Giáo trình Tâm lý học quản lý - Vũ Dũng

Tóm tắt Giáo trình Tâm lý học quản lý - Vũ Dũng: ...ột quá trình kĩ thuật và xã hội nhằm sử dụng các nguồn tác động tới hoạt động con người, nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Theo nghĩa chung nhất từ góc độ của Tâm lí học, quản lí được hiểu như sau: Quản lí là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin ...- Leader Behavior Description Questionnaire). LBDQ đầu tiên được thiết kế để đo 9 loại hành vi lãnh đạo, sau đó thực tế chỉ đo hai dạng hành vi của người lãnh đạo. Đó là hành vi quan tâm và hành vi sáng kiến của người lãnh đạo. - Hành vi quan tâm Hành vi quan tâm được phân biệt bởi mức độ qu...hương mại và sự lãnh đạo linh hoạt có những đặc điểm khác nhau. Hai kiểu lãnh đạo này không có chiến lược giống nhau, nhưng không có nghĩa là chúng không có mối liên hệ với nhau. Trong thực tế ở nhiều trường hợp hai, kiểu lãnh đạo này có thể bổ sung cho nhau. Chẳng hạn, nhiều người lãnh đạo li...

pdf85 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 237 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Tâm lý học quản lý - Vũ Dũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GƯỜI LÃNH ĐẠO  Chương 5: 
QUYỀN LỰC TRONG LÃNH ĐẠO 
Bản thân quyền lực vốn không tốt, không xấu. Bởi vì, nó là công cụ, là phương tiện để quản 
lí xã hội. Công cụ này được sử dụng như thế nào phụ thuộc vào những người nắm quyền lực đó, 
những người có được quyền lực đó trong tay. Khi quyền lực không được sử dụng để phục vụ lợi 
ích của số đông trong tập thể, của đông đảo quần chúng nhân dân xã hội mà phục vụ cho lợi ích 
của một cá nhân, của một số người, tức là việc sử dụng quyền lực này không được số đông và xã 
hội ủng hộ thì khi ấy chúng ta nói quyền lực đã bị suy đồi, bị tha hoá. Sự suy đồi của quyền lực 
trong đời sống xã hội được thể hiện ở những khía cạnh khác nhau. Có thể nêu ra một số biểu hiện 
suy đồi của quyền lực như sau: 
1. Sự lạm dụng quyền lực 
Khi nói đến chuyển đổi quyền lực trong xã hội, Allvin Tomer cho rằng: "Khi nói đến quyền 
lực, trong tâm thức chúng ta không khỏi có ấn tượng xấu, vì nhân loại có khuynh hướng lạm dụng 
quyền lực" (Allvin Tomer, 1990). Khuynh hướng lạm dụng quyền lực là khuynh hướng có tính 
phổ biến trong đời sống xã hội, là khuynh hướng mang tính lịch sử, vì nó tồn tại và đồng hành với 
lịch sử nhân loại. Từ những bộ tộc đầu tiên của con người đến xã hội hiện đại của chúng ta ngày 
nay, quyền lực luôn luôn bị những người nắm lạm dụng. Trong cuốn "Vật thờ và sự cấm kị" 
(Totem & Tabu), S. Freud cho rằng: ở những bộ tộc đầu tiên của con người, người cha - người 
đứng đầu bộ tộc đã dùng sức mạnh (quyền lực) để chiếm đoạt tất cả những người phụ nữ của bộ 
tộc, cũng như dành cho mình nhiều đặc quyền, đặc lợi khác. Chính điều này đã là cho những 
người con trai trong bộ tộc căm giận, phản đối và đứng lên chống lại người cha (S. Freud, 1913). 
 80 
Khi sự phát triển của xã hội càng cao thì sự lạm dụng quyền lực của con người càng đa dạng, 
phong phú hơn và càng tinh vi hơn. 
Đối với nhiều người lãnh đạo, sự lạm dụng quyền lực thường không diễn ra khi người đó 
mới bắt đầu nắm quyền lực, mà diễn ra sau một thời gian quản lí nào đó. Điều này có nghĩa là khi 
mới có quyền lực thì người lãnh đạo thường sử dụng nó đúng với giới hạn mà người đó được 
phép, sử dụng nó phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Khi vị trí quyền lực của mình được củng cố 
và khẳng định thì sự lạm dụng quyền lực mới bắt đầu. 
Trong xã hội phong kiến nhiều triều đại, nhiều vị vua khi đánh đuổi được kẻ thù, bình ổn 
được xã hội (những việc làm hợp lòng dân) thì giai đoạn đầu của triều đại đó họ là các vị vua anh 
minh, vì dân, chăm lo đến muôn dân, nhưng càng về sau, đặc biệt là các thế hệ con cháu kế tiếp, 
các vị vua trở nên lạm dụng quyền lực tạo cho mình cuộc sống sa đoạ, hưởng thụ, có lối sống trái 
với các chuẩn mực đạo đức xã hội, xa rời trách nhiệm quản lí xã hội của mình. Điều này đã là một 
trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự sụp đổ của triều đại đó. Khi nói về xã hội tư bản, K. 
Mác đã chỉ ra: ở những buổi ban đầu, các nhà tư bản là những người cần cù lao động, tiết kiệm, 
nhưng khi đã trở nên giàu có, có quyền lực to lớn trong tay thì họ trở nên những kẻ sống xa hoa, 
hưởng thụ. 
Sự lạm dụng quyền lực có thể vượt ra ngoài hàng rào của pháp luật. Điều đó có nghĩa là 
những người lãnh đạo sử dụng quyền lực của mình quá giới hạn của các chuẩn mực luật pháp của 
xã hội. Điều này thể hiện ở chỗ họ tự tạo ra cho mình những quyền hạn, những lợi ích mà ở vị trí 
đó người lãnh đạo không cho phép có được. Sự lạm dụng quyền lực này. trong cuộc sống của 
chúng ta hiện nay là rất đa dạng. Nó thể hiện trong việc sử dụng con người trong tổ chức (lựa chọn 
người thân tín tạo nên cánh hẩu, bè phái trong cơ quan, trù dập người cấp dưới), trong sử dụng tài 
sản, phương tiện của nhà nước (một số người lãnh đạo đã biến xe công thành xe phục vụ cho cá 
nhân và gia đình anh ta...), trong ban thưởng cho cấp dưới. 
Sự lạm dụng quyền lực vượt ra ngoài hàng rào pháp luật trên thực tế là sự vi phạm các 
chuẩn mực luật pháp. Trong những năm qua, đặc biệt là sau khi chúng ta chuyển sang cơ chế mới, 
một số cán.bộ lãnh đạo của ta đã lạm dụng quyền lực một cách nghiêm trọng, coi thường luật pháp 
của Nhà nước. 
2. Sử dụng bạo lực để đạt được quyền lực 
Một biểu hiện khác của sự suy đồi về quyền lực là việc sử dụng bạo lực để đạt được quyền 
lực. Sử dụng bạo lực như một phương tiện quan trọng để đạt được quyền lực diễn ra ở hầu hết các 
giai đoạn phát triển của lịch sử con người. Nhưng mức độ và cách thức thể hiện ở mỗi giai đoạn có 
khác nhau, còn về bản chất của vấn đề là giống nhau. Đó là để khẳng định quyền lực của giai cấp 
thống trị hoặc của một nhóm người. 
Theo Alvill Tomer, ở chế độ phong kiến, các chủ nông nô dùng thủ đoạn cướp đoạt, bạo 
lực, cưỡng bức nông nô, nông dân để đoạt được của cải, ruộng đất, bóc lột sức lao động của họ... 
Trong cuộc cách mạng công nghiệp, bạo lực vẫn đóng vai trò trọng yếu: "Trẻ học nghề bị máy 
 81 
móc nuốt chửng hoặc bị chủ quất roi, nữ công nhân thợ mỏ bị ngược đãi hoặc cưỡng hiếp, nam 
công nhân bị đánh đập đến bỏ việc." 
Trong xã hội hiện đại của chúng ta, sự dân chủ hoá trong đời sống xã hội ngày một tăng lên 
đã làm cho việc sử dụng bạo lực như là một biện pháp cơ bản để đạt được quyền lực không còn là 
phổ biến nữa. Xu hướng của xã hội là chuyển từ bạo lực sang tri thức để đạt được quyền lực đang 
trở thành phổ biến. Tuy vậy, việc sử dụng bạo lực trong đời sống xã hội vẫn chưa phải đã chấm 
dứt. Ở nước ta trong mấy năm qua đã có một số vụ các ông chủ nước ngoài đánh đập, ngược đãi, 
làm nhục, bóc lột sức lao động quá mức của công nhân... tại một số doanh nghiệp liên doanh ở các 
tỉnh phía Nam là minh chứng của việc dùng bạo lực trong quản lí. 
Một biểu hiện khác của việc dùng bạo lực là sử dụng các hình thức bạo lực ở mức độ tàn 
bạo hơn, ở quy mô lớn hơn như: khủng bố, trấn áp, ám sát, phá hoại... Những hình thức bạo lực 
này được sử dụng nhiều trong thế kỉ XX và cả thập kỉ đầu của thế kỉ XXI. 
Đầu thế kỉ XX, nước Mĩ đã dùng hình thức trấn áp hoặc khủng bô để ngăn cản các cuộc 
đình công của công nhân (chẳng hạn, cuộc tàn sát công nhân ở xưởng sắt thép Chicago, năm 
1937). Vào thập niên 30, ở Mĩ vẫn còn có xí nghiệp thuê bọn lưu manh vũ trang để phá hoại 
những cuộc đình công, uy hiếp lãnh tụ công đoàn và đoàn viên. Ở Nhật, đầu Chiến tranh thế giới 
lần II, các xí nghiệp thuê mướn "bạo lực đoàn" (Yakura) để hăm doạ các lãnh tụ công đoàn và 
ngăn trở công việc của họ (Alvill Toffler, 1991). 
Ở nước ta, trước Cách mạng tháng Tám 1945, thực dân Pháp và giới chủ đã dùng các hình 
thức vũ trang để trấn áp các cuộc đình công của công nhân đòi tăng lương và giảm giờ làm. 
Ám sát là hình thức được sử dụng không ít trên chính trường chính trị trong những thập kỉ 
qua và hiện nay. Trong lịch sử có những cuộc ám sát chính trị đã trở nên nổi tiếng như: cuộc ám 
sát tổng thống Mĩ J. Kennedy năm 1963, cuộc ám sát hai mẹ con thủ tướng ân Độ R. Gan di. Ngày 
nay, các cuộc ám sát chính trị xảy ra phổ biến ở Pakixtan, Afganistan, Trung Đông, Nga và nhiều 
nước phương Tây khác. 
Chủ nghĩa khủng bố hiện nay trở thành một vấn đề đáng lo ngại có tính toàn cầu. Khủng bố 
trở thành nguy cơ và diễn ra thường xuyên ở tất cả các châu lục. Có thể nêu ra một số vụ khủng bố 
điển hình trong mấy năm qua: Vụ khủng bố nước Mĩ ngày 11 tháng 9 năm 2001 vào Toà nhà 
Trung tâm thương mại thế giới ở New York làm hàng nghìn người chết và bị thương là cuộc 
khủng bố đẫm máu nhất trong những thập kỉ gần đây trên thế giới. Vụ đánh bom tại nhà ga ở 
Madrid, Tây Ban Nha ngày 11 tháng 3 năm 2004 làm 191 người chết và bị thương 1900 người và 
vụ khủng bố tại đảo Ban, Indonesia năm 2002 làm hơn 200 người chết cũng là những vụ khủng bố 
lớn trong mấy năm gần đây. 
Vụ khủng bố gần đây nhất là vụ đánh bom thảm khốc vào hệ thống đường sắt ở Mumbai, ấn 
Độ ngày 12 tháng 7 năm 2006 làm hơn 200 người chết và 700 người bị thương. Các cuộc đánh 
bom liều chết xảy ra hàng ngày tại Iraq, Trung Đông. ỏ khu vực Đông Nam Á, khủng bố xuất hiện 
nhiều ở Indonesia, Philippin, miền Nam Thái Lan... 
 82 
Việc sử dụng vũ lực để đạt được quyền lực chính trị nhiều khi được lồng trong luật pháp, 
được sử dụng dưới cái vỏ của luật pháp. Điều này thể hiện rõ nhất đối với nước Mĩ hiện nay. Với 
tư cách là siêu cường thế giới, Mĩ tự đặt ra cho mình nhiều quyền lực để áp đặt cho các nước, nhất 
là các nước yếu. Điều đáng chú ý là Mĩ thường làm việc này dưới chiêu bài nhân quyền, dân tộc, 
tôn giáo và sử dụng thông qua công cụ Liên hợp quốc Cuộc tấn công của Mĩ vào Nam Tư, 
Afganistan, Iraq thời gian qua và những đe doạ dùng vũ lực với trận, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân 
Triều Tiên... hiện nay là những dẫn chứng sinh động cho điều này. 
Created by AM Word2CHM 
VI. MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN LỰC Ở NƯỚC TA 
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ  Phần 2: TÂM LÍ NGƯỜI LÃNH ĐẠO  Chương 5: 
QUYỀN LỰC TRONG LÃNH ĐẠO 
Quyền lực là vấn đề xã hội có tính nhân loại. Nhưng nền văn hoá khác nhau, các dân tộc và 
các quốc gia khác nhau, quyền lực mang những đặc điểm đặc thù. Nói cách khác, quyền lực bị 
khúc xạ qua lăng kính của văn hoá, của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi nước. 
Ở nước ta, quyền lực cũng mang những đặc điểm chung của quyền lực con người, song nó 
cũng có những đặc điểm riêng. Có thể nêu ra một vài đặc điểm riêng của quyền lực ở nước ta. 
1. Quyền lực và lợi ích 
Quyền lực và lợi ích là hai vấn đề luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Có lẽ vì vậy mà các 
cuộc đấu tranh vì quyền lực xảy ra một cách thường xuyên và ngay từ buổi bình minh của nhân 
loại đến xã hội hiện đại ngày nay. 
Ở nước ta, vấn đề quyền lực và lợi ích dường như có những nét riêng. Xã hội phong kiến 
kéo dài hàng ngàn năm ở nước ta đã đặt quyền lực vào tay giai cấp thống trị, tầng lớp địa chủ. Một 
xã hội mà vua chúa và những người trong hệ thống cai trị coi dân như con, tự cho mình quyền ban 
phát và chăn dắt dân chúng. 
Lợi ích của quyền lực tăng lên trong một xã hội với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc 
hậu, tự cung, tự cấp, với trình độ dân trí vô cùng thấp kém như ở nước ta thời kì trước Cách mạng 
tháng Tám. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng cấu kết với tầng lớp quan lại phong kiến 
gia tăng sự bót lột người dân. Trong một xã hội mà giai cấp thống trị dùng chính sách ngu dân để 
cai trị, một xã hội không có không khí dân chủ cởi mở thì sự cam chịu của người dân với số phận 
của mình cao hơn xã hội tư bản. Chính điều này làm cho những kẻ thống trị nhận được nhiều lợi 
ích hơn từ quyền lực của mình. 
Thực trạng xã hội này đã là cơ sở để hình thành một định hướng giá trị trong xã hội và kéo 
dài từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước ta - Định hướng muôn làm quan, học để làm quan, tìm 
 83 
mọi cách phấn đấu để làm quan. Tư tưởng muốn làm quan hiện diện trong phạm vi gia đình, dòng 
họ làng xã và xã hội Một người con đỗ đạt, được làm quan trở thành niềm hãnh diện, tự hào của 
gia đình và dòng họ với làng xã. 
Định hướng giá trị này không chỉ tồn tại trong xã hội cũ mà còn ảnh hưởng nhất định trong 
xã hội mới, khi Đảng và nhân dân ta xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và trong thời kì đổi mới 
hiện nay, tư tưởng này không phải là đã chấm dứt. Trong thời kì của cơ chế bao cấp, tư tưởng phấn 
đấu để trở thành cán bộ, được vào biên chế nhà nước đã trở thành suy nghĩ, thành quyết tâm của 
bao gia đình từ thành thị đến nông thôn. Các gia đình dành dụm, chắt chiu, những người con chăm 
chỉ học hành để phấn đấu cho con được vào đại học, để sau khi đỗ đạt trở thành cán bộ nhà nước 
và bắt đầu con đường đến với quan trường. Nhiều gia đình không muốn cho con đi học nghề để trở 
thành những người thợ, người công nhân lao động trực tiếp. Bởi lẽ, có một nguyên nhân quan 
trọng là con đường này khó đi đến với quyền lực và khó khăn trên con đường thăng tiến. 
Tư tưởng muốn vào đại học, muốn vào biên chế nhà nước ngày nay tuy đã giảm đi, nhưng 
vẫn còn ảnh hưởng đáng kể trong đời sống xã hội. Nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp phố thông 
trung học, mặc dù khả năng khó có thể thi vào được đại học và cao đẳng, nhưng vẫn cố gắng thi 
vào đại học. Tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" là một vấn đề xã hội của chúng ta hiện nay. Ở nhiều 
tỉnh thành của nước ta hiện nay tình trạng thừa cử nhân, kĩ sư, nhưng lại thiếu những công nhân 
lành nghề, công nhân có tay nghề cao cho các khu công nghiệp, đặc biệt là các tỉnh thành phố như: 
Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, đặc biệt là các tỉnh 
thành phố như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Hưng Yên,... Mặc 
dù vậy, số gia đình muốn con em mình và số học sinh muốn vào học tại các trường học nghề hàng 
năm là rất khiêm tốn. 
Do quyền lực gắn chặt với lợi ích nên trong xã hội phong kiến Việt Nam đã xuất hiện hiện 
tượng "mua quan bán tước". Nhiều địa chủ, phú nông đã bỏ tiền ra để mua chức "ông nghị" để 
được có danh, có giá trong làng xã, được ngồi vào mảnh chiếu giữa đình để giải quyết các công 
việc của làng xã. 
Sự suy đồi của quyền lực này đã làm cho một số người có đủ năng lực, có đạo đức tốt 
nhưng không có hoặc ít có cơ hội để được giao cho các vị trí quản lí xứng đáng, trong khi đó một 
số người không có đức, có tài lại được nắm giữ, thậm chí cả những cương vị quản lí quan trọng 
trong xã hội. Tất nhiên, những con người này sẽ sử dụng quyền lực để đạt được các lợi ích cá nhân 
cho mình. Ở một số cơ quan của chúng ta, nhiều người tài giỏi lại ít được sử dụng, trong khi đó có 
người năng lực kém, nhân cách kém, nhưng do biết "quan hệ" tốt lại được trọng dụng. 
2. Quyền lực và sự cục bộ 
Do quyền lợi luôn gắn với lợi ích nên hiện tượng bè phái, cục bộ để đạt được quyền lực đã 
xuất hiện ở nơi này nơi khác trong xã hội chúng ta. 
Trong làng xã Việt Nam thời xưa hiện tượng kéo bè, kẻo cánh để giành quyền lực cho dòng 
họ mình, cho làng mình là hiện tượng thường gặp. Người xưa có câu: "Một người làm quan cả họ 
 84 
được nhờ". Có lẽ, do quan niệm xã hội như vậy mà các dòng họ, các phe phái ra sức tranh giành 
quyền lực với nhau để đem lại lợi ích cho dòng họ và những người cùng phe cánh với mình. 
Trong thời kì bao cấp và cả hiện nay chúng ta có thể vẫn gặp những chi bộ, chính quyền địa 
phương mang tính chất dòng họ, hay một vài dòng họ chia nhau quyền lực trong hệ thống quản lí 
của xã. Khi một người làm chủ tịch hay bí thư thì cố lôi kéo những người họ hàng hoặc cùng phe 
cánh vào làm việc để tạo “cánh hữu” của mình, khống chế những người khác, giành thế mạnh khi 
ra các quyết định quan trọng. Kết quả khảo sát 665 cán bộ lãnh đạo và 487 nhân viên của các 
doanh nghiệp do Khoa Tâm lí xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện tháng 2 
năm 2002 cho thấy: Có 11,25% số người được hỏi cho rằng trong nhiều doanh nghiệp nhà nước 
của ta hiện nay vẫn còn tồn tại tư tưởng cục bộ, hẹp hòi, bè phái. 
Hiện tượng cục bộ, phe cánh đã tác động tiêu cực lớn đến hệ thống quản lí nhà nước. Nó có 
thể gạt bỏ ra ngoài hệ thống quản lí những người có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt. Những 
người lãnh đạo có thể dựa vào và thông qua những quyền lực hợp pháp được giao để mưu cẩu lợi 
ích cho cá nhân, gia đình và những người cùng phe cánh với mình. Có thể nói, động cơ chủ yếu 
của sự cục bộ, bè phái là vì lợi ích của chính những người lãnh đạo và những người thân của họ. 
Hiện tượng cục bộ, bè phái là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự mâu thuẫn, 
xung đột trong cơ quan, hình thành nên các nhóm đối lập, tạo nên bầu không khí căng thẳng trong 
tổ chức. 
Có thể nói sự suy đồi của quyền lực này ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống xã hội nói chung 
và hệ thống quản lí nhà nước nói riêng. Hạn chế, ngăn chặn hiện tượng này là một đòi hỏi, một 
yêu cầu của công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay. 
3. Quyền lực tập thể và quyền lực cá nhân 
Trong một tổ chức, quyền lực thường tồn tại dưới hai dạng: Quyền lực của tập thể và quyền 
lực của cá nhân. Điều đáng nói ở đây là vấn đề này là một đặc điểm có tính đặc trưng của quyền 
lực ở nước ta. 
Sau cách mạng thành công, chúng ta xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong 
suốt một thời gian khá dài từ khi chúng ta bắt đầu xây dựng CNXH đến trước thời kì đôi mới, 
chúng ta quản lí kinh tế - xã hội theo cơ chế tập trung bao cấp. Cơ chế này trong giai đoạn lịch sử 
đó đã đóng góp quan trọng cho sự nghiệp chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Bởi 
lẽ, nó đã tạo tinh thần cộng đồng, sức mạnh tập thể để tập trung sức người, sức của cho cuộc 
kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ thắng lợi. Song, cũng chính cơ chế tập trung bao cấp này đã 
tạo nên một đặc điểm rất đặc thù về quyền lực ở nước ta. Đó là quyền lục mang tính tập thể cao 
độ. 
Trong những năm của cơ chế cũ, mọi quyết định quản lí của tổ chức đều phải thông qua tập 
thể, đặc biệt là bộ tứ (Bí thư Đảng uỷ thủ trưởng cơ quan về mặt chính quyền, Chủ tịch Công đoàn 
và Bí thư Đoàn Thanh niên). Điều này vẫn còn hiện diện ở không ít cơ quan hành chính sự nghiệp 
của chúng ta hiện nay. 
 85 
Quyền lực mang tính tập thể này có những mặt tích cực và những mặt hạn chế. Mặt tích cực 
của nó thể hiện ở chỗ tạo nên phong cách lãnh đạo dân chủ, quá trình ra quyết định quản lí tranh 
thủ được trí tuệ của nhiều người, giảm bớt sự căng thẳng, xung đột trong tổ chức, hạn chế được sự 
độc đoán, chuyên quyền của những người lãnh đạo, nhất là những người lãnh đạo cao nhất của tổ 
chức. 
Mặt hạn chế của dạng quyền lực này tạo nên cộng đồng về trách nhiệm, giảm bớt và trên 
thực tế triệt tiêu trách nhiệm cá nhân của những người lãnh đạo. Khi xảy ra sai lầm, khuyết điểm 
gì thì cả tập thể lãnh đạo chịu trách nhiệm và không có một cá nhân nào chịu trách nhiệm cả. 
Quyền lực mang tính tập thể dẫn tới tình trạng "cha chung không ai khóc", ai cũng làm chủ, nhưng 
trên thực tế không có ai làm chủ thực sự. Khi là việc gì quyết định vấn đề gì thì người lãnh đạo 
này nhìn người lãnh đạo kia, không ai dám mạnh dạn quyết định. 
Một số công trình nghiên cứu tâm lí học xã hội đã nhận định: Khi ở trong nhóm, trong tập 
thể thì cá nhân dễ thực hiện và dám thực hiện hành vi lệch chuẩn hơn là khi cá nhân đó hành động 
một mình. Khi trách nhiệm thuộc về một tập thể thì những người lãnh đạo dễ sử dụng quyền lực 
của mình để phục vụ cho mục đích cá nhân của họ (tức là làm những việc vi phạm các chuẩn mực 
luật pháp và đạo đức) hơn là khi họ phải chịu trách nhiệm cá nhân. 
Có lẽ, chính vì điều này mà ở nước ta ít thấy những trường hợp những người lãnh đạo từ 
chức vì họ thấy mình không hoàn thành chức trách, thấy mình mắc khuyết điểm trong hoạt động 
quản lí cơ quan. 
Việc chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường sẽ dần dần hình thành xu 
hướng giảm bớt quyền lực mang tính tập thể và tăng quyền lực cá nhân. Điều này cũng có nghĩa là 
những người lãnh đạo ngày càng phải nhận thấy trách nhiệm cá nhân của mình cao hơn và nhiều 
hơn. 
Quyền lực mang tính cá nhân không chỉ làm tăng trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo, 
mà còn làm cho người lãnh đạo mạnh dạn hơn, quyết đoán hơn trong việc ra các quyết định quản 
lí. 
Trên đây là những mặt hạn chế về quyền lực trong quá khứ và ảnh hưởng của chúng trong 
xã hội ngày nay. Song khi nói đến vấn đề quyền lực ở nước ta, cần khẳng định một điều là, sau khi 
Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập Nhà nước Dân chủ nhân dân thì quyền lực đã chuyển 
về tay nhân dân. Người dân được làm chủ đất nước. Trong suốt quá trình cách mạng nước ta, Đảng 
và Nhà nước ta luôn luôn phấn đấu cho một xã hội công bằng và dân chủ, làm sao để người dân 
được làm chủ đất nước ở mức độ cao nhất. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta 
phấn đấu để xây dựng một nhà nước pháp quyền "của dân, do dân và vì dân". Trên con đường đi 
tới xây đựng một nhà nước tốt đẹp, chúng ta đã gặp không ít những lực cản tâm lí, trong đó có 
những lực cản về mặt quyền lực - những biểu hiện tiêu cực của quyền lực và ảnh hưởng của chúng 
trong đời sống xã hội ngày nay. Khắc phục những lực cản này là một công việc không dễ dàng vì 
quyền lực luôn gắn với lợi ích. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tam_ly_hoc_quan_ly_vu_dung.pdf