Giáo trình Phân tích đầu tư chứng khoán (Phần 1)

Tóm tắt Giáo trình Phân tích đầu tư chứng khoán (Phần 1): ...nh là ưu thế của doanh nghiệp. Có con người, các mặt khác của doanh nghiệp như tiêu thụ, kỹ thuật, sáng tạo sản phẩm mới sẽ phát triển. Có thể nói, nếu các doanh nghiệp niêm yết đầu tư vào việc xây dựng một nguồn nhân lực vững mạnh của công ty mình thì chắc chắn sẽ tạo ra ưu thế cạnh tra... là 20%. Độ lệch chuẩn của A, B: Độ lệch tiêu chuẩn i n i i prr 2 1 )( Vậy: A= 222 20)-0,25(24% 20%)-0,5(20% 20%)-0,25(16% = 2,83% B= 222 20)-0,25(12% 20%)-0,5(20% 20%)-0,25(28% = 5,66% 67 B > A , do vậy, đầu tư vào cổ phiếu B rủi ro hơn đầu tư vào cổ phiếu A. ... thƣờng thị trƣờng và giám đốc tài chính Nếu cổ phiếu của chúng ta thực sự được định giá cao, chúng ta có thể giúp các cổ đông hiện tại của mình bằng cách bán thêm cổ phiếu và sử dụng số tiền này để đầu tư vào các chứng khoán thị trường vốn khác. Nhưng chúng ta đừng bao giờ phát hành cổ ph...

pdf137 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Phân tích đầu tư chứng khoán (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư không thích 
rủi ro nhất định sẽ lựa chọn danh mục PB hiệu quả hơn PA . 
Thực tế điều này rất đúng cho bất kỳ điểm nào nằm trên 
đường thẳng đó chỉ duy nhất trừ điểm M vì nó nằm trên 
đường cong tối ưu cuả Markowitz. 
 Chúng ta có thể khẳng định về lý thuyết lựa chọn 
danh mục đầu tư ;nhà đầu tư sẽ chọn những danh mục đầutư 
nằm trên đường cong tối ưu trong mô hình của Markowitz. 
Vấn đề lựa chọn danh mục trong số đó phụ thuộc vào khả 
năng chấp nhận rủi ro của mỗi nhà đầu tư. Trường hợp nhà 
đầu tư có thể cho vay và đi vay theo lãi suất phi rủi ro (RF) 
thì họ sẽ chọn một trong các danh mục đầu tư nằm trên 
đường thẳng CML. 
 * Xây dựng công thức cho đƣờng CML: 
 Để rút ra công thức cho đường CML, chúng ta giả 
thuyết rằng nhà đầu tư tạo dựng một danh mục đầu tư bao 
gồm chứng khoán phi rủi ro (RF) với tỷ trọng vốn đầu tư 
WF và danh mục thị trường M với tỷ trọng đầu tư WM. 
a) Tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục đầu tư : 
Tỷ suất sinh lợi mong đợi của một danh mục gồm hai tài 
sản rủi ro và tài sản phi rủi ro.Đây là bình quân tỷ trọng của 
hai tỷ suất sinh lợi : 
 122 
p
R = Wf Rf + WMRM 
Trong đó : 
p
R là tỷ suất sinh lợi mong đợi của danh mục 
đầu tư 
 Wf là tỷ trọng đầu tư vào tài sản phi rủi ro 
 WM là tỷ trọng đầu tư vào danh mục thị trường gồm 
các tài sản rủi ro 
 Rf là tỷ suất sinh lợi của tài sản phi rủi ro 
 RM là tỷ suất sinh lợi của của các tài sản rủi ro 
 Ta có : Wf + WM = 100% = 1 hay là Wf = 1 - WM 
 Do đó : 
p
R = (1 – WM) Rf + WMRM = Rf + WM(RM – Rf) 
(3.1) 
 b) Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư : 
 Phương sai của danh mục đầu tư : 
22
,
222 2 MMMfMfffp WWWW 
 Tài sản phi rủi ro có độ lệch chuẩn bằng 0. 
 2
p
 = 22 MMW 
  MMp W = (1 – Wf) M (3.2) 
 Như vậy độ lệch chuẩn của danh mục kết hợp giữa một tài 
sản phi rủi ro với các tài sản rủi ro là tỷ lệ tuyến tính của độ 
lệch chuẩn danh mục các tài sản rủi ro. 
 123 
 Từ (3.2)  
M
p
MW (3.3) 
 Thay (3.3) vào (3.1) 
 Ta có : 
p
R = Rf + 
M
p (RM – Rf) = Rf +(RM – Rf) 
M
p (3.4) 
Phương trình (3.4) được biểu diễn bằng đường thẳng có tên 
gọi là đƣờng thị trƣờng vốn CML (The capital market 
line).(Hình 3.1) (Hình 3.2) 
c) Kết hợp rủi ro và tỷ suất sinh lợi - Đường thị trường 
vốn CML (The Capital Market Line) : 
Vì cả tỷ suất sinh lợi và độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi của 
một danh mục là kết hợp tuyến tính. Hình 3.2 
 Dọc theo đường thẳng Rf - A chúng ta có thể đạt 
được bất kỳ điểm nào bằng việc đầu tư một tỷ lệ danh mục 
vào tài sản phi rủi ro Wf (tín phiếu kho bạc) và phần còn lại 
(1 – Wf =WM) sẽ đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro ở điểm 
A trên đường biên hiệu quả. Các tập hợp có thể của danh 
mục kết hợp có ưu thế hơn tất cả các danh mục tài sản rủi ro 
trên đường hiệu quả bên dưới điểm A vì một danh mục nào 
đó nằm trên đường Rf – A có cùng phương sai nhưng lại có 
tỷ suất sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi của danh mục nằm 
dưới điểm A trên đường biên hiệu quả ban đầu. 
 Tương tự, chúng ta có thể đạt được bất kỳ điểm nào 
trên đường Rf – B bằng cách đầu tư vào các kết hợp tài sản 
 124 
phi rủi ro và danh mục tài sản rủi ro ở tại điểm B. Theo đó, 
các kết hợp tiềm năng này có ưu thế hơn tất cả các danh 
mục nằm dưới điểm B trên đường biên hiệu quả ban đầu (kể 
cả đường Rf – A). Chúng ta có thể vẽ các đường thẳng khác 
từ Rf đến đường biên hiệu quả Markowitz ở các điểm ngày 
càng cao hơn cho đến khi chúng ta đạt đến một điểm mà ở 
đó đừơng thẳng này sẽ tiếp xúc với đường biên hiệu quả, 
thể hiện ở điểm M trên hình 3.2. Tập hợp các danh mục 
nằm trên đường Rf – M có ưu thế hơn tất cả các danh mục 
nằm dưới điểm M. Chẳng hạn như chúng ta có thể đạt được 
một kết hợp rủi ro và tỷ suất sinh lợi giữa điểm Rf và điểm 
M (điểm C) bằng cách đầu tư một nửa vào tài sản phi rủi ro 
(có nghĩa là cho vay tiền với lãi suất phi rủi ro Rf) và đầu tư 
nửa kia vào danh mục tài sản rủi ro ở điểm M. 
Các khả năng có thể có của rủi ro – tỷ suất sinh lợi trong 
trƣờng hợp có sử dụng đòn bẩy. Một nhà đầu tư có thể 
muốn đạt được một tỷ suất sinh lợi cao hơn tại điểm M 
nhưng phải chấp nhận mức độ rủi ro cao hơn. Cách thứ nhất 
là đầu tư vào một trong số số các danh mục tài sản rủi ro 
trên đường biên hiệu quả nằm xa danh mục tại điểm M 
chẳng hạn như danh mục tại điểm D. Cách thứ hai là sử 
dụng đòn bẩy tài chính bằng cách đi vay ở lãi suất phi rủi ro 
và đầu tư số tiền này vào danh mục tài sản rủi ro M. 
Như vậy cả tỷ suất sinh lợi và rủi ro đều tăng theo đường 
thẳng tuyến tính Rf – M ban đầu và mở rộng về phía bên 
phải. Các điểm nằm trên đường mở rộng này có ưu thế hơn 
mọi điểm nằm trên đường biên hiệu quả Markowitz. Do đó, 
 125 
chúng ta có được một đường hiệu quả mới : đó là đường 
thẳng từ Rf tiếp xúc với điểm M. Đường thẳng này được 
xem là đường thị trường vốn CML và được thể hiện trong 
hình 3.2 với phương trình đã được xét ở trên là : 
p
R = Rf + (RM – Rf) 
M
p phản ánh quan hệ giữa rủi ro và tỷ 
suất sinh lợi của danh mục đầu tư gồm tài sản phi rủi ro và 
danh mục tài sản rủi ro. 
Vì đường CML là đường thẳng đi lên, nên tất cả các danh 
mục trên đường CML có tương quan dương hoàn toàn với 
nhau. Mối tương quan dương này ngược lại với các quan sát 
của chúng ta vì tất cả các danh mục trên đường CML là kết 
hợp danh mục tài sản rủi ro M và một tài sản phi rủi ro. Bạn 
có thể đầu tư một phần vào tài sản phi rủi ro (tín phiếu kho 
bạc) (có nghĩa là bạn cho vay với lãi suất phi rủi ro Rf) và 
phần còn lại đầu tư vào danh mục tài sản rủi ro M, hoặc đi 
vay với lãi suất phi rủi ro Rf và đầu tư phần tiền này vào 
danh mục tài sản rủi ro. Trong cả hai trường hợp, tất cả tính 
khả biến của danh mục bắt nguồn từ danh mục tài sản rủi ro 
M. Sự khác biệt duy nhất giữa các danh mục khác nhau trên 
đường CML là độ lớn của tính khả biến, tính khả biến này 
do tỷ lệ phần trăm của danh mục tài sản phi rủi ro trong 
danh mục kết hợp gây ra. 
Vì danh mục M nằm tại điểm tiếp tuyến nên nó có khả năng 
kết hợp của các danh mục cao nhất và mọi nhà đầu tư đều 
 126 
muốn đầu tư vào danh mục M và đi vay hoặc cho vay để đạt 
được một điểm nào đó trên đường CML. 
Hình 3.2 : Các khả năng danh mục khi kết hợp một tài 
sản phi rủi ro với các danh mục tài sản khác nhau trên 
đƣờng biên hiệu quả Markovitz. Đƣờng thị trƣờng vốn 
CML với giả định vay và cho vay với lãi suất phi rủi ro 
* Ý nghĩa của đƣờng thị trƣờng vốn : 
 
 
 
 
 
A 
B C 
D 
M 
Rf 
Độ lệch chuẩn 
 Tỷ suất sinh lợi mong đợi 
CML 
Cho vay 
Đi vay 
 127 
Trong phần trên, chúng ta đã giả thiết các nhà đầu tư có 
cùng thông số đầu vào của mô hình định giá tài sản vốn (giả 
thuyết 4). Với sự đồng nhất về khả năng thu được lợi nhuận, 
độ lệch chuẩn của thị trường ( M) và độ lệch chuẩn của 
danh mục đầu tư P( P); sự nhất quán của thị trường trong 
việc đánh giá lợi suất của danh mục thị trường và danh mục 
đầu tư P, độ nghiêng của đường CML là ; 
Rm – RF 
M 
 + Xét về ý nghĩa kinh tế : 
 Tử số thể hiện phần vượt trội của lợi suất ước tính 
thu được từ đầu tư vào chứng khoán rủi ro (danh mục thị 
trường) so với mức lợi suất thu được từ việc đầu tư vào 
chứng khoán phi rủi ro (tín phiếu Kho bạc). Nói cách khác, 
đây là phần bù đắp rủi ro của việc nắm giữ chứng khoán rủi 
ro thay cho chứng khoán phi rủi ro. 
 Mẫu số thể hiện mức độ rủi ro của danh mục đầu tư 
thị trường. 
 Như vậy, độ dốc của đồ thị biểu hiện mức độ bù đắp 
thu nhập cho mỗi đơn vị rủi ro của thị trường, vì đường 
CML biểu hiện mức lợi suất có thể nhận được cho mỗi mức 
độ rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận. Mỗi điểm trên đường 
 128 
thẳng thể hiện trạng thái cân bằng của thị trường ở các cấp 
độ khác nhau. Độ dốc đường CML quyết định thu nhập phụ 
trội cần thiết để bù đắp cho mỗi đơn vị thay đổi trong rủi ro 
mà nhà đầu tư phải gánh chịu. Đó chính là lý do để coi 
đường CML là giá trị thị trường của rủi ro ( Market Price of 
risk) 
3.2.2 Hệ số beta 
 Hệ số beta của một cổ phiếu là một chỉ số nêu lên 
mức độ thu nhập của cổ phiếu đó thay đổi khi có sự thay đổi 
về lãi suất của thị trường. 
 Lãi suất thị trường được đo bằng lãi suất trung bình 
của một tập hợp những cổ phiếu lớn đang giao dịch trên thị 
trường. Hệ số beta của thị trường bằng 1 và hệ số beta của 
các chứng khoán khác được xem xét xoay quanh giá trị này. 
 Ví dụ, nói cổ phiếu A có hệ số beta = 0,72 có nghĩa 
là nếu thu nhập của thị trường tăng lên 1% vào tháng tới thì 
chúng ta có thể mong đợi lãi suất của cổ phiếu A tăng lên 
0,72%. 
 Hệ số beta có thể là số dương hoặc một số âm, cổ 
phiếu có hệ số beta là dương thì thu nhập của nó có mối 
quan hệ thuận chiều với thu nhập của thị trường và ngược 
lại. Theo thống kê, phần lớn các cổ phiếu có hệ số beta 
mang giá trị dương. 
 129 
 Chứng khoán có hệ số càng cao thì yêu cầu lợi suất 
càng cao. 
* Một số tính chất của hệ số beta: 
+ Những chứng khoán không có rủi ro thì có hệ số beta = 0 
Nếu J = 0 : lợinhuận kỳ vọng của chứng khoán có J = 0 
chính là lợi nhuận không rủi ro (kF) bởi vì trong trường hợp 
này : 
j
R = RF + J [
MR – RF] 
 Mà J = 0 nên jR = RF 
 Như vậy, lợi suất của chứng khoán không có rủi ro 
chính bằng lợi suất của tín phiếu kho bạc (T-bill) không rủi 
ro. 
 + Danh mục đầu tư thị trường có hệ số beta = 1 
 Hệ số beta của danh mục thị trường được xác định 
như sau : 
M= 
MM 
= 
2
M 
= 1 
2
M 
2
M 
(Ghi chú E(RM) = MR ) 
 130 
 Do vậy : E(RM) = RF + 1 [E(RM) – RF] = (RM) 
 + Nếu chứng khoán J nào đó có hệ số beta giống 
như danh mục đầu tư thị trường (bằng 1) thì lợi suất ước 
tính (lợi suất kỳ vọng) của nó bằng lợi suất ước tính của 
danh mục thị trường. 
 Nếu J = 1 : Lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán J 
= 1 chính là lợi nhuận thị trường E(RM) , bởi vì trong trường 
hợp này : 
 E(RJ) = RF + J [E(RM) – RF] = RF + [E(RM) – RF] 
= E(RM) 
 Trường hợp này, lợi suất ước tính của chứng khoán J 
bằng lợi suất ước tính của danh mục thị trường. Nếu một 
chứng khoán có hệ số lớn hơn của danh mục thị trường 
( J > 1) thì có nghĩa nó có rủi ro cao hơn và dẫn đến lợi 
suất kỳ vọng sẽ lớn hơn lợi suất của danh mục thị trường và 
ngược lại. 
 + Quan hệ tuyến tính : Quan hệ giữa lợi nhuận cổ 
phiếu và hệ số rủi ro của nó là quan hệ tuyến tính được diễn 
tả bằng đường SML có hệ số góc: E(RM) = RF 
 + Beta của một danh mục đầu tư tính theo công thức: 
 P = W1 1 + W2 2 + ... + Wn n 
 131 
P = 
n 
 Wj j 
j=1 
 Trong đó: 
 Wj : Tỷ trọng của chứng khoán J trong danh mục 
(bằng tỷ lệ của giá trị thị trường của chứng khoán J trên 
tổng giá trị thị trường của danh mục đầu tư có số lượng n 
chứng khoán) 
 Vì vậy, rủi ro hệ thống của một danh mục đầu tư là 
giá trị bình quân gia quyền cuả rủi ro hệ thống của từng 
chứng khoáng riêng lẻ nằm trong danh mục đầu tư đó. Điều 
này cũng có nghĩa là beta của một danh mục đầu tư có chưá 
tất cả các chứng khoán (danh mục thị trường M) thì bằng 1 
 * So sánh giữa SML và CML: 
 CML thể hiện mối tương quan giữa lợi suất với rủi ro 
của những danh mục tổng thể hiệu quả. SML thể hiện mối 
quan hệ hàm số bậc nhất giữa lợi suất và rủi ro của từng 
chứng khoán riêng lẻ. 
 Rủi ro hệ thống là mối quan tâm đốivới các nhà đầu 
tư vì chúng không thể loại bỏ được bằng biện pháp đa dạng 
hoá danh mục đầu tư. 
 Hệ số của một chứng khoán hay một danh mục đầu 
tư là chỉ số rủi ro của hệ thống tài sản đó và được xác định 
 132 
bằng phương pháp thống kê. Hệ số được tính toán dựa 
trên số liệu quá khứ về lợi suất đầu tư của chứng khoán đó 
và lợisuất của danh mục thị trường. 
3.2.3- Quan hệ giữa lý thuyết thị trƣờng vốn và mô hình 
định giá tài sản vốn CAPM : 
Phương trình đường thị trường vốn CML : 
p
R = Rf + (RM 
– Rf) 
M
p phản ánh mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh 
lợi mong đợi của danh mục đầu tư. 
Giả sử chúng ta thay danh mục đầu tư bằng một chứng 
khoán cá biệt j, thì phương trình trên có thể viết thành : 
j
R = Rf + (RM – Rf) 
M
j (3.5) 
Đặt j = 
M
j thì 
j
R = Rf + (RM – Rf) j (3.6) 
Như vậy, phương trình (3.6) chính là phương trình biểu diễn 
đường thị trường chứng khoán SML. Do đó, có thể kết luận 
rằng mô hình định giá tài sản vốn chỉ là một trường hợp đặc 
biệt của lý thuyết thị trường vốn mà thôi. 
3.2.4 MÔ HÌNH CAPM TRONG ĐIỀU KIỆN THỊ 
TRƢỜNG VỐN VIỆT NAM 
Việc ứng dụng các mô hình CAPM để dự báo tỷ suất sinh 
lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang 
tính chuyên nghiệp đối với hầu hết các thị trường vốn trên 
thế giới và Việt Nam . Tuy nhiên, Thị trường vốn Việt Nam 
mới được hình thành từ tháng 7 năm 2000 và cho đến nay 
 133 
thị trường vốn Việt Nam vẫn chưa được phát triển, những 
diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời 
gian qua là bằng chứng hiển nhiên cho việc thiếu vắng các 
công cụ dự báo này. Đa số các nhà đầu tư trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam hiện nay đều thực hiện quyết định 
đầu tư một cách cảm tính. Liệu có khả năng ứng dụng một 
mô hình CAPM dự báo tỷ suất sinh lợi trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam hiện nay? Quả thật vấn đề áp dụng 
CAPM ở Việt Nam còn rất nhiều khó khăn và trở ngại. 
-Thứ nhất, hàng hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam 
quá ít về chủng loại, nghèo nàn về số lượng và đặc biệt là 
thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên tâm 
đầu tư lâu dài. Mặc dù đã có những giải pháp và nỗ lực từ 
phía Nhà nước nhằm tạo thêm sự phong phú về hàng hóa 
cho thị trường chứng khoán nhưng hiệu quả thực sự là chưa 
cao. Vì thế, thị trường chứng khoán Việt Nam chưa hấp dẫn 
các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư chuyên nghiệp 
và có nguồn lực tài chính lớn. 
 -Thứ hai, mô hình CAPM là mô hình dưới dạng một 
hàm hồi quy trong đó biến độc lập là tỷ suất sinh lợi của 
danh mục đại diện cho toàn bộ thị trường, còn biến phụ 
thuộc là tỷ suất sinh lợi của chứng khoán cá biệt. Hiện nay 
tại các nước phát triển trên thế giới vì thị trường chứng 
khoán bao gồm rất nhiều chứng khoán khác nhau nên người 
ta coi danh mục thị trường đồng nghĩa với danh mục cổ 
phiếu lập chỉ số chính của thị trường cổ phiếu, chẳng hạn 
như ở Mỹ là S & P 500, ở Pháp là CAC 40, ở Nhật là 
Nikkei 225, còn ở Việt Nam chỉ có chỉ số VN Index. Tuy 
nhiên hiện nay ở Việt Nam số lượng công ty và ngân hàng 
niêm yết chưa nhiều nên chưa thể xem như là danh mục đại 
diện cho toàn bộ thị trường. 
 134 
-Thứ ba, là CAPM sử dụng hệ số bêta để liên kết khả năng 
sinh lợi với hệ số Beta. Coi Beta là phương tiện để đo rủi ro 
không phân tán được. Thế nhưng Việt Nam hiện nay đang 
tồn tại một vấn đề lớn nữa là sự thiếu vắng hệ số Beta trong 
việc phân tích rủi ro của các chứng khoán. Nói cách khác, 
các nhà đầu tư chưa chú trọng đến hệ số Beta trong việc 
đánh giá chứng khoán. Hiện nay, trên website các công ty 
chứng khoán có liệt kê những tỷ số cơ bản về tài chính và 
so sánh với tỷ số trung bình thị trường. Một số trang web 
cũng đề cập đến hệ số Beta trong danh mục khái niệm các 
chỉ số tài chính cần phân tích nhưng chưa thực sự có ý định 
sử dụng nó. Phần lớn chỉ là nêu những chỉ số tài chính 
chung có liên quan đến doanh lợi như chỉ số lợi nhuận/vốn 
(ROE), lợi nhuận thuần/doanh thu, lợi nhuận/tài sản, hoặc 
liên quan đến tình hình vay nợ như tổng vay nợ trên vốn 
hoặc liên quan đến giá chứng khoán và lợi nhuận như P/E, 
ngoài ra không thấy những chỉ số như tỷ số giá thị trường so 
với giá sổ sách (PBV), betaCó thể nói rằng ở Việt Nam 
hiện nay chưa có một tổ chức nào chuyên về vấn đề tính 
toán và công bố Beta. Trong thực tế, hiện nay Beta của các 
công ty niêm yết cũng đã được một số chuyên gia đang 
nghiên cứu về vấn đề này quan tâm tính toán tuy nhiên chưa 
đảm bảo được tính chuyên nghiệp như những nhà cung cấp 
dịch vụ là Value Line Investment Survey, Market Guide và 
Standard & Poor's Stock Reports ở Mỹ hay Burns Fry 
Limited ở Canada. Do sự tác động của nhiều nhân tố phi thị 
trường nên vai trò của Beta ở Việt Nam còn tương đối hạn 
chế. Tuy nhiên, khi danh mục thị trường ngày càng hoàn 
thiện, Beta sẽ phát huy tác dụng và theo kịp với sự phát 
triển của thị trường. Thông qua hệ số Beta và các tỷ số thị 
trường khác như như tỷ số giá trên thu nhập (P/E) và giá trị 
thị trường trên giá trị sổ sách (PBV), doanh nghiệp sẽ 
 135 
nhìn nhận rõ hơn về rủi ro và năng lực cạnh tranh của chính 
bản thân mình. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư cũng có điều 
kiện để ứng dụng những kỹ thuật phân tích và dự báo một 
cách hiệu quả hơn, gần với kỳ vọng hơn. Khi tính toán và 
sử dụng hệ số Beta, việc nghiên cứu và sử dụng những mô 
hình dự báo sẽ trở thành hiện thực hơn chứ không nằm trên 
lý thuyết nữa. 
-Thứ tư, mô hình CAPM ở thị trường chứng khoán Việt 
Nam chỉ vận hành tốt khi các nhà đầu tư có được thông tin 
ngang bằng nhau, thông tin không bị rò rỉ và vì thế minh 
bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết để phát triển thị 
trường chứng khoán. Đây chính là nguyên tắc công khai, 
được coi là một nguyên tắc quan trọng nhất của thị trường 
chứng khoán. Có thể nói, nếu không có một hệ thống công 
bố thông tin hoạt động theo đúng yêu cầu thì thị trường 
chứng khoán không thể vận hành được. Thị trường chứng 
khoán Việt Nam còn nhỏ bé và sơ khai. Tuy nhiên, các văn 
bản pháp quy điều chỉnh vấn đề công bố thông tin trên thị 
trường chứng khoán đã và đang được xây dựng nhằm đảm 
bảo nguyên tắc công khai, minh bạch thông tin trên thị 
trường và duy trì củng cố lòng tin của nhà đầu tư. 
Tóm lại, mô hình CAPM nhằm mục đích giúp cho nhà đầu 
tư có những dự báo bổ sung cần thiết cho hoạt động kinh 
doanh của mình trên thị trường chứng khoán Việt Nam – 
một thị trường mới nổi với những rủi ro và hạn chế. Tuy 
nhiên, việc ứng dụng mô hình này sẽ có những hạn chế nhất 
định trong thực tiễn. Thông qua những hạn chế này, chúng 
tôi mong muốn nêu ra một vài vấn đề bức thiết mà chúng ta 
phải nhìn nhận và giải quyết một cách triệt để nhằm tạo tiền 
đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 
trong thời gian sắp tới. 
 136 
Bảng 3.1 : Hệ số beta, rủi ro tổng thể và rủi ro phi hệ thống 
của các cổ phiếu tính theo ngày qua 4 năm (7.2000-7.2004) 
Công 
ty 
Hệ số 
beta 
(b) 
Rủi ro 
tổng 
thể 
(d2) 
(%) 
Rủi ro 
thị 
trường 
(dM2) 
(%) 
Rủi ro 
phi hệ 
thống 
(de2 = 
d2 - 
b2dM2) 
(%) 
% của 
rủi ro 
phi hệ 
thống / 
rủi ro 
tổng 
thể (%) 
Hệ số 
tương 
quan với 
thị 
trường 
Số 
phiên 
giao 
dịch 
1 2 3 4 5 6=5/3 7 8 
REE 
SAM 
HAP 
TMS 
LAF 
SGH 
CAN 
DPC 
BBC 
TRI 
GIL 
BTC 
BPC 
1,088 
1,010 
0,861 
0,956 
0,809 
0,658 
0,827 
0,794 
1,121 
0,855 
0,896 
0,462 
0,824 
0,047 
0,041 
0,054 
0,052 
0,049 
0,052 
0,029 
0,030 
0,035 
0,027 
0,027 
0,035 
0,028 
0,031 
0,031 
0,031 
0,031 
0,032 
0,028 
0,013 
0,013 
0,012 
0,012 
0,012 
0,012 
0,012 
0,010 
0,009 
0,031 
0,023 
0,028 
0,040 
0,020 
0,022 
0,020 
0,018 
0,017 
0,033 
0,020 
21,8 
21,7 
57,3 
44,8 
57,3 
77,1 
68,8 
73,1 
56,4 
66,8 
64,2 
92,8 
72,1 
0,886 
0,886 
0,654 
0,744 
0,654 
0,479 
0,559 
0,520 
0,662 
0,577 
0,600 
0,269 
0,529 
839 
839 
836 
836 
780 
694 
652 
636 
627 
623 
621 
613 
570 
 137 
BT6 
GM
D 
AGF 
SAV 
TS4 
KHA 
HAS 
VTC 
PMS 
BBT 
DHA 
1,080 
0,893 
0,777 
1,046 
0,724 
0,838 
0,735 
0,863 
0,897 
1,120 
0,468 
0,026 
0,019 
0,020 
0,025 
0,041 
0,027 
0,032 
0,039 
0,043 
0,046 
0,022 
0,012 
0,012 
0,012 
0,012 
0,012 
0,012 
0,014 
0,015 
0,023 
0,009 
0,006 
0,012 
0,010 
0,013 
0,012 
0,034 
0,019 
0,024 
0,027 
0,024 
0,034 
0,021 
47,2 
50,5 
64,2 
49,3 
84,1 
68,0 
75,4 
70,8 
56,2 
74,1 
94,2 
0,728 
0,705 
0,599 
0,713 
0,400 
0,567 
0,498 
0,542 
0,666 
0,514 
0,245 
565 
563 
558 
553 
489 
482 
395 
365 
181 
95 
73 
Trung 
bình 
 0,035 0,017 0,022 62,8 0,591 
Nguồn:Tính toán từ số liệu tập hợp từ 
ttp://www.chungkhoandenhat.com, 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phan_tich_dau_tu_chung_khoan_phan_1.pdf
Ebook liên quan