Liên kết vùng trong phát triển du lịch ở khu vực Bắc miền Trung: Y tưởng tiếp cận và gợi ý chính sách

Tóm tắt Liên kết vùng trong phát triển du lịch ở khu vực Bắc miền Trung: Y tưởng tiếp cận và gợi ý chính sách: ...oạt động du lịch ở vùng BTB chưa thu lại được hiệu quả tốt nhất, nguyên nhân là do các tỉnh khai thác du lịch còn mang tính chất tự phát, manh mún. Thiếu sự liên kết giữa các địa phương, các trung tâm du lịch, lữ hành và ban quản lý các điểm du lịch. Các điểm du lịch thiếu sự đồng bộ, chuyên n..., do vậy dễ gây ra tình trạng cạnh tranh (như trong lĩnh vực du lịch và nuôi trồng thủy sản), thậm chí “cạnh tranh xuống đáy”, ví dụ điển hình là phá rào trong ưu đãi đầu tư để cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài (FDI). Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(1) - Tháng 6/20138 - Chính sách c...Hợp tác trong việc huy động vốn đầu tư và xây dựng cơ chế, chính sách để đầu tư phát triển chung của Vùng; - Phối hợp xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch và trong phát triển, quảng bá văn hoá toàn Vùng; - Cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của Vùng; - H...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Liên kết vùng trong phát triển du lịch ở khu vực Bắc miền Trung: Y tưởng tiếp cận và gợi ý chính sách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu du lịch giữa
các địa phương trong Vùng còn yếu kém,
chưa đẩy mạnh công tác quảng bá hình ảnh,
xây dựng thương hiệu dựa trên thế mạnh riêng
của từng tỉnh. Quảng bá, xúc tiến là một trong
những khâu yếu nhất của các tỉnh Bắc Trung
Bộ. Do toàn Vùng không có một chủ đề - chủ
điểm - hình ảnh thống nhất, không được phân
công, tổ chức một cách chặt chẽ nên thương
hiệu của các địa phương không tạo được ấn
tượng mạnh mẽ. Điều này không chỉ làm cho
du khách bối rối mà ngay cả các công ty du
lịch lữ hành cũng không biết phải bắt đầu từ
đâu và tập trung vào đâu.
- Liên kết phát triển du lịch ở khu vực Bắc
Trung Bộ, còn phải đối mặt với những “điểm
nghẽn”, thách thức trong phát triển: như hạ
tầng, dịch vụ du lịch yếu kém, thiếu hụt
nguồn nhân lực du lịch, nguồn lực đầu tư cho
phát triển du lịch còn hạn chế, thiên tai và khí
hậu khắc nghiệt đang là mối hiểm hoạ đối với
các di tích, danh lam thắng cảnh.
Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(1) - Tháng 6/2013 7
Mặc dù, Tổng cục du lịch Việt Nam đã xây
dựng một chương trình xúc tiến, liên kết hợp tác
giữa các địa phương trong xây dựng sản phẩm
liên vùng và xúc tiến quảng b ásản phẩm du lịch,
nhưng hiện nay ở khu vực Bắc Trung Bộ mới chỉ
có tỉnh Thừa Thiên Huế xây dựng chương trình
liên kết với Đà Nẵng và Quảng Nam.
 - Phát triển du lịch biển đảo hiện đang
đứng trước nguy cơ suy giảm tài nguyên và sự
xuống cấp của môi trường.
Các tỉnh tập trung đầu tư quá nhiều cho hệ
thống dịch vụ lưu trú như khách sạn, resort -
sân golf (nhưng lại thiếu quy hoạch chung)
nên rất manh mún, lãng phí tài nguyên đất tại
những khu vực bãi biển đẹp nhất miền Trung.
Tại nhiều nơi, hệ thống giao thông và cấp
thoát nước, vệ sinh chưa theo kịp nên đã gây
khó khăn cho việc thu hút khách cũng như
gây ô nhiễm môi trường nặng nề.
Từ thực tế, liên kết vùng trong thời gian qua
chúng ta có thể rút ra một số nhận xét bước đầu
như sau:
Một là: do thiếu “nhạc trưởng” trong hoạt
động điều phối liên kết Vùng là hạn chế lớn
nhất hiện nay. Các nội dung liên kết là do tự
thỏa thuận, chưa có sự chỉ đạo của Chính phủ,
không được điều phối và triển khai như mong
muốn; mặt khác không tạo ra được cơ chế để
giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các địa
phương tham gia liên kết. Việc thiếu một cơ
quan đầu mối và một cơ chế điều phối có hiệu
quả, hiệu lực để phối hợp hành động, điều hòa
lợi ích, giải quyết bất cập và làm cầu nối với
Chính phủ khiến cho liên kết vùng ở Việt
Nam khó ràng buộc, ít cơ hội thành công.
Hai là, thiếu cơ chế tài chính cho hoạt
động liên kết vùng: hoạt động liên kết vùng
về bản chất vượt quá khuôn khổ riêng của
từng địa phương. Trong bối cảnh các tỉnh hiện
nay phải nhận trợ cấp từ Trung ương (một số
tỉnh thậm chí còn chưa tự chủ được các khoản
chi thường xuyên) khi nguồn lực cho phát
triển tại địa phương còn chưa lo xong thì rất
khó nói đến việc cùng nhau đóng góp tài
chính để lo cho sự nghiệp phát triển của toàn
Vùng. Vì vậy, các cam kết hợp tác và liên kết
hiện nay chủ yếu xuất phát từ ý chí chính trị
chứ chưa có các biện pháp cụ thể và bằng
những lực lượng vật chất cụ thể.
Ba là, theo Luật Ngân sách hiện nay, có
bốn cấp ngân sách là ngân sách Trung ương,
ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và
ngân sách cấp xã. Vì vậy, nguồn tài chính
hiện nay dành cho hoạt động liên kết vùng
chủ yếu đến từ các chương trình đầu tư phát
triển của Trung ương.
Bốn là, thiếu một cơ chế chia sẻ thông tin
giữa chính quyền các địa phương trong Vùng.
Mặc dù mỗi tỉnh, thành trong Vùng đều xây
dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đều
có các chương trình đầu tư, xúc tiến thương
mại và du lịch ... Song, vì nhiều lý do khác
nhau, những thông tin chính sách quan trọng
này lại chưa được chia sẻ giữa các địa phương
một cách hiệu quả. Khi không có thông tin về
chính sách của các tỉnh bạn thì rất khó để các
tỉnh có thể cùng nhau thảo luận các chương
trình hợp tác và liên kết.
Năm là, chưa định hình một cách có hệ
thống, có ưu tiên, và có cơ sở khoa học cho
các nội dung liên kết vùng. Hiện nay, các nội
dung liên kết thường mang tính chung chung,
và trong một số trường hợp có tính duy ý chí
chứ ít dựa trên những luận chứng khoa học và
thực tiễn thuyết phục. Bên cạnh đó, trong khi
nguồn lực thì hữu hạn mà nội dung liên kết lại
khá ôm đồm (với khẩu hiệu “Liên kết toàn
diện”), nhưng không có ưu tiên cụ thể trong
từng giai đoạn, cho từng mối quan hệ (vùng,
tiểu vùng, song phương) nên tính khả thi của
các hoạt động liên kết rất thấp. Bên cạnh đó,
nội dung và phương thức liên kết chủ yếu xuất
phát từ ý chí của chính quyền các địa phương
mà ít tham khảo ý kiến của các đối tượng có
liên quan. Trong đó, đặc biệt quan trọng là
cộng đồng doanh nghiệp - vốn là “lực lượng
vật chất” để thực hiện các nội dung liên kết
được đề ra.
Sáu là, tồn tại nhiều xung lực phá vỡ liên
kết vùng như:
- Lợi thế cạnh tranh của các tỉnh, thành
trong Vùng tương tự nhau, do vậy dễ gây ra
tình trạng cạnh tranh (như trong lĩnh vực du
lịch và nuôi trồng thủy sản), thậm chí “cạnh
tranh xuống đáy”, ví dụ điển hình là phá rào
trong ưu đãi đầu tư để cạnh tranh trong thu
hút đầu tư nước ngoài (FDI).
Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(1) - Tháng 6/20138
- Chính sách của các địa phương còn nặng
tính phong trào chứ chưa thực sự hữu hiệu
trong việc khai thác các thế mạnh đặc thù hay
lợi thế cạnh tranh của địa phương mình. Trên
thực tế, mỗi địa phương đều hiểu rằng để phát
triển kinh tế nhanh và bền vững thì phải dựa
vào lợi thế nổi trội của mình.
- Nhiều tỉnh vẫn muốn duy trì cơ cấu sản
xuất toàn diện và khép kín. Do vậy, dồn
nguồn lực cho lĩnh vực mình không có lợi thế
cạnh tranh, đồng thời từ chối khai thác thế
mạnh của các tỉnh có lợi thế cạnh tranh. Công
thức “lý tưởng” về cơ cấu kinh tế công nghiệp
- dịch vụ - nông nghiệp có thể thích hợp cho
cả nước nhưng chưa chắc đã phù hợp cho toàn
vùng với những thế mạnh sẵn có. Nhiều tỉnh
muốn khép kín quy trình sản xuất, vì vậy mặc
dù không có lợi thế về nuôi trồng con giống
song khi thấy tỉnh bạn tự cân đối được con
giống thì mình cũng muốn có.
Bảy là, các hạn chế xuất phát từ Trung ương
cấp độ Vùng và địa phương còn tồn tại
phổ biến tình trạng chia cắt về không gian
kinh tế. Khi tốc độ (chứ không phải chất
lượng) tăng trưởng GDP được sử dụng làm
thước đo gần như duy nhất cho thành tích
phát triển kinh tế thì một cách tự nhiên, mỗi
địa phương sẽ chạy theo các lợi ích cục bộ địa
phương, tìm mọi cách để có tốc độ tăng GDP
cao hơn, trong đó cách đơn giản nhất có lẽ là
tăng đầu tư từ nguồn xin được của Trung
ương. Hơn nữa, do không có cơ chế điều phối
hữu hiệu giữa các địa phương trong cùng một
vùng nên các tỉnh đều "mạnh ai nấy xin
Trung ương", "mạnh ai nấy đầu tư", cho dù có
thể biết rằng làm như vậy sẽ khiến hiệu quả
đầu tư chung của cả vùng giảm sút. Kết quả là
vô hình chung địa giới hành chính đã trở
thành biên giới kinh tế giữa các địa phương.
Bên cạnh đó, tư duy “nhiệm kỳ” khiến việc
chạy đua GDP càng trở nên gấp gáp, và
thường thì quyết định càng vội vã, xác xuất
phạm sai lầm càng lớn, nhất là khi người ra
quyết định nhiệm kỳ sau không còn ở đó để
nhận lãnh trách nhiệm cho quyết định của
mình. Như vậy, trong bối cảnh thể chế hiện
nay, tầm nhìn của lãnh đạo địa phương bị giới
hạn về cả không gian (địa giới hành chính) và
thời gian (nhiệm kỳ 5 năm).
Sự phân mảnh về thể chế không chỉ nằm ở
phạm vi của các tỉnh, thành giữa chính quyền
Trung ương và địa phương, mà còn giữa
những Bộ, ngành khác nhau của Trung ương.
Mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí xung đột
giữa các chính sách và các quy định khác
nhau, thiếu sự gắn kết giữa kế hoạch ngắn hạn
và chiến lược dài hạn; sự phối hợp liên ngành
trong xây dựng nội dung cũng như thực hiện
chính sách và thiếu cơ chế để buộc các Bộ
làm việc cùng nhau.
3. Một số gợi ý chính sách tăng cường liên
kết vùng ở Bắc Trung Bộ
3.1. Cần đẩy mạnh tăng cường nhận thức
về liên kết vùng cho các cấp lãnh đạo ở các
tỉnh vùng Bắc Trung Bộ.
Điều cần quan tâm chính là để lãnh đạo
các địa phương cần có sự phân biệt một cách
rõ ràng rằng liên kết vùng hoặc hội nhập vùng
không thể chỉ là kết quả của một quyết định
pháp lý, cho dù điều đó là hết sức quan trọng.
Tính quyết định của sự liên kết này nằm ở sự
liên kết thực tế (integration de facto) dựa trên
3 sự kết nối chủ yếu: a) Kết nối về hạ tầng (cả
hạ tầng cứng và hạ tầng mềm); b) Kết nối
doanh nghiệp dựa trên mạng sản xuất và
chuỗi giá trị; và c) Kết nối về thể chế và chính
sách mà quan trọng nhất chính là cơ chế phối
hợp chính sách. Nói cách khác, liên kết vùng
chỉ có thể có hiệu quả, nếu bản thân quá trình
này đạt được sự tương tác hài hoà giữa liên
kết danh nghĩa, pháp lý (intgration de jude)
với liên kết thực tế (integration de facto).1
3.2. Cần xúc tiến xây dựng chương trình và
chiến lược liên kết phát triển kinh tế-xã hội
Từ thực tế, quá trình phát triển cho thấy,
nếu chỉ dựa vào "lợi thế tĩnh" về điều kiện tự
nhiên mỗi địa phương có được để thực hiện
chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư, mà thiếu sự
liên kết để tạo ra "lợi thế động" nhằm tối ưu
hoá nguồn lực hữu hạn, thì khó có thể đẩy
mạnh phát triển và nâng cao sức cạnh tranh
của toàn vùng BTB. Vì vậy, lãnh đạo 06 tỉnh,
BTB cần thiết phải xây dựng và thực thi các
1. Liên kết phát triển vùng đồng bằng sông Cửu
Long - Nhân tố quan trọng nhất để bứt phá về thu
hút đầu tư (2011), Nguyễn Xuân Thắng, Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam.
Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(1) - Tháng 6/2013 9
cơ chế, chính sách liên kết phát triển chung
của toàn vùng. Trong chiến lược liên kết cần
làm rõ các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, xác định quan điểm và mục
tiêu liên kết
- Liên kết bình đẳng, các bên cùng có lợi
trên cơ sở khai thác và phát huy tiềm năng và
thế mạnh, đặc thù của từng địa phương và
toàn Vùng để cùng phát triển;
- Liên kết trên tinh thần tự nguyện của các
địa phương, tổ chức, doanh nghiệp; có bước đi
thích hợp, theo từng giai đoạn, mục tiêu cụ
thể trên cơ sở ưu tiên lựa chọn những nội
dung, lĩnh vực thiết thực, trọng điểm cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương
và toàn Vùng;
- Nội dung liên kết được xây dựng thành
các dự án, chương trình cụ thể và có mục tiêu
rõ ràng, thời gian triển khai, kinh phí, đơn vị
và đối tác thực hiện;
- Khai thác và phát huy các tiềm năng, thế
mạnh của từng địa phương và toàn Vùng.
Thứ hai, xây dựng các nội dung liên kết
Trên cơ sở đặc thù của Vùng, thực tiễn
phát triển và yêu cầu cấp thiết liên kết, lựa
chọn một hoặc một số nội dung dưới đây để
thực hiện liên kết:
- Cùng nghiên cứu để phân bố lại lực lượng
sản xuất, điều chỉnh quy hoạch phát triển phù
hợp với thế mạnh của từng địa phương; xây
dựng được chuỗi giá trị sản xuất và tiêu dùng
của Vùng;
- Xây dựng đồng bộ hạ tầng giao thông
liên tỉnh và quốc tế, nhất là hạ tầng giao thông
đường bộ;
- Thiết lập không gian kinh tế du lịch Vùng
thống nhất;
- Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực;
- Hợp tác trong việc huy động vốn đầu tư
và xây dựng cơ chế, chính sách để đầu tư phát
triển chung của Vùng;
- Phối hợp xúc tiến đầu tư, thương mại, du
lịch và trong phát triển, quảng bá văn hoá
toàn Vùng;
- Cải thiện môi trường kinh doanh và đầu
tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của Vùng;
 - Hợp tác bảo vệ môi trường, ứng phó với
thiên tai và biến đổi khí hậu, trong bảo vệ chủ
quyền biển đảo.
Thứ ba, cách thức tổ chức thực hiện các
chương trình liên kết
- Mỗi địa phương cử một đồng chí trong
Thường trực tỉnh uỷ và lãnh đạo Uỷ ban nhân
dân tỉnh trực tiếp chỉ đạo phối hợp xây dựng
chương trình hành động cụ thể để triển khai
thực hiện;
- Thành lập Tổ Điều phối Vùng và Nhóm
Tư vấn liên kết phát triển Vùng để chuẩn bị
nội dung cho các kỳ họp và các vấn đề khác;
- Thành lập “Quỹ Nghiên cứu phát triển
Vùng” để phục vụ kinh phí hoạt động của Tổ
Điều phối Vùng, công tác nghiên cứu và triển
khai của Nhóm Tư vấn và hoạt động chung
của Vùng.
Thứ tư, xây dựng cơ chế điều phối liên kết
- Định kỳ họp giao ban tại các địa phương
để đánh giá tình hình thực hiện các nội dung
cam kết liên kết trên các lĩnh vực, thống nhất
kế hoạch cụ thể cho thời gian tiếp theo, thông
qua các kiến nghị chung đối với Trung ương
và các Bộ, ban, ngành;
- Định kỳ mỗi năm từ một đến hai lần, lãnh
đạo cấp cao 06 tỉnh BTB luân phiên tổ chức
các cuộc họp, hoặc Hội thảo để đánh giá kết
quả triển khai thực hiện; đồng thời tổng hợp
các ý kiến đa dạng, nhiều chiều từ các nhà
quản lý, chuyên gia, nhà nghiên cứu và các
doanh nghiệp, là cơ sở tham khảo quan trọng
để các tỉnh, thành phố trong Vùng hoạch định
chính sách phát triển;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và sự đồng
thuận của lãnh đạo 6 tỉnh, thành phố trong
Vùng, sẽ kiến nghị với Đảng, Nhà nước về
một số cơ chế tổ chức, chính sách, phân bổ
nguồn lực cho sự phát triển chung của Vùng.
3.3. Xây dựng chiến lược liên kết riêng cho
ngành du lịch của vùng BTB.
- Liên kết trong xây dựng và thực thi
chính sách phát triển du lịch: Các tỉnh trong
vùng cần có những chiến lược và quy hoạch
cụ thể; có những chính sách khuyến khích và
ưu đãi phát triển du lịch, tham khảo và lồng
ghép với các tỉnh khác trong Vùng. Các tỉnh
Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(1) - Tháng 6/201310
cần phát huy kinh nghiệm của nhau nhưng
đồng thời cũng hạn chế sự ganh đua, trùng lắp
và kìm hãm sự phát triển du lịch của mỗi tỉnh.
Trong vùng, mỗi tỉnh cần tạo điểm nhấn về
quy mô và tính chất của các hoạt động du
lịch. Vùng Bắc Trung Bộ cần làm nổi bật: một
là, trung tâm du lịch di sản về văn hóa và sinh
thái, lịch sử với cố đô Huế, Nhã nhạc cung
đình Huế, thành Nhà Hồ, khu di tích Kim
Liên; hai là, những điểm nhấn về du lịch sinh
thái, du lịch biển đảo; vườn quốc gia Phong
Nha-Kẻ bàng, Bạch Mã, biển Cửa Tùng-Cửa
Việt, đảo Cồn Cỏ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên
Cầm hay như là các đô thị du lịch Huế, Thành
cổ Quảng Trị.
- Liên kết xây dựng sản phẩm đặc trưng,
mang phong cách riêng, phát triển thương
hiệu du lịch Vùng: liên kết trong huy động
nguồn lực, tạo ra địa bàn du lịch trọng điểm,
thương hiệu du lịch cạnh tranh mạnh trên thị
trường du lịch quốc tế.
Sản phẩm du lịch được hình thành và thiết
kết theo ý tưởng riêng đối với từng phân khúc
thị trường. Giữa các tỉnh trong vùng cần có sự
xem xét thống nhất và phân công khi xác định
sản phẩm đặc trưng của tỉnh mình và của các
khu du lịch cụ thể. Cần có sự xem xét đánh
giá về sự tương thích giữa sản phẩm du lịch
với yếu tố bản địa và với thị trường mục tiêu.
Trên cơ sở đó mỗi tỉnh xây dựng chuỗi các
sản phẩm đặc trưng và bổ trợ cho các tỉnh bạn
hình thành những sản phẩm đặc trưng của
vùng.
- Liên kết trong triển khai các chương
trình, dự án chung của Vùng: nghiên cứu thị
trường, xúc tiến quảng bá, thông tin du lịch
(vận hành website chung); phát triển nguồn
nhân lực du lịch; hỗ trợ các hoạt động liên
tỉnh và các sự kiện lớn của Vùng.
- Liên kết trong triển khai các chương
trình hành động của mỗi tỉnh gắn kết với
các tỉnh khác trong Vùng về phát triển hạ
tầng du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch;
bảo tồn, phát huy giá trị tài nguyên du lịch,
bảo vệ môi trường, nâng cao nhận thức, ý thức
thân thiện du lịch.
3.4. Xây dựng không gian du lịch chung
cho khu vực Bắc Trung Bộ.
Trong không gian du lịch chung cần lưu ý
đến các vấn đề sau đây:
- Cần xây dựng cho du lịch Bắc Trung Bộ
một thương hiệu về tính độc đáo và tính khác
biệt cho sản phẩm du lịch. Trong đó, cần có
sản phẩm chủ điểm kết nối giữa các điểm đến
trong toàn vùng, từ đó mới tạo được thương
hiệu dài hạn và đẳng cấp quốc tế, trở thành
một điểm đến ưa thích của du khách trong và
ngoài nước.
- Các tỉnh BTB cần tập trung phát triển các
sản phẩm du lịch đặc trưng, được xem là thế
mạnh của vùng như du lịch nghỉ dưỡng biển,
du lịch văn hóa gắn với di sản, du lịch văn
hóa tâm linh.
- Bên cạnh đó, di sản văn hóa phi vật thể
cũng là một nguồn tài nguyên quan trọng để
phát triển du lịch ở BTB, trong đó cần chú
trọng 4 loại hình là lễ hội (diễn xướng dân
gian) nghề thủ công, làng nghề truyền thống
và ẩm thực.
- Đối với vấn đề đào tạo nguồn nhân lực
cho ngành du lịch, xây dựng kết cấu hạ tầng,
cơ chế chính sách, sự liên kết giữa các doanh
nghiệp du lịch, đại diện các công ty lữ hành
cho rằng cần thiết phải xây dựng và thực thi
các chính sách và cơ chế liên kết phát triển du
lịch chung của cả vùng BTB; cần hướng tới
xây dựng một không gian du lịch thống nhất;
hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông với trục
đường ven biển phục vụ du lịch, khuyến khích
hợp tác giữa các doanh nghiệp lữ hành
- Đồng thời, tạo sự thống nhất giữa hai mặt
bảo tồn và phát triển, theo đó mỗi tỉnh, thành
phố cần ý thức được rằng phát triển du lịch
bền vững phải gắn với bảo tồn di sản văn hóa,
bảo tồn môi trường sinh thái, nhân văn, xã
hội, giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống.
3.5. Với thế mạnh có đường bờ biển dài
hơn 700 km, cần xây dựng BTB trở thành
điểm đến du lịch biển xanh, hiện đại, hấp
dẫn hàng đầu không chỉ của Việt Nam mà
còn của khu vực và quốc tế.
- Phát triển sản phẩm du lịch chủ lực là du
bằng việc hình thành một quần thể
du lịch dưỡng có biển, có rừng nhằm
tạo nơi đủ sức giữ du khách với các
Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(1) - Tháng 6/2013 11
dịch vụ cốt lõi là: ngắm biển với phong cảnh
thiên nhiên hữu tình, bơi thuyền, câu thể
thao trên biển, dịch vụ cảm giác mạnh trên
như lướt lặn biển, du thuyền ban
đêm, du lịch sinh thái khám phá rừng -
xây dựng được một số điểm vui chơi
giải trí tầm cỡ khu vực và quốc tế phù hợp với
tính chất của một thành phố biển hiện đại về
công nghiệp - dịch vụ. Đứng từ góc độ này thì
việc phát triển một tổ hợp khách sạn - dịch vụ
- casino cao cấp và một công viên đại dương
với việc ứng dụng các công nghệ xanh, hiện
đại và có sức chứa hàng ngàn du khách sẽ là
ưu tiên nhằm có được những “điểm nhấn”
quan trọng góp phần tạo nên sức hấp dẫn đặc
biệt của điểm đến du lịch BTB.
- Đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch
đột phá là du công vụ bằng việc
hoàn thiện xây chương trình du lịch
trọn gói và chu đáo với những vụ cao
cấp (lưu ăn vận chuyển, hướng
viên) nhằm đáp ứng đầy đủ các nhu cầu
của du
 trung triển khai nhanh các dự án du
lịch tại các tỉnh nhằm hình thành đồng bộ
một thống các khu du lịch, cơ sở lưu trú
chất lượng cung cấp nhiều loại hình
dịch vụ du lịch đa tiêu chuẩn quốc
tế.
- Đẩy mạnh xây dựng một không gian liên
du lịch thống nhất trong khu vực miền
- Nguyên; các điểm du lịch trên
tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây; Tiểu vùng
Mê Kông mở rộng BTB đóng vai trò là điểm
chuyển trung tâm điều phối nhằm hỗ
trợ cho sự phát triển lịch của cả khu
cạnh đ ó cần tăng cường hợp với
các tỉnh Quảng Nam, - Huế
thành một mạng du lịch các tuyến,
điểm, du lịch phong phú, đa dạng gắn
kết với con di sản văn hóa thế giới
(Huế - Hội An - Mỹ Sơn); du lịch sinh thái -
khám phá hang động của Quảng Bình; du lịch
về nguồn ở Quảng Trị
1. “ Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2020, tầm nhìn đến 2030”, Quyết định số
2473/QĐ-TTg phê duyệt ngày 30/12/2011.
2. Kỷ yếu hội thảo khoa học, “Liên kết phát triển
7 tỉnh duyên hải miền Trung”, Đà Nẵng tháng
7/2011.
3. Ths. Nguyễn Quốc Nghi, Huỳnh Thị Thuý
Loan, “Phát triển du lịch biển đảo duyên hải Nam
Trung Bộ”, Trường Đại học Cần Thơ.
4. Lê Thế Giới, “Xây dựng mô hình hợp tác và
liên kết vùng trong phát triển vùng kinh tế trọng
điểm Miền Trung”, Đại học Đà Nẵng; Tạp chí khoa
học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng - Số 2(25),
2008.
5. Nguyễn Xuân Thắng (2010), Liên kết vùng
đồng bằng SCL-Nhân tố quan trọng nhất để thu hút
đầu tư.
6. Nguyễn Xuân Thắng (2006), Economic
corridor And East-West Economic corridore.
7. Nguyễn Xuân Thắng (2010), Luận cứ về phát
triển bền vững tổng thể tỉnh Thừa Thiên Huế giai
đoạn 2011-2020 trong bối cảnh mới quốc tế, khu
vực và Việt Nam, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà
nước.
8. Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Mạnh Hùng
(2009), Chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch
vụ tới năm 2020 và tầm nhìn tới năm 2025, Dự án
hỗ trợ thương mại đa biên - Bộ Công thương.

File đính kèm:

  • pdflien_ket_vung_trong_phat_trien_du_lich_o_khu_vuc_bac_mien_tr.pdf