Giáo trình Văn học Việt Nam 1990-1930 - Phan Thị Hồng (Phần 1)

Tóm tắt Giáo trình Văn học Việt Nam 1990-1930 - Phan Thị Hồng (Phần 1): ...ra phục vụ sự nghiệp tuyên truyền cứu nước. Các cây bút Nho học thế hệ cuối cùng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 5 – ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn Thúc Kháng với bút lực vững va...ào Duy Tân nội dung thiên về việc cổ động cho những đổi mới xã hội. Đây là dịp thuận lợi cho những cây bút lớn như Phan Châu Trinh, Đặng Nguyên Cẩn, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế phát huy khả năng dùng văn chương làm vũ khí tuyên truyền cứu nước. Các...về nghĩa đồng bào trong suy nghĩ mọi người. Để tạo lập ý thức làm chủ đất nước phải đổi mới quan niệm về nước về dân, về quan hệ giữa dân và nước. Nước không phải của trời, của vua mà là sản phẩm của nhiều thế hệ cha ông tạo dựng, trách nhiệm bảo...

pdf15 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Văn học Việt Nam 1990-1930 - Phan Thị Hồng (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 giăng bủa, các nhà yêu nước chỉ còn 
có thể làm thơ tâm sự, nuôi dưỡng ý chí. Ngoài đôi lúc mềm yếu nhất thời (1918 – 
Phan Bội Châu viết Pháp – Việt đề huề luận) và dù không còn khí thế như trước 
nhưng các chí sĩ vẫn tiếp tục sáng tác góp tiếng nói vào sự nghiệp chung. 
Đóng góp tích cực của họ được đánh dấu bằng cuộc bút chiến của Ngô Đức 
Kế vạch mặt những kẻ bồi bút cho thực dân trên báo Hữu Thanh. Bài báo Luận về 
chánh học cùng tà thuyết (1924) của Ngô Đức Kế là một sự kiện văn học có ý nghĩa 
chính trị lớn. Âm mưu lấy truyện Kiều ru ngủ thanh niên của Phạm Quỳnh bị phơi 
trần dưới ngòi bút sắc sảo của nhà chí sĩ yêu nước. 
Ngoài các chí sĩ xuất thân Nho học, các thanh niên trí thức tư sản yêu nước 
như Trần Huy Liệu, Hoàng Văn Hoan, Tôn Quang Phiệt... cũng bắt đầu có sáng tác 
văn thơ. Bộc lộ nỗi đau buồn trước vận nước, quyết dấn thân cho sự nghiệp chung, 
kêu gọi mọi người chung lòng cứu nước, đó là nội dung văn thơ những thanh niên 
trí thức yêu nước. Dù sức nóng tinh thần đấu tranh cách mạng có phần suy giảm so 
với trước, nhưng thơ văn yêu nước giai đoạn này vẫn là nguồn động viên, nuôi 
dưỡng những nguồn lực ngấm ngầm đang chờ thời cơ bùng nổ. 
Năm 1930, cùng với sự thành lập của Đảng Cộng sản Đông Dương, văn thơ 
yêu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện. 
Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ số 1 của cách mạng vô sản Việt Nam, đồng thời Người 
cũng là cây bút khai sinh cho văn học cách mạng vô sản Việt Nam. Từ năm 1922 
đến 1930, Người đã làm những việc như: tham gia sáng lập báo Người cùng khổ 
(1922), viết bài cho các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí công sản. Hai 
công trình chính luận có giá trị của Người là Bản án chế độ thực dân Pháp viết ở 
Pháp và cuốn Đường Kách mệnh viết ở Trung Quốc (1927). Ngoài văn chính luận, 
Người còn viết kịch, truyện ngắn, ký. Từ nội dung tư tưởng văn thơ Nguyễn Ái 
Quốc, lý tưởng giải phóng dân tộc gắn với lý tưởng giải phóng loài người bị áp bức 
lần đầu tiên được thể hiện trong văn học Việt Nam. Vì mới ở bước đầu, văn thơ 
theo khuynh hướng cách mạng vô sản lúc bấy giờ “Ngoài ngòi bút độc đáo, nhiều 
chất thép của Bác ra, chưa phải đã có những tác giả, tác phẩm lớn. Nhưng với quan 
điểm giai cấp sắc bén từ đầu, với sự thể hiện nhuần nhuyễn lập trường giai cấp và 
quan điểm dân tộc, với tinh thần cách mạng triệt để và khoa học làm nền, nó là 
tương lai của văn học nước nhà”(1)
(1) Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX... NXB Văn học Hà Nội 1976, tr. 14. 
Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 9 – 
ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn 
2. Một số nội dung trong văn thơ yêu nước của các sĩ phu cấp tiến 
đầu thế kỷ 
a) Tâm tư trước thời đại mới của các nhà yêu nước 
Là những sĩ phu cấp tiến, các nhà yêu nước đều hăng hái, yêu đời, yêu 
nước, đầy chí khí, nghị lực. Ở buổi giao thời của đất nước, tầng lớp sĩ phu cấp tiến 
là kết tinh tình cảm và tinh thần vì nước. Là những “sứ giả của dân tộc đón tiếp tư 
trào mới”, văn thơ là nơi để họ gửi gắm nỗi lo đời, lo nước cao cả. Chí sĩ Phan Bội 
Châu bộc lộ hùng tâm tráng khí của mình trước vận nước còn muôn trùng khó khăn, 
ông viết như tạc chân dung mình trước thời đại: 
 Nước non Hồng Lạc còn đây mãi, 
Mặt mũi anh hùng há chịu ri. 
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi, 
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế. 
(Chơi xuân) 
 Bài Lưu biệt khi xuất dương thể hiện ông là con người hoạt động, năng nổ, 
nhà yêu nước và nhà thơ trong ông hòa quyện làm một, phơi phới lạc quan trước 
giờ lưu biệt đất nước để tìm đường cứu nước. Ông viết thật hùng hồn: 
 Làm trai phải lạ ở trên đời, 
 Há để càn khôn tự chuyển dời. 
 Trong khoảng trăm năm còn có tớ, 
 Sau này muôn thuở há không ai. 
 Non sông đã chết sống thêm nhục, 
 Hiền thánh còn đâu học cũng hoài. 
 Muốn vượt bể đông theo cánh gió, 
 Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi. 
Tâm tư nhà chí sĩ trĩu nặng nỗi lo cho vận nước, đồng thời cũng chất chứa 
những mộng nước cứu nước lớn, đầy hào hứng. 
Nếu ở các nhà Nho Cần Vương ta không thấy sự nhẹ nhõm của họ trong tâm 
tư thì với các chí sĩ đầu thế kỷ XX, họ đã như những cánh én báo trước vận hội mới 
của đất nước. Tuy thế, cũng có những giây phút họ thật sự ưu tư trước thảm cảnh nô 
lệ của dân tộc. Phan Châu Trinh giãi bày nỗi lo buồn khi nhìn vào hiện thực, ông 
viết như than rằng: 
Việc đời ngoảnh lại còn chi, 
Anh hùng hết nước mất vì giang san. 
Muôn dân nô lệ một đàn, 
Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say. 
Trăm năm cam chịu đọa đày, 
Thì bao giờ mới hết ngày lao lung. 
Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 10 – 
ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn 
Còn đây là nỗi buồn vì nước của chí sĩ Ngô Đức Kế trong bài Cảm tác: 
 Nước cũ hồn xưa gọi chửa về, 
 Buồn rứt gãi đầu trong cõi Bắc, 
 Mịt mù mưa bụi kéo tư bề. 
Là những nhà Nho yêu nước có hoài bão lớn, thơ tâm sự của Phan Bội Châu, 
Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế... nhìn chung tràn ngập một 
tinh thần phấn khích, một tư thế vững vàng trước thời đại mới. Ưu tư, sầu muộn chỉ 
là những giây phút quá lo lắng trước vận mệnh giang sơn. Bởi vậy, tuy vẫn mang 
tính chất “thi ngôn chí” nhưng mảng thơ này của họ đã mang một sắc thái tinh thần, 
tư tưởng mới, khác với các nhà Nho lớp trước. 
Có khả năng hoạt động trong một không gian rộng lớn, tích cực tiếp nhận 
những luồng gió mới từ bên ngoài thổi vào, đó là một trong những nét đổi mới về 
tính cách, tư tưởng của các sĩ phu cấp tiến mà thơ họ phần nào đã phản ánh được. 
Công cuộc đấu tranh cứu nước, giải phóng dân tộc đầu thế kỷ được đẩy lên một 
bước mới nhờ vào nỗ lực đổi mới ấy của họ. 
b) Tư tưởng mới, duy tân để tự cường, giành độc lập 
+ Tạo lập ý thức làm chủ đất nước 
Để cổ động cho ý thức trách nhiệm mới của dân đối với nước, các chí sĩ đã 
viện dẫn những truyền thuyết về dòng giống chung của người Việt đối với những 
nhân vật nửa thực nửa huyền thoại như Lạc Long, Âu Cơ với dòng dõi Tiên, Rồng 
cao quí. Từ truyền thuyết Lạc Long, Âu Cơ đẻ 100 trứng trong một bọc, họ nhấn 
mạnh ý thức về nghĩa đồng bào trong suy nghĩ mọi người. Để tạo lập ý thức làm 
chủ đất nước phải đổi mới quan niệm về nước về dân, về quan hệ giữa dân và nước. 
Nước không phải của trời, của vua mà là sản phẩm của nhiều thế hệ cha ông tạo 
dựng, trách nhiệm bảo vệ đất nước, tài sản chung cha ông để lại thuộc tất cả con 
cháu, tức tất cả mọi người dân trên đất nước. 
Các nhà yêu nước cấp tiến lúc bấy giờ quan niệm: dân cư trên đất nước Việt 
Nam vốn cùng một mẹ, một bọc trứng mà ra, một quan hệ giống nòi. Bởi thế, đất 
nước Việt Nam là gia sản chung của tổ tiên truyền lại, là gia tài chung của tất cả 
mọi người. Nhà yêu nước Phan Bội Châu khẳng định: “Dân là dân nước nước là 
nước dân” (Hải ngoại huyết thư) để nhấn mạnh vai trò làm chủ của người dân đối 
với đất nước. 
Việc tạo dựng lòng yêu nước, ý thức cứu nước trên cơ sở quan niệm mới về 
đất nước, về nghĩa đồng bào như vậy đã chứng tỏ sự nỗ lực của các nhà yêu nước 
khi tìm kiếm cơ sở lý luận mới cho tư tưởng yêu nước mới, từ đó tìm đường cứu 
nước mới. Khi viết những câu thơ như: 
Hồn xưa dòng dõi Lạc – Long, 
Con nhà Nam Việt người trong giống nòi 
Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 11 – 
ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn 
(Địa dư lịch sử nước nhà – Ngô Quí Siêu) 
Thực sự các nhà yêu nước nhằm gây dựng tình cảm, trách nhiệm của mỗi 
người dân đối với đất nước. Ý thức về sự quan trọng của việc chung sức chung lòng, 
các nhà yêu nước kêu gọi: 
Đã sinh cùng giống cùng nòi, 
Cùng trong đất nước là người đồng thân. 
Phải coi ruột thịt cho gần, 
Phải thương, phải xót, quây quần lấy nhau. 
(Địa dư lịch sử nước nhà – Ngô Quí Siêu) 
Nước là của dân, dân phải có trách nhiệm với nước, phải đoàn kết để tạo 
nên sức mạnh cứu nước. Đó là một trong những nét mới của tư tưởng yêu nước, cứu 
nước mà các chí sĩ đầu thế kỷ đã tìm tòi phát biểu với tất cả tình cảm của họ trong 
các tác phẩm tuyên truyền cổ động cứu nước. 
+ Tạo lập nhận thức về nỗi nhục mất nước, kêu gọi đoàn kết cứu nước 
Đây gần như là một sự thức tỉnh, một phát hiện lớn khi các chí sĩ có dịp đi ra 
nước ngoài, được nhìn nhận sự văn minh cường thịnh của các nước trên thế giới, 
điển hình nhất là Nhật, một nước đồng văn đồng chủng gần gũi. Nước mất, dân cơ 
cực trong cảnh nô lệ, vua chỉ là “tượng gỗ”, họa diệt chủng bày ra trước mắt, đó là 
thảm trạng đau thương mà các chí sĩ yêu nước với tất cả văn tài và nhiệt huyết cứu 
nước đã vẽ ra trong các bài thơ cổ động cứu nước. Ta có thể cùng đọc thấy điều này 
trong Hải ngoại huyết thư (Phan Bội Châu), Bài ca Á tế á (khuyết danh), và ít nhiều 
trong Tỉnh quốc hồn ca (Phan Châu Trinh), Hợp quần doanh sinh thuyết (Nguyễn 
Thượng Hiền) v.v... 
Tác giả Bài ca Á tế á sau khi ca ngợi sự cường thịnh của Nhật đã ngồi nghĩ 
“thêm sầu lại tủi” cho nước nhà đang trong cảnh “Vua là tượng gỗ dân là thân 
trâu”. Chủ quyền đất nước không còn, mọi ngành kinh tế quan trọng đều nằm trong 
tay thực dân, người Việt Nam chỉ còn “Kẻ chức bồi người trước cu li”, hoặc đi làm 
thông ngôn, kí lục. Tầng lớp nông dân thì bị vắt kiệt nguồn sống vì hàng trăm thứ 
thuế, khốn cùng vì phu phen tạp dịch. Họa diệt chủng quả thật đang treo lơ lửng, đe 
dọa số phận cả một nước vốn có lịch sử vinh quang. Tác giả bài ca như giãi bày nỗi 
lo sâu thẳm: “Họa diệt chủng vừa thương vừa sợ. Nòi giống ta biết có còn không?”. 
Dũng cảm nhìn vào sự thật đen tối của đất nước, để rồi uất ức đến “bầm gan tím 
ruột”, để thức tỉnh và kêu gọi “anh em” “vạch trời kêu mà tuốt gươm ra” không 
chịu sống trong vòng trói buộc của thực dân cướp nước, đó là mục đích của Bài ca Á 
tế á. Lời văn tác phẩm khi lâm li, thống thiết, khi hùng hồn rất kích động lòng 
người. Đó cũng là giọng văn phổ biến của các áng văn chương tuyên truyền cứu 
nước đầu thế kỷ. 
Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 12 – 
ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn 
Những vấn đề lớn đặt ra trong Bài ca Á tế á đồng thời cũng là những vấn đề 
quan trọng trong tác phẩm Hải ngoại huyết thư (hai tác phẩm ra đời gần như trong 
cùng một thời gian) của Phan Bội Châu. Ta bắt gặp ở hai áng văn cổ động cứu quốc 
một phong cách văn chương nhưng về tầm vóc nội dung và số lượng câu chữ, Hải 
ngoại huyết thư đã vượt hẳn Bài ca Á tế á. 
Sau thất bại của phong trào Cần Vương, các nhà yêu nước Việt Nam rút ra 
bài học: muốn đánh Pháp giành độc lập phải làm sao cho dân giàu, nước mạnh. Từ 
quan điểm mới này, họ ra sức tuyên truyền, vận động cải cách văn hóa, xã hội, cổ 
vũ duy tân đất nước trên nhiều lĩnh vực. Bởi vậy, cùng với tư tưởng đấu tranh giành 
độc lập các nhà yêu nước còn kêu gọi tự cường, phát triển công thương nghiệp. Các 
tác phẩm tuyên truyền cứu nước tiêu biểu lúc bấy giờ đều cổ vũ nhân dân học làm 
công nghệ, học kinh doanh, làm ăn buôn bán. 
Phan Bội Châu trong Hải ngoại huyết thư uất ức vì thực dân cố ý kìm hãm 
người Việt Nam trong vòng lạc hậu với chính sách giáo dục nô dịch: 
 Trường quốc học đặt tên Pháp – Việt, 
 Dạy người Nam đủ biết tiếng Tây. 
 Đến như trăm thứ nghề hay, 
 Binh cơ điện hóa không thầy dạy khôn. 
 Lối nông học hãy còn ngơ ngẩn, 
 Việc công trường thơ thẩn biết chi.... 
Noi gương tự cường của Nhật Bản, tác giả bài ca Á tế á kêu gọi đổi mới giáo 
dục, thực hiện cải cách kinh tế, văn hóa, xã hội để đất nước hòa nhập vào trào lưu 
đổi mới của địa cầu. Muốn thế, phải : 
 Việc tân học kíp đem dựng trước, 
 Hợp doanh đoàn cả nước cùng nhau. 
 Việc buôn ta lấy làm đầu, 
 Mọi người cùng với địa cầu một vai. 
Muốn “doanh sinh”, “học nghệ”, “hưng công”, phát triển nông nghiệp, 
thương nghiệp, tác giả Hợp quần doanh sinh thuyết kêu gọi người Việt Nam hãy 
“hợp đoàn thể”, lập hội góp vốn xây dựng cơ sở sản xuất. Để “kinh thương” phát 
triển, phải “nuôi thợ khéo, phải cầu nghề hay”, phải “lẽ hơn thua bàn bạc với 
nhau”. Công cuộc “khai dân trí” “chấn dân khí” thành công tất sẽ tạo được sự giàu 
mạnh, ấm no: 
 Dân trí đã xem dường hơn trước, 
 Dân khí kia cũng được ra tuồng. 
 Hẳn sau nên nghiệp phú cường, 
 Lo gì nghèo ngặt trăm đường xót xa. 
(Hợp quần doanh sinh thuyết - Nguyễn Thượng Hiền) 
Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 13 – 
ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn 
Trong điều kiện khó khăn, bế tắc về đường lối của các phong trào yêu nước 
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các áng văn trên đã góp phần khơi mở một con 
đường cứu nước mới có sức thuyết phục, gây được tin tưởng vào thắng lợi. 
Để duy tân đất nước, tác gia văn thơ yêu nước đầu thế kỷ còn tập trung đả 
phá cái cũ, cái lạc hậu trong tư tưởng, văn hóa, xã hội. Các tư tưởng phục cổ, tâm lý 
hám danh, các hủ tục trong đời sống xã hội đều bị lên án. Đặc biệt, các nhà Nho 
yêu nước đã dũng cảm phê phán nền học thuật cũ là giáo điều nặng tính văn 
chương, xa rời thực tế. Đi liền với điều này các nhà Nho hủ với tính tự kiêu tự đại, 
xem kiến thức sách vở là tất cả cũng bị lên án. Từ việc phân tích hạn chế của nền 
học thuật cũ, các nhà yêu nước kêu gọi xây dựng nền học thuật mới có tính chất 
dân tộc và thực nghiệp. Người Việt Nam cần phải học các môn khoa học, địa lý, 
phải học buôn bán, kinh doanh công thương nghiệp v.v... Trong thi cử thì phương 
pháp thi là “Đặt câu hỏi, cho phép học sinh bàn luận tha hồ đối đáp tự do, không 
phải nề hà, không cần thể cách gì hết” (Văn minh tân học sách - Khuyết danh). 
Quan điểm học thuật mới đề cao lí trí, tư duy, óc sáng tạo. Đó được xem là 
điều quan trọng thúc đẩy sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, đưa đất nước thoát 
khỏi tình trạng lạc hậu của chế độ phong kiến. Đương thời, các chỉ sĩ không chỉ hô 
hào, cổ động mọi người mà họ còn trực tiếp đứng ra lập hội buôn, mở xưởng công 
nghiệp (Đỗ Phiên làm lò nung bát đĩa), mở trường dạy chữ quốc ngữ, toán, thể dục, 
các môn khoa học (Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp...) 
Với nội dung mới mẻ, lại được phổ biến sâu rộng trong công chúng, văn học 
các nhà Nho yêu nước đầu thế kỷ đã trở thành một bộ phận đặc sắc, mang tính dân 
tộc cao của văn học cận đại Việt Nam. 
[ [ 
[ 
Ngoài những đổi mới về nội dung, tác phẩm văn học của các nhà Nho yêu 
nước đầu thế kỷ còn có những điểm khác trước như sau: 
1. Nếu như cuối thế kỷ XIX, các bài chiếu, biểu, văn tế, hịch, câu đối, thơ 
cảm hoài chiếm số lượng lớn trong văn học yêu nước thì đầu thế kỷ XX các bài ca 
tuyên truyền, cổ động viết bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát lại nổi lên hàng 
đầu. Bởi lẽ, sử dụng hai thể thơ này, ngoài việc truyền đạt được thuận lợi hơn 
những điều cần thể hiện, người viết còn tác động đến đối tượng đông đảo công 
chúng tuyên truyền một cách mạnh mẽ hơn. Sự lựa chọn thể thơ như vậy biểu hiện 
mối quan hệ giữa tác giả và công chúng, đánh dấu một thay đổi lớn trong đời sống 
văn học dân tộc. 
2. Hiện tương thơ văn các nhà Nho yêu nước được sáng tác hàng loạt, phổ 
biến rộng rãi, gần như tương tự nhau về nội dung tử tưởng là điều rất mới so với 
Văn học Việt Nam 1900 – 1930 - 14 – 
ThS. Phan Thị Hồng Khoa Ngữ Văn 
quá trình sáng tác mang tính tự phát, cá nhân riêng lẻ trước đây. Văn chương các 
nhà Nho yêu nước không dừng lại ở việc “chở đạo” một cách chung chung nữa mà 
thật sự là vũ khí số một trong công cuộc chống thực dân phong kiến, duy tân đất 
nước. Chính sự nảy nở của các tầng lớp người mới trong xã hội và điều kiện thông 
tin thuận lợi hơn trước đã khiến cho tác phẩm của các nhà Nho yêu nước được lưu 
truyền nhanh chóng, công chúng đón tiếp nồng nhiệt thành phong trào rầm rộ trên 
toàn quốc. Đó là những thay đổi “tuy mới chỉ là bước đầu nhưng là thay đổi trong 
tác giả, trong công chúng, trong bản thân văn học” (Trần Đình Hượu – Lê Chí 
Dũng) 
3. Để văn thơ tuyên truyền yêu nước nhanh chóng đến với đông đảo công 
chúng, các nhà Nho duy tân thấy rằng cần phải cải cách văn tự, ngôn ngữ, nghệ 
thuật văn học. Bởi chữ Hán, chữ Nôm cũng như ngôn ngữ nghệ thuật văn học nhà 
Nho khiến đại đa số nhân dân ta rất khó tiếp cận. Để giải quyết vấn đề này, các 
nhà Nho sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục chủ trương dùng chữ quốc ngữ, viết văn 
xuôi. Hầu hết các áng văn tiêu biểu đều được viết bằng quốc ngữ hay nhanh chóng 
được dịch ra quốc ngữ ngay sau khi xuất hiện. Đặc biệt bài Phú cải lương kêu gọi 
duy tân của Hoàng Giáp Nguyễn Thượng Hiền lại sử dụng toàn tục ngữ và thành 
ngữ. Với ngôn ngữ dân tộc, lời văn súc tích, giọng văn lôi cuốn, truyền cảm các tác 
phẩm lớn như Hải ngoại huyết thư, Bài ca Á tế á, Hợp quần doanh sinh thuyết v.v... 
là những áng văn nghệ thuật xuất sắc. 
Đặt trong lịch sử vận động, phát triển của văn học dân tộc – văn học 30 năm 
đầu thế kỷ của các nhà Nho yêu nước có một đóng góp quan trọng: “Trong một thời 
gian ngắn ngủi của buổi giao thời, văn chương yêu nước của người chí sĩ dân tộc – 
dân chủ chưa tạo ra những giá trị thật đặc sắc. Nhưng những cái mới mà nó mang 
vào đời sống văn học lại rất có ý nghĩa với lịch sử phát triển văn học dân tộc. 
Những cách tân của các nhà Nho yêu nước chưa đưa lại những tác phẩm lớn, nhưng 
lại chuẩn bị cho văn học sau đó phát triển”(1). 
[	] 
VẤN ĐỀ ÔN TẬP 
1. Những nội dung chính của văn học yêu nước ba mươi năm đầu thế kỷ? 
2. Đặc điểm về hình thức nghệ thuật của văn học yêu nước ba mươi năm đầu thế 
kỷ? 
(1) Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Sđd, tr. 106. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_van_hoc_viet_nam_1990_1930_phan_thi_hong.pdf