những thiếu sót trong hệ thống pháp luật; kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật; có kế hoạch xây dựng pháp luật phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật để đảm bảo cho hệ thống các văn bản pháp luật được mang tính khoa học và đạt trình độ kỹ thuật cao, mở rộng các hình thức nhân dân lao động tham gia vào việc xây dựng pháp luật. 3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật Đây là một biện pháp lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, cụ thể là: - Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, tăng cường công tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các quy định pháp luật làm cơ sở cho việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật đạt kết quả tốt. - Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm nâng cao trình độ nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật của nhân dân. - Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ, phẩm chất chính trị và khả năng công tác để xắp xếp vào các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế. 139 - Chú trọng công tác tổ chức, kiện toàn các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế. Xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, cải tiến các phương pháp chỉ đạo và thực hiện, đồng thời tạo điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan đó đạt hiệu quả cao. - Trong từng thời kỳ cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời để thấy rõ những thiếu sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đề ra những phương hướng và biện pháp tăng cường hiệu lực công tác đó. 4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật Biện pháp này nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Biện pháp này đòi hỏi trước hết phải thường xuyên tổ chức việc kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là hệ thống cơ quan làm công tác bảo vệ pháp chế để phát hiện những sai sót, lệch lạc, kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng theo đúng nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật. Xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Đối với cơ quan bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có phương pháp hoạt động thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu cực, vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh, chính xác, đúng quy định của pháp luật. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích khái niệm pháp chế. 2. Trình bày mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế. 3. Những bảo đảm cho nền pháp chế xã hội chủ nghĩa? 4. Các yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa? 5. Các biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa? 140 141 CHƯƠNG XXI ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT, CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT I. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT 1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội khách quan. Điều này có nghĩa là pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội bằng cách ghi nhận, củng cố, bảo vệ chúng, cũng như tạo khả năng, điều kiện, khuôn khổ cho những quan hệ xã hội phát sinh, phát triển phù hợp với dự kiến của các nhà làm luật. Pháp luật tác động lên các quan hệ xã hội theo 2 hướng: Thứ nhất, đối với những quan hệ xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội thì pháp luật bảo vệ và định hướng cho sự phát triển của chúng. Thứ hai, đối với những quan hệ mâu thuẫn với yêu cầu khách quan của xã hội và lợi ích của nhân dân thì pháp luật tạo ra những biện pháp ngăn cản, hạn chế sự phát triển của chúng. Pháp luật không thể trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt sự tồn tại của các quan hệ xã hội bởi các quan hệ xã hội tồn tại một cách khách quan. Pháp luật chỉ có thể đưa các quan hệ xã hội vào trật tự, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội. Pháp luật hướng tới những quan hệ xã hội bằng các hình thức: tác động có tính tư tưởng, giáo dục mang đến cho con người thông tin và nâng cao ý thức của họ đối với pháp luật và điều chỉnh có tính quy phạm và tính bắt buộc chung. Như vậy, cần phân biệt khái niệm tác động pháp luật và điều chỉnh pháp luật. Điều chỉnh pháp luật cũng là sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội, nhưng khác với khái niệm tác động pháp luật theo nghĩa rộng, điều chỉnh pháp luật là việc dùng pháp luật với tính cách là yếu tố có tính quy phạm và tính bắt buộc chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Có thể nói, điều chỉnh pháp luật là tác động pháp luật hiểu theo nghĩa hẹp. Sự điều chỉnh pháp luật có những đặc điểm sau đây: - Điều chỉnh pháp luật là một trong những loại hình của điều chỉnh xã hội; - Điều chỉnh pháp luật là điều chỉnh có tính định hướng, tính tổ chức và tính hiệu quả; - Điều chỉnh pháp luật là sự điều chỉnh được thực hiện thông qua một hệ thống các phương tiện pháp lý cơ bản, đặc thù: quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật mang tính cá biệt, cụ thể, quan hệ pháp luật, hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tóm lại, điều chỉnh pháp luật được hiểu là việc Nhà nước dựa vào pháp luật, sử dụng một loạt các phương tiện pháp lý đặc thù (quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động đến quan hệ xã hội theo phương hướng nhất định. 2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh pháp luật a. Đối tượng điều chỉnh pháp luật Đối tượng điều chỉnh pháp luật là các quan hệ xã hội nhưng không phải pháp luật điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội cụ thể mà chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản, điển hình liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhà nước, xã hội và cá nhân con người. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật còn có thể là những quan hệ xã hội phái sinh, nghĩa là chúng chỉ xuất hiện khi có quy phạm pháp luật, ví dụ: các quan hệ tố tụng, các quan hệ bảo hiểm... 142 Phạm vi điều chỉnh của pháp luật có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Nhà nước và các điều kiện chính trị, xã hội khác. Khả năng (mức độ) và phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật chịu ảnh hưởng của các yếu tố cơ bản như : - Tính chất của các quan hệ xã hội; - Điều kiện về kinh tế, văn hoá, xã hội; - Ý thức pháp luật của nhân dân, của cán bộ, công chức nhà nước, của những nhà chính trị; - Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Xác định phạm vi đối tượng điều chỉnh pháp luật là xác định ranh giới của việc sử dụng pháp luật vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác định ranh giới của sự “can thiệp công khai” của Nhà nước thông qua pháp luật vào sự phát triển của các quan hệ xã hội. b. Phương pháp điều chỉnh pháp luật Phương pháp điều chỉnh pháp luật là cách thức tác động pháp luật lên các quan hệ xã hội để đạt được mục đích đề ra. Nội dung của phương pháp điều chỉnh pháp luật được quy định bởi đặc điểm nội dung, tính chất của quan hệ xã hội và bởi vai trò của chủ thể điều chỉnh. Phương pháp điều chỉnh pháp luật có những đặc điểm là: Do Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) đặt ra; được ghi nhận trong quy phạm pháp luật; được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước trong những trường hợp cần thiết. Các hình thức tác động lên các quan hệ xã hội có thể là: cấm đoán (không cho pháp tiến hành một số hoạt động nhất định), bắt buộc (buộc phải thực hiệnmột số hoạt động nhất định) hoặc cho phép (được phép hoạt động trong một phạm vi nhất định). Mỗi ngành luật có những phương pháp điều chỉnh riêng. Lý do của sự khác biệt đó là vì có sự khác nhau về: - Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. - Trật tự hình thành quan hệ pháp luật. - Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật. - Các biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Thông thường, các phương pháp điều chỉnh pháp luật được chia thành 2 loại đặc trưng là phương pháp mệnh lệnh- quyền uy và phương pháp tự định đoạt (thoả thuận). Phương pháp mệnh lệnh dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà trong đó một bên tham gia là nhà nước (cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Phương pháp tự định đoạt thường dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội mà các bên tham gia quan hệ có địa vị bình đẳng với nhau. 3. Các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật Sự điều chỉnh pháp luật đó là quá trình phản ánh sự kế tiếp nhau của sự điều chỉnh pháp luật. Ở đây chỉ nêu ra một số giai đoạn cơ bản có liên quan tới quá trình điều chỉnh pháp luật. Cần chú ý là việc phân chia này chỉ mang tính tương đối. Giai đoạn thứ nhất, quá trình điều chỉnh pháp luật bắt đầu đưa ra các quy phạm pháp luật. Các quy phạm bắt con người phải hành động phù hợp với lợi ích của sự phát triển xã hội. Đó là giai đoạn quy định, hay nói cách khác là giai đoạn sáng tạo, hình thành các quy phạm pháp luật. 143 Giai đoạn thứ hai là giai đoạn tác động của các quy phạm pháp luật, trong giai đoạn áp dụng các quy phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật xuất hiện. Sự kiện pháp lý là yếu tố liên kết quy phạm pháp luật với hậu quả pháp lý xảy ra, là điều kiện cần thiết của giai đoạn này. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý, nghĩa là các quyền và nghĩa vụ được thực hiện trong đời sống xã hội bởi cá chủ thể của quan hệ pháp luật. Áp dụng các quy phạm pháp luật là giai đoạn có thể xảy ra của sự điều chỉnh pháp luật. Thực chất của giai đoạn này là ở chỗ ra các quyết định mang tính chất quyền lực nhà nước, đảm bảo cho sự xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật. Nhờ giai đoạn áp dụng pháp luật mà Nhà nước đưa vào quá trình điều chỉnh pháp luật các quan hệ cụ thể, kiểm tra sự xuất hiện và thực hiện nó. Quá trình điều chỉnh pháp luật nói trên có thể diễn tả dưới dạng sơ đồ sau: Sự thiết chế quy phạm pháp luật Xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý Thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý Áp dụng quy phạm pháp luật (sự kiện pháp lý là điều kiện cần có cho sự kết nối) II. CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT Cơ chế điều chỉnh pháp luật là hệ thống thống nhất các phương tiện pháp luật, nhờ đó mà thực hiện được sự điều chỉnh có kết quả các quan hệ xã hội phù hợp với các mục đích của xã hội. Hệ thống các phương tiện pháp lý mà thông qua đó pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bao gồm: Các quy phạm pháp luật, các văn bản cá biệt, các quan hệ pháp luật, các hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý. 1. Quy phạm pháp luật Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nhiệm vụ của quy phạm pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là: - Xác định những tổ chức, cá nhân (gọi chung là chủ thể) chịu sự tác động của quy phạm pháp luật; - Xác định những hoàn cảnh, điều kiện mà trong đó các chủ thể cần phải chỉ đạo hành vi của mình theo quy định của nhà nước; - Nêu cách xử sự bằng cách chỉ ra các quyền, nghĩa vụ của chủ thể. 2. Văn bản áp dụng pháp luật Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, văn bản cá biệt có vai trò cụ thể hoá những quy tắc xử sự chung thành những quy tắc xử sự cụ thể cho những chủ thể xác định, ghi nhận quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ. Các quyền và nghĩa vụ mà văn bản cá biệt đưa ra cho các chủ thể cụ thể không thể khác biệt về nội dung so với những quy định trong quy phạm pháp luật. Văn bản áp dụng pháp luật có thể tham gia vào cơ chế điều chỉnh pháp luật ở hai giai đoạn khác nhau. - Giai đoạn đầu để cá biệt hoá quy tắc xử sự chung thành quy tắc xử sự cá biệt khi quy phạm pháp luật quy định (đòi hỏi) là sự cá biệt hoá các quyền và nghĩa vụ đó phải do 144 cơ quan nhà nước có thẩm quyền (những người có trách nhiệm, quyền hạn) tiến hành chứ không phải do những chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó tiến hành. - Giai đoạn sau nó được dùng để cá biệt hoá các biện pháp tác động của nhà nước mà bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy định đối với các chủ thể pháp luật. Tuy nhiên, cần chú ý là trong một số trường hợp, sự cá biệt hoá các quyền và nghĩa vụ pháp lý không nhất thiết phải thực hiện bằng văn bản cá biệt, ví dụ: một số quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể chỉ phát sinh, thay đổi, chấm dứt khi trong thực tế cuộc sống xuất hiện những điều kiện, hoàn cảnh, sự kiện cụ thể mà chúng đã được nêu ra trong các quy phạm pháp luật (đó là sự kiện pháp lý). Sự kiện pháp lý trong cơ chế điều chỉnh pháp luật là chiếc cầu nối giữa ý chí nhà nước (thể hiện trong quy phạm pháp luật ) và quan hệ xã hội. 3. Quan hệ pháp luật Dùng quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội đã làm cho quan hệ xã hội mang tính chất pháp lý, nghĩa là tạo ra cho các bên tham gia quan hệ xã hội đó có các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Quan hệ pháp luật là một yếu tố cần thiếtcủa cơ chế điều chỉnh pháp luật, nhờ đó mà quy phạm pháp luật được thực hiện trong cuộc sống. Quan hệ pháp luật phát sinh với nội dung là quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý đối với các chủ thể cụ thể đã có khả năng thực hiện được. Tuy nhiên, để cho quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện phải thông qua hành vi thực tế thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật. Như vậy, bằng hành vi thực tế của mình các chủ thể pháp luật đã làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống hiện thực. 4. Ý thức pháp luật Ý thức pháp luật tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó là cơ sở tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình điều chỉnh pháp luật để việc điều chỉnh pháp luật được tiến hành đúng đắn, có cơ sở khoa học và đạt hiệu quả cao. 5. Pháp chế Pháp chế là một nguyên tắc cơ bản của quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó đòi hỏi mọi hoạt động điều chỉnh pháp luật phải phù hợp với pháp luật. Chỉ quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa mới xoá bỏ được sự quản lý dựa trên ý chí chủ quan, tuỳ tiện, xoá bỏ được sự quản lý tuỳ thuộc vào các tình tiết ngẫu nhiên, vào tâm trạng và tính cách của nhà quản lý, làm cho các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật có thể liên kết được trong một thể thống nhất, hoạt động nhịp nhàng và đồng bộ nhằm đạt được các mục đích đặt ra. Tóm lại, cơ chế điều chỉnh pháp luật là một hệ thống phức tạp các phương tiện, quy trình pháp lý ràng buộc lẫn nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau. Chính vì thế, hiệu quả điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào tất cả mọi yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật chứ không riêng gì một yếu tố nào, nếu trong quá trình điều chỉnh pháp luật, một yếu tố nào đó không được đảm bảo sẽ dẫn đến nguy cơ mục đích điều chỉnh pháp luật sẽ không đạt được. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Khái niệm điều chỉnh pháp luật? 2. Yếu tố quy định mức độ và phạm vi điều chỉnh pháp luật? 145 3. Quá trình điều chỉnh pháp luật? 4. Khái niệm cơ chế điều chỉnh pháp luật? 146 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội, 2005. 2. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp, Hà Nội - 2007. 3. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, NXB lý luận chính trị, Hà Nội - 2004. 4. Vũ Hồng Anh, Tổ chức và hoạt động của nghị viện một số nước trên thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2001. 5. Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, NXB Tư pháp, Hà Nội - 2006. 6. Montesquieu, Tinh thần pháp luật, người dịch - Hoàng Thanh Đạm, NXB Giáo dục, Hà Nội -1996. 7. Lê Minh Tâm, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Công an nhân dân, Hà Nội - 2003. 8. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992. 9. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc các kỳ VI, VII, VIII, IX, X. 147
File đính kèm:
- giao_trinh_ly_luan_ve_nha_nuoc_va_phap_luat_phan_2.pdf