Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học (Phần 2)
Tóm tắt Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học (Phần 2): ...hình thức vẫn được coi trọng. 4.2. Quá trình thực hiện một luận văn. 4.2.1. Chọn đề tài: Luận văn tốt nghiệp đại học là công trình đầu tay của sinh viên và nó có xu hướng chuyên sâu hơn trong quá trình học tập ở đại học. Luận văn thạc sĩ và tiến sĩ càng đi sâu hơn. Vì vậy, chất lượng luận ...làm cho họ hiểu được mục đích của công trình đó, ý đồ của tác giả, cách làm việc của tác giả và những nội dung chính, « cái tiêu » của công trình. Nội dung phần mở đầu tối thiểu bao gồm : - Lý do chọn đề tài : thể hiện mục đích của công trình. - Lịch sử nghiên cứu vấn đề : trình bày khái q... aquatic culture in the Mekong Delta, popularize the consciousness of environmental protection in farmer household, carry out the Law of environmental protection and the Law of biodiversity better.... Key words: Sutainable development – Agriculture production – Mekong Delta –The balance of ...
y học. 2.1.1.1.Những yếu tố về tâm lý lứa tuổi. 2.1.1.2. Các phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp. 2.1.2. Các định hướng trong qua 1trình dạy học. 2.1.2.1................................. 2.2. Nghiên cứu thực tiễn. 48 v.v.................. b) Nội dung đề mục. Việc thống nhất cách viết một công trình còn thể hiện ở phân bố nội dung đề mục và hình thức viết của chúng. - Phân bố nội dung đề mục phải có dung lượng tương đương, hoặc có ý nghĩa tầm quan trọng tương đương giữa các đề mục có cùng cấp. Ví dụ: các đề tài, mục mang số 1,2,3.......là cùng cấp. Các đề mục mang số 1.2, .1.3, 1.4......là cùng cấp. Những nội dung của đề mục cấp lớn phải bao trùm các nội dung đề mục cấp nhỏ hơn thuộc nó. - Về hình thức trình bày: ngày nay có máy tính cho phép ta làm điều này nhanh chóng và tiện lợi. Các đề mục lớn chữ phải lớn và ngược lại. Các đề mục cùng cấp phải có cỡ chữ, kiểu chữ như nhau. 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Cành ( 2004), “ Phương pháp và phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế”, NXB Đại học quốc gia, TPHCM. 2. Phan Dũng, ( 2007), “ Phương pháp luận sáng tạo khoa học kỹ thuật” NXBKH-KT, HN. 3. Vũ Cao Đàm, ( 1996) “ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB KH- KT, HN. 4. Nguyễn Tiến Đức, ( 2006), “ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB Thống Kê, HN. 5. Lê Phước Lộc, (1994) “ Phân tích chương trình vật lý phổ thông”, Đại học Cần Thơ. 6. Ngô Đình Quả, ( 2005) “ Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục”, NXB TPHCM. 7. Nghị quyết đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ X......NXB Sự Thật, năm 2005. 8. Lê Quang Sơn ( 2005) “ Dạy học theo phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp thích hợp với đào tạo đại học”, Tạp chí Đại học sư phạm Đà Nẳng, tháng 5. 9. Dương Thiệu Tống, ( 2002), “ Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý”, tập 1, NXB Đại học QG, TPHCM. 10. Đỗ Công Tuấn, ( 2004), “ Lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học” , NXB chính trị QG, HN. 11. Từ Điển Triết học ( Tiếng Việt), ( 1998), NXB Sự Thật Mát xcơ va. 50 PHỤ LỤC MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở ĐBSCL TS. Trần Văn Hiếu ABSTRACT Sustainable development is the common tendency of the world in the present time. To develop subtainably the agricultural production in the Mekong Delta, we need to combine multipurposes to get the balance on the benifits in economy, society and environment. The development serves the demands of the present generation and will not cause any bad effects for the ones in the future. In the past years, the argricutural production in the Mekong Delta has gained many important acchivements, espectially in culturing and cultivating. However, the rapid and unplanned development had caused serious impacts which has destroyed the environment, ruined the balance of ecosystems and influenced the sustainable development. To solve this problem, the author says that we have to plan the argricultural production and aquatic culture in the Mekong Delta, popularize the consciousness of environmental protection in farmer household, carry out the Law of environmental protection and the Law of biodiversity better.... Key words: Sutainable development – Agriculture production – Mekong Delta –The balance of ecosystem – biodiversity – the conciousness of environmental protection.Keywords: Title: Some problems about stainable development in argricultural production in the Mekong Delta.TÓM TẮT Phát triển bền vững là khuynh hướng chung của thế giới trong thời đại ngày nay. Để phát triển một cách bền vững sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL, chúng ta cần kết hợp đa mục tiêu để đạt đến sự cân bằng về lợi ích: kinh tế, xã hội và môi trường. Sự phát triển đó nhằm phục vụ nhu cầu của thế hệ hiện tại và sẽ không gây ra bất kỳ ảnh hưởng xấu nào tới các thế hệ tương lai. Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực trồng trọt và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh chóng và không có kế hoạch đã gây ra những tác động nghiêm trọng làm hủy hoại môi trường , phá hủy môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Để giải quyết vấn đề này, 51 tác giả cho rằng chúng ta cần hoạch định lại sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL, tuyên truyền, phổ biến cho hộ nông dân ý thức bảo vệ môi trường, thực hiện tốt Luật bảo vệ môi trường và Luật đa dạng sinh học v.v... Từ khóa: Phát triển bền vững - sản xuất nông nghiệp - Đồng bằng sông Cửu Long – Cân bằng sinh thái – đa dạng sinh học – Ý thức bảo vệ môi trường. 1. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG, XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI NGÀY NAY Gần đây khái niệm phát triển bền vững ( Sustainable Developement ) được đề cập nhiều trên các sách báo kinh tế. Nói đến khái niệm phát triển kinh tế và phát triển xã hội, phát triển quốc gia hay phát triển địa phương, phát triển tòan cầu hay phát triển khu vực, phát triển đều theo nghĩa phát triển bền vững. Nghị quyết đại hội lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam khi đề ra đường lối phát triển kinh tế cũng nhấn mạnh vấn đề phải gắn việc phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thực hiện phát triển bền vững. Thuật ngữ “phát triển bền vững” ra đời năm 1987 trong Báo cáo của Ủy ban quốc tế về môi trường và phát triển. GH. Bruntland là người đầu tiên nêu lên khái niệm này. Ngày nay, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, song có thể hiểu: Phát triển bền vững là sự phát triển đòi hỏi phải kết hợp đa mục tiêu để đạt tới sự cân bằng về lợi ích, kinh tế, xã hội và môi trường. Tiêu điểm của sự phát triển bền vững là bảo vệ được môi trường sinh thái, sự phát triển mà thỏa mãn được các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến các thê hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của họ.[1] Tư duy phát triển mới này xuất phát từ tình hình vào những năm 70 của thế kỷ XX, các quốc gia trên thế giới muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế đã có những phương thức huy động tối đa mọi tiềm năng, mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Với xu thế kinh tế thế giới như vậy, xã hội loài người sẽ đương đầu với nhiều nguy cơ và hiểm họa trong tương lai gần, đó là ô nhiễm môi trường sống, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, đào sâu hố ngăn cách giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo v.v... Những cảnh báo nghiêm túc của các nhà khoa học làm cho các quốc gia dần dần ý thức được mối quan hệ nhân quả giữa lối sống của loài người với môi trường sinh thái, giữa phát triển kinh tế với bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Phát triển bền 52 vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của họ. Có 3 nội dung cơ bản về phát triển bền vững mà hiện nay các quốc gia đang theo đuổi: - Một là, bảo đảm phát triển kinh tế nhanh và duy trì tốc độ ấy trong thời gian dài. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh thường đi liền với việc đầu tư lớn, khai thác tài nguyên thiên nhiên nhiều khi không giới hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách để tăng sản lượng, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Điều đó thường mâu thuẫn với phát triển bền vững, khó duy trì sự tăng trưởng dài lâu và chắc chắn làm ảnh hưởng đến thế hệ tương lai. - Hai là, môi trường sinh thái được bảo vệ tốt nhất. Vì vậy phải sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tốt nhất, làm cho hệ sinh thái được tái sinh thường xuyên. Nghĩa là, nhịp độ sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp hơn tốc độ tái sinh. Mức độ phát thải ô nhiễm phải thấp hơn khả năng xử lý của môi trường tự nhiên thông qua quá trình làm sạch và lọc khí tự nhiên (như rừng, cây xanh...). Các hoạt động kinh tế và mưu sinh của con người phải được coi là một bộ phận cấu thành của hệ sinh thái và do đó phát triển kinh tế phải bảo toàn sự cân bằng của hệ sinh thái. - Ba là, đời sống xã hội được bảo đảm. Muốn vậy thì trong sự phát triển phải tạo ra một xã hội hài hòa. Bền vững xã hội có nghĩa là không thể để một tầng lớp người hay nhóm người bị gạt ra ngoài tiến trình phát triển của một quốc gia, phân cực giàu nghèo quá mức, dân chủ, bình đẳng xã hội không được bảo đảm ... Như vậy, ý tưởng về phát triển bền vững biểu thị sự hài hòa, đồng tiến hóa và cộng sinh giữa con người, xã hội và giới tự nhiên. Trong mối quan hệ này, con người là trung tâm. Phát triển bền vững được hiểu là sự tương tác hài hòa giữa xã hội của con người và thiên nhiên nhằm bảo vệ sinh quyển mà con người đang sống trong đó và bảo đảm sự phát triển lâu dài vô hạn của con người. Mục đích của sự phát triển bền vững chủ yếu là giải quyết mâu thuẩn giữa nền văn minh và sinh quyển, cái mâu thuẫn có thể dẫn đến sự diệt vong của cả hai, nếu không được khắc phục kịp thời. Những nội dung chung nhất ấy đang được hiểu và thực thi trong những mô hình kinh tế và thể chế chính trị rất khác nhau và vì vậy kết quả đem lại cũng không giống nhau. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. 53 Phát triển kinh tế thị trường là biện pháp, là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả. Tuy vậy, những hạn chế, những mặt trái của cơ chế thị trường, bản thân nó không thể bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Vì vậy, tư tưởng chiến lược của Đảng ta là: Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Từ Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã nhận thấy một trong bốn nguy cơ đối với nền kinh tế nước ta đối với thế giới là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhưng không vì nguy cơ tụt hậu mà lại muốn đi nhanh, không tính đến sự bền vững của nó. Cũng như không vì thiếu vốn đầu tư trước mắt mà khai thác các nguồn tài nguyên đất nước không cân nhắc, sử dụng một cách phung phí, khai thác tài nguyên thô, phải có kế hoạch dài hạn cái gì hôm nay cần sử dụng, cái gì để dành cho con cháu mai sau. Ngày nay, Việt Nam đang hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ta càng phải khắc phục chủ nghĩa thành tích, khuyếch trương về số lượng, không nên xem nhẹ yếu tố về chất, trình độ công nghệ nhập của các dự án đầu tư; nếu không gánh nặng nợ nần không những sẽ trút lên vai các thế hệ mai sau mà còn biến Việt Nam thành bãi thải công nghệ. 2. ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN MỘT NỀN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Phát triển kinh tế bền vững cũng như phát triển nền nông nghiệp bền vững là một trong những nội dung quan trọng trong sự phát triển của kinh tế nước ta. và của ĐBSCL. Trong những năm qua, dưới tác động của những chính sách của Đảng và nhà nước trong nông nghiệp, nông thôn, sản xuất nông nghiệp ĐBSCL đã có những bước tiến vượt bậc. Có thể nói hai lĩnh vực phát triển mạnh nhất trong sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL là trồng lúa và nuôi trồng thủy sản. 2.1. Năng suất, sản lượng lúa không ngừng gia tăng Trong những năm qua, ĐBSCL chẳng những giải quyết tốt vấn đề lương thực của địa phương mà còn góp phần quan trọng gia tăng sản lượng lúa hàng hóa xuất khẩu trên phạm vi cả nước. Nếu so sánh riêng về diện tích gieo trồng, năm 1976, diện tích toàn vùng chỉ đạt 2 triệu 062 nghìn ha, với sản lượng 4 triệu 665 nghìn tấn, năng suất bình quân 20ta/ha, đến năm 1999 với các chỉ tiêu tương ứng là 3 triệu 986 nghìn ha, với sản lượng 16 triệu 281 nghìn tấn và năng suất 40,8ta/ha. Năm 2004, với diện tích toàn vùng 4 triệu 243 nghìn ha, sản lượng đạt hơn 18 triệu tấn quy thóc, năng suất 54 ước đạt 5,5 tấn ha. Năm 2007, sản lượng lúa tòan vùng ước đạt trên 18,45 triệu tấn quy thóc, tăng 210.000 tấn so với năm 2006. Tốc độ tăng sản lượng lúa toàn vùng 30 năm qua bình quân đạt 11%, bỏ xa tốc độ tăng bình quân cả nước (7,8 %) cũng như đồng bằng sông Hồng (5, 35% ) trong thời gian tương ứng. ĐBSCL ngày nay đã trở thành vựa lúa lớn nhất của Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Bảng 1: Sản lượng lương thực ĐBSCL so sánh với Đồng bằng sông Hồng và cả nước Năm Sản lượng lương thực cả nước ( 1000 tấn ) Sản lượng lương thực ĐBSCL ( 1000 tấn ) Sản lượng lương thực ĐBS Hồng ( 1000 tấn ) Sản lượng lương thực ĐBSCL so với ĐBS Hồng Cả nước ( Lần ) ( % ) 2000 34538,9 16754,7 6867,9 2,43 48,50 2001 34272,9 16093,0 6648,1 2,42 46,95 2002 36960,7 17821,6 6999,0 2,54 48,21 2003 37706,9 17678,0 6789,0 2,60 46,88 2004 39322,9 18691,0 7052,3 2,65 47,53 2006 39.621.6 19488.2 6517.9 2,98 49,18 2007 39.648.0 18385.3 6853.8 2,68 46,37 Nguồn: Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2007, tr139. [2 ] 2.2. Về thủy sản Về thủy sản cũng có mức tăng trưởng khá.. Các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy sản trong những năm qua có nhiều tiến bộ. Phong trào nuôi tôm, nuôi cá nước ngọt, cá ruộng cá ao, cá lồng, cá bè v.v..phát triển mạnh ở nhiều địa phương, tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động và nguồn thực phẩm cho xã hội. Diện tích nuôi trồng thủy sản các loại tăng từ 309.399 ha năm 1995 lên 322.551 ha năm 1997, 351.137 ha năm 1999, năm 2004 lên hơn 750.000ha, năm 2007 hơn 800.000ha. Nhờ vậy sản lượng thủy sản đã đạt gần 1 triệu tấn/năm. Vị thế của ngành thủy sản trong cơ cấu nông nghiệp ĐBSCL đã được khẳng định rất quan trọng và đang có xu hướng tăng dần, từ chỗ chỉ chiếm 19% giá trị toàn ngành năm 1995, lên 21% năm 1997 và 39% năm 2004 là 51,61%, năm 2007 là 54,56%. 55 Tuy nhiên việc phát triển nhanh sản lượng lương thực và nuôi trồng thuỷ sản ở ĐBSCL một cách nhanh chóng, ồ ạt cũng đã để lại những vấn đề về môi trường đáng báo động, phá vỡ sự phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Để tăng năng suất, sản lượng các loại cây trồng, nhiều hộ nông dân đã sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, kể cả những loại hợp chất lân, hữu cơ, cacbonat, những loại thuốc bị cấm như: Wolatox, Monitor, DDT v.v..Điều đó, chẳng những làm cho độ mầu mỡ đất đai thêm xấu đi độ PH trong nước thấp, đất bị chua hóa mà còn làm cho môi trường bị ô nhiễm, suy giảm mật độ và thành phần các loại cá sông, mất các rừng ngập mặn, bảo đảm duy trì sự đa dạng sinh học biển. Việc phun, xịt thuốc trừ sâu bừa bãi làm giảm bất cứ loại côn trùng nào kể cả những loài có ích đồng thời gây tổn hại cho động thực vật, vi sinh vật, dẫn đến mất cân bằng sinh thái .v.v..[4 ]. Trong những năm gần đây việc nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh chóng, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của ngành, nhưng cũng đã tác động bất lợi đối với nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh vật, khai thác giống tự nhiên để nuôi đã làm giảm khả năng khôi phục, tái tạo quần thể của nhiều giống loài thủy sản. Việc xây dựng các hệ thống thoát nước làm thay đổi các lớp trầm tích bề mặt, sử dụng nguồn nước ngầm gây lún, lở, xâm nhập nước mặn, thải ra môi trường tự nhiên thức ăn dư thừa, thuốc phòng trị bệnh vật nuôi, hóa chất xử lý môi trường, các chất bài tiết của động vật..làm giảm chất lượng môi trường nước. Nước bị ô nhiễm đã làm ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của người dân như: mắc nhiều chứng bệnh về da, mắt, bệnh phụ khoa, tả, thương hàn...Từ đó, ảnh hưởng đến chất lượng dân số và sự phát triển chung của quốc gia. Theo tính toán sơ bộ của Bộ thủy sản cho thấy, mỗi ha nuôi tôm đã thải ra xấp xỉ 8 tấn chất thải rắn cùng với hàng nghìn khối nước thải trong 1 vụ nuôi. Cả ĐBSCL với hơn 500.000ha diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản thì mỗi năm sẽ thải ra bao nhiêu chất nước thải [5 ]. Nếu theo chỉ đạo của Chính phủ, mục tiêu đến năm 2010, sản lượng ngành thủy sản phải đạt 3,5 triệu tấn ( trong đó tỷ lệ nuôi trồng đạt 2 triệu tấn ) để đạt kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD và 2020 đạt kim ngạch xuất khẩu 8 tỷ USD mà không có kế hoạch thì hậu quả đối với môi trường sẽ như thế nào ?[6 ] Nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Tình trạng tự phát, thiếu quy hoạch diễn ra ở nhiều địa phương. Ở những vùng tăng nhanh diện tích nuôi trồng thủy sản như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang, Đồng Tháp 56 v.v...cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, luôn tiềm ẩn rủi ro lớn, kể cả vấn đề về vệ sinh thú y thủy sản. Những mặt hạn chế trên đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và sự phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến thực trạng hàng ngàn ha tôm chết hàng loạt ở những vùng nuôi trồng thủy sản của ĐBSCL ở Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng v.v....thời gian qua [7 ]. Vấn đề này không chỉ gây dịch bệnh và làm ô nhiệm môi trường trong nuôi trồng thủy sản, chất thải tích tụ trong môi trường nước còn có nguy cơ làm bùng phát các lọai dịch bệnh trên người như: bệnh đường tiêu hóa, sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh giun sán, ký sinh trùng, bệnh suy dinh dưỡng trẻ em và cả ngộ độc thực phẩm hay hóa chất v.vtrong vùng đất ngập nước nuôi trồng thủy sản. 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP Để hướng tới sự phát triển bền vững trong sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL, phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, dưới đây là những giải pháp chủ yếu: - Thực hiện tốt Nghị quyết số 41/NQ –TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị và Quyết định số 34/2005/ QĐ – TTg của Chính phủ về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu là nhằm ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. - Tăng cường công tác quản lý về bảo vệ môi trường, sớm đưa Luật bảo vệ môi trường vào thực hiện trong thực tế, tuyên truyền, phổ biến Luật đa dạng sinh học và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Nâng cao năng lực về quản lý môi trường ở các địa phương, chú trọng ở cấp quận, huyện, phường, xã, tăng cường bảo vệ môi trường tại các khu vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ ở nông thôn. - Tiến hành rà soát quy hoạch lâu dài, đồng bộ sự phát triển sản xuất và nuôi trồng thủy sản ĐBSCL, hạn chế tính tự phát, phát triển không kế hoạch dẫn đến tác động xấu với môi trường. - Tuyên truyền, giáo dục người dân nâng cao ý thức bảo vệ mội trường, tạo thói quen sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tái sử dụng, tái chế chất thải, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý. - Có kế hoạch phục hồi, tái tạo và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ, bảo tồn đa dạng thủy sinh vật, tổ chức khai thác hợp lý nguồn lợi thủy sản, tăng cường nguồn lực 57 tài chính cho mục chi bảo vệ môi trường và bảo đảm tăng dần hàng năm theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tóm lại, vấn đề bảo vệ môi trường trong nông nghiệp nông thôn hướng tới phát triển một nền nông nghiệp bền vững ở ĐBSCL đã và đang là thách thức không dễ giải quyết. Trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội thì vấn đề trên cần có sự quan tâm của mọi người dân, nhất là người dân ở vùng nông thôn. Sự tham gia tích cực của người dân vào các chương trình, dự án bảo vệ môi trường đã và đang triển khai sẽ là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của dự án, góp phần cải thiện môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Xuân Đỉnh “Phát triển bền vững trong định hướng XHCN nền kinh tế thị trường”, Tạp chí cộng sản tháng 3 năm 2005, tr 87. 2. Tổng cục thống kê, “Niên giám thống kê”, năm 2007, tr 139,232. 3. Đức Nguyên, “Bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản”, Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 27 tháng 8, năm 2004. 4. Website: http//w.w.w.vneconomy. com. vn ngày 9/27/2005 “Phát triển bền vững : ngành thủy sản nhìn xa trông rộng.”, ngày 27 tháng 9 năm 2007. 5. Website: http// cpv.com vn Ngày 21/2/2005: “Tổ chức lại sản xuất thủy sản ĐBSCL”.ngày 21 tháng 2 năm 2005. 6. Bộ thủy sản, “Hoạt động khoa học công nghệ vì sự phát triển ĐBSCL”, Tài liệu hội thảo vì sự phát triển ĐBSCL tháng 11 năm 2004, Q2, tr 1. 7. Website: htttp//.qdnd.vn, “ Cấp thiết quy họach nuôi trồng thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu Long”, ngày 21 tháng 6 năm 2007.
File đính kèm:
- giao_trinh_phuong_phap_nghien_cuu_khoa_hoc_phan_2.pdf