Mô hình sách giáo khoa Việt Ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975

Tóm tắt Mô hình sách giáo khoa Việt Ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975: ...môn được tách độc lập là “Ngữ vựng” và “Tập làm văn”. Tên môn, tên sách (của các bộ SGK mà chúng tôi được biết) và tên các phân môn gợi liên tưởng phần “ngữ” được chú ý hơn phần “văn”. Có thể thấy và kiểm chứng “cảm giác” này qua hệ thống câ... văn ở lớp 4 (đơn từ, tự thuật); giải nghĩa cách ngôn, tục ngữ... Kiểu bài đặt câu với các yếu tố ngữ pháp bắt buộc vẫn có trong giờ Tập làm văn lớp 4, 5. Lý thuyết về các kiểu bài Tập làm văn chỉ thấy trong Tiểu học nguyệt san và Quốc-văn, mà kho...m thấy thầy em ăn mặc thế nào? Em tả bộ âu-phục của thầy em. Dàn bài: 1.– Mở đề : 1.– Thầy em mặc bộ âu-phục may bằng vải gì? Màu gì? 2.– Nhập đề: 2.– Bộ âu-phục gồm có những gì? 3.– Đi giày gì? Màu gì? Có đội mũ không? 4.– Trông vào bộ âu-phục, các...

pdf13 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Mô hình sách giáo khoa Việt Ngữ bậc tiểu học ở miền Nam trước 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện rõ ở tất cả các bài, ngữ liệu của từng kiểu bài. Phần Chính 
249Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014
tả được trình bày trong SGK chưa thể hiện rõ kiểu loại (tập chép, nghe-viết, 
nhớ-viết) mặc dù chương trình có nêu các kiểu bài chính tả. Ngoài những văn 
bản Tập đọc cho từng tuần theo chủ điểm, bộ Tân Việt ngữ [9, lớp 1] và Tiểu 
học nguyệt san [5] có thêm kiểu bài “Tập đọc vui”, “Tập đọc giải trí” (nội dung 
cũng gắn với chủ điểm) cung cấp văn bản đọc cho học sinh luyện đọc, mở rộng 
vốn từ, mở rộng hiểu biết.
3.2. Cấu trúc bài học
3.2.1. Sách lớp 1
3.2.1.1. Sách Học vần
Về phần học âm vần, chúng tôi chưa tìm được sách giáo khoa (tìm hiểu 
chương trình, chúng tôi cũng không thấy phần Học vần). Phần giới thiệu cấu 
trúc bài học vần ở đây dựa vào Tiểu học nguyệt san. Tuy nhiên, như đã nêu 
trên, Tiểu học nguyệt san là tài liệu tập hợp bài học giáo khoa của tất cả các 
môn ở tất cả các lớp, nên qua các bài in ở nguyệt san này, ta có thể hình dung 
được cấu trúc bài học trong SGK. 
Các bài học vần được viết theo nguyên tắc từ ráp tiếng chứa vần đơn 
đến vần kép. Cấu trúc của một bài Học vần gồm: Âm (phụ âm) à Tranh (dùng 
tranh chứa tiếng có âm cần dạy) à Câu hỏi tìm hiểu bài à Phân tích tiếng à 
Học sinh đọc chữ ghi âm à Ráp chữ (ráp phụ âm với vần) à Tập đọc (câu, bài 
ngắn) à Tập viết.
Phần bài đọc, thường là những câu văn ngắn, giản dị, nhiều bài gần như 
văn nói; chứa âm vần cần luyện tập và có tính giáo dục đạo đức. Ví dụ: Bài 9, 
âm tr [5, tr.45]:(5)
I- Học liệu: cá trê
II- Đàm thoại: Hôm nay má mua cá trê về ăn. Em thấy mình cá trê đen và láng không có 
vãy [sic]. Cá trê ở sông.
III- Phân tách: (trờ) 
 tr tr 
IV- Ráp chữ :
tr
i
tr
ơ
u a
ừ e
o ê
ỗ ề
V- Tập đọc: chị Tri mua cá tra, cá trê bỏ vô rổ tre chị Tri nhớ trả nợ đi, chớ chị trả trễ họ khi 
chị à.
VI- Tập viết : trê, trê, trê.
Có thể thấy mục đích giúp học sinh nhớ được chữ ghi âm vần, luyện đọc, 
viết được thể hiện rõ ở các bài học vần. Phần “ráp chữ” chỉ chọn ráp những kết 
hợp tạo thành tiếng có nghĩa. Âm cần ghi nhớ được xuất hiện nhiều lần, được 
in kiểu khác với những chữ còn lại; và được thể hiện trong bài đọc gồm khoảng 
2-4 câu ngắn (tự biên soạn, không chứa âm vần chưa học). Cách viết này, phần 
bài đọc, tuy có những câu từ còn mang nhiều màu sắc khẩu ngữ, nhưng giản dị, 
250 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014
gần gũi với học sinh. Và điều quan trọng là nhờ xuất hiện nhiều lần nên âm - 
chữ được học có điều kiện “bám rễ” trong trí nhớ của học sinh. 
3.2.1.2. Sách giáo khoa gồm các phân môn: Tập đọc à Ngữ vựng à Học 
thuộc lòng à Tập viết à Tập đọc vui. Bài học trong một tuần được sắp xếp theo 
thứ tự: Tập đọc à Ngữ vựng à Tập đọc à Ngữ vựng à Học thuộc lòng à Tập 
viết à Tập đọc à Ngữ vựng à Học thuộc lòng à Tập đọc vui. 
a. Tập đọc: (4 bài/tuần, thường là văn xuôi): Tên phân môn à Bài đọc à 
Phát âm à Giải nghĩa từ khó à Câu hỏi tìm hiểu bài (3-4 câu, chủ yếu: nhận 
biết, tái hiện).
b. Ngữ vựng: (4 bài/tuần): Tên phân môn à Học tiếng (Liệt kê các từ ngữ; 
cuối danh sách thường là thành ngữ hoặc câu tục ngữ) à Tập nói chuyện (các 
câu hỏi gợi ý, khoảng 2-3 câu) à Bài ứng dụng (Bài đọc ngắn, khoảng 2-3 câu).
c. Học thuộc lòng (2 bài/tuần): Tên phân môn à Bài đọc (thơ) à Phát âm 
à Giải nghĩa từ khó à Câu hỏi (nội dung bài đọc).
d. Tập viết (6 bài/tuần): Tên phân môn à Yêu cầu về kích cỡ, kiểu dáng 
chữ và danh sách từ ngữ dùng tập viết à Văn bản (thường là ca dao, tục ngữ) 
dùng tập viết.
e. Tập đọc vui (1 bài/tuần): Tên phân môn à Bài đọc (văn bản ngắn, 
thường gặp dạng truyện ngụ ngôn) à một câu ca dao (có nội dung liên quan đến 
bài đọc). (Tân Việt ngữ, lớp 1). Ở Tiểu học nguyệt san, chúng tôi không thấy 
phần Tập đọc vui. 
3.2.2. Sách lớp 2
Các bài học trong một tuần được sắp xếp theo thứ tự: Ngữ vựng à Tập đọc 
à Học thuộc lòng à Chính tả à Tập làm văn à Tập viết.
a. Ngữ vựng: (2 bài/tuần): Tên phân môn à Bài đọc (văn bản ngắn: 5 câu) 
à Tập nói chuyện (các câu hỏi gợi ý) à Học tiếng (gồm danh mục: danh từ, động 
từ, tính từ, thành ngữ/tục ngữ có nội dung thuộc chủ điểm) à Giải nghĩa (từ 
khó) à Bài tập (Chỉ có 1 kiểu “chọn những tiếng đã học điền vào chỗ trống”).
Qua các bài học có thể thấy kỹ năng đọc, nói, nghe được chú trọng. Tuy 
nhiên bài tập còn quá đơn điệu, chỉ có kiểu bài chọn từ ngữ đã học điền vào 
chỗ trống.
b. Tập đọc: (2 bài/tuần, thường là văn xuôi): Tên phân môn à Bài đọc à 
Phát âm à Giải nghĩa (từ khó) à Câu hỏi tìm hiểu bài (3-4 câu, chủ yếu: nhận 
biết, tái hiện) à Đại ý.
c. Học thuộc lòng (1 bài/tuần): Tên phân môn à Bài đọc (thường là thơ) à 
Phát âm à Giải nghĩa à Câu hỏi (nội dung bài đọc) à Đại ý.
d. Chính tả (2 bài/tuần): Tên phân môn à Văn bản (hầu hết là văn xuôi) 
à Giải nghĩa à Tiếng khó viết.
e. Tập làm văn (1 bài/tuần, 2 bài tập): Tên phân môn à Bài tập.
g. Tập viết (2 bài/tuần): như lớp 1.
251Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014
3.2.3. Sách lớp 3 
Như sách lớp 2, chỉ khác ở phân môn Tập làm văn về dạng bài tập. Tập 
làm văn lớp 3 có 3 dạng bài: (1) Dùng từ ngữ viết câu; (2) Trả lời câu hỏi; (3) 
Tập viết văn bản (miêu tả, kể chuyện, viết thư). Có những cuốn SGK không 
có kiểu bài lý thuyết cho văn miêu tả, kể chuyện, tường thuật, trần thuật, đơn 
từ...; cũng không có dạng từ bài đọc à rút ra đặc điểm kiểu bài à ghi nhớ à 
thực hành [9]. Hầu như các bài Tập làm văn (trừ bài trả lời câu hỏi và tập viết 
câu) đều theo cấu trúc: Tên phân môn à (2) Đề bài à (3) Dàn bài. Ví dụ bài 3 
lớp 3 Tiểu học nguyệt san: 
TẬP LÀM VĂN. Đi dự lễ em thấy thầy em ăn mặc thế nào? Em tả bộ âu-phục của thầy em.
Dàn bài: 1.– Mở đề : 1.– Thầy em mặc bộ âu-phục may bằng vải gì? Màu gì?
 2.– Nhập đề: 2.– Bộ âu-phục gồm có những gì?
 3.– Đi giày gì? Màu gì? Có đội mũ không?
 4.– Trông vào bộ âu-phục, các em có cảm tưởng gì?
 3.– Kết luận: 5.– Ta phải ăn mặc thế nào và sự ăn mặc cốt phải thế nào? 
Các phân môn Ngữ vựng, Tập đọc, Chính tả, Học thuộc lòng, Tập viết có 
cấu trúc bài học tương tự sách lớp 2, chỉ khác về dung lượng và mức độ bài học. 
3.2.4. Sách lớp 4 
a. Ngữ vựng: 2 bài/tuần. Cấu trúc bài như ở lớp 2, lớp 3. Phần Bài tập có 
thêm kiểu bài Giải nghĩa từ, Tìm cách diễn đạt tương đương, Đặt câu.
b. Tập đọc: (2 bài/tuần, hầu hết là văn xuôi). Cấu trúc tương tự lớp 2, 3; 
khác ở 2 điểm sau: (1) Câu hỏi tìm hiểu bài gồm 4-5 câu hỏi về nội dung bài, 
với tên gọi cho mục này “Ý”/ “Ý tưởng”, chủ yếu: nhận biết, tái hiện. Và 2 câu 
hỏi về từ ngữ dưới bình diện nghĩa của từ, mà không phải là hỏi về nghệ thuật 
sử dụng từ ngữ, với tên gọi “Lời văn”; (2) có thêm mục Dàn bài (Tóm tắt lại các 
ý của bài đọc) và mục “Đại ý”.
c. Học thuộc lòng (1 bài/tuần, như lớp 3).
d. Chính tả (2 bài/tuần): cấu trúc như lớp 2, 3. Có thêm mục “Nhận xét 
chính tả” (phần này, các sách của các nhóm tác giả và Tiểu học nguyệt san 
đều cung cấp danh sách một số từ ngữ chính tả phương ngữ) và “Câu hỏi” với 
yêu cầu giải nghĩa từ ngữ, trả lời về nội dung văn bản, hoặc tìm từ đồng nghĩa, 
trái nghĩa...
Có thể nói cấu trúc bài Chính tả là một điểm mạnh của các bộ sách, mặc 
dù sách thiếu hẳn phần giới thiệu quy tắc chính tả. Nhưng danh sách các chữ 
khó viết, danh sách các chữ dễ bị viết sai do phát âm theo phương ngữ, cùng 
những bài tập tìm hiểu về nội dung bài chính tả, bài tập mở rộng vốn từ sẽ góp 
phần giúp học sinh viết đúng chính tả. 
e. Văn phạm (1 bài/tuần): Tên phân môn à Nhận xét: Ngữ liệu (thường 
chỉ 1 câu, có chứa yếu tố ngữ pháp được học trong bài hoặc từ bài Chính tả) à 
Chọn từ ngữ liệu các yếu tố ngữ pháp cần cung cấp, gọi tên yếu tố đó à Bài học: 
Nêu định nghĩa (về từ loại, thành phần câu,...) à Ví dụ minh họa (5-6 ví dụ). 
252 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014
Bài tập (hầu hết 1 bài với yêu cầu nhận diện yếu tố ngữ pháp; thỉnh thoảng 
mới có bài tập đặt câu). 
g. Tập làm văn: Tên phân môn à Đề bài à Dàn bài.
h. Tập viết (1 bài/tuần): như các lớp 1, 2.
3.2.5. Sách lớp 5 
Trình tự các bài học trong tuần, cấu trúc bài học của các phân môn giống 
như sách lớp 4.
3.3. Hình thức các câu hỏi, bài tập
Nhìn chung, các câu hỏi, bài tập ở tất cả các phân môn đều được trình 
bày gọn, rõ nhưng chưa phong phú. Câu hỏi tìm hiểu bài đọc, bài chính tả, đều 
chỉ dừng ở mức độ nhận biết - kiểu tái hiện - mà chưa thấy dạng câu hỏi phát 
hiện (kể cả câu hỏi ở SGK lớp 5). Ở lớp 4, 5 câu hỏi đọc hiểu được tách thành 
2 mảng: hỏi về nội dung bài (được gọi là “ý tưởng”) và hỏi về văn phạm (được 
gọi là “lời văn”) nhưng vẫn chỉ dừng ở mức độ tái hiện những tình tiết đã có 
trong nội dung bài đọc là chính. Có bộ sách sau mỗi câu hỏi của bài Tập đọc 
đều có phần gợi ý vắn tắt [1]; và ngay sau mỗi bài tập đều có đáp án [1]. Cách 
trình bày này có tác dụng gợi ý cho học sinh, giúp học sinh kiểm tra bài làm, 
nhưng không phát huy được tính tích cực độc lập suy nghĩ, dễ gây nhàm chán, 
gây tâm lý ỷ lại... 
4. Một vài nhận xét thêm về SGK của Bộ Giáo dục so với các SGK 
còn lại
Như đã trình bày ở mục 1, song song với các bộ SGK của nhiều tác giả, 
nhiều nhóm tác giả là phần giáo khoa trong Tiểu học nguyệt san do “Bộ Giáo 
dục chủ biên và ấn hành” [8, tr. 105-126]. Do giới hạn của bài viết, ở đây, chúng 
tôi chỉ nêu một vài nhận xét chung nhất:
1. Phần Giáo khoa của Tiểu học nguyệt san cũng tuân thủ theo chương 
trình đã ban hành, như tất cả các bộ sách khác từ kiến thức đến cấu trúc các 
bài học của từng phân môn cũng như thứ tự các phân môn trong tuần ở mỗi 
khối lớp.
2. Tính tích hợp và triết lý nhân bản, dân tộc, khai phóng đều được Tiểu 
học nguyệt san và các bộ sách chú ý tôn trọng tối đa trong khả năng mà các 
tác giả có thể thể hiện. 
3. Văn phong trong Tiểu học nguyệt san gọt giũa hơn, màu sắc khẩu ngữ 
ít hơn đáng kể so với vài bộ sách khác (mà chúng tôi có được).
4. Điểm quan trọng hơn là bài tập trong Tiểu học nguyệt san đa dạng hơn. 
Ngữ liệu các bài đọc cũng chọn lọc hơn, phong phú hơn. (Có bộ SGK, văn bản 
Học thuộc lòng từ lớp 1 đến lớp 4, chỉ có 1 loại duy nhất là thơ lục bát). 
Mặc dù có những ưu điểm như trên, nhưng Tiểu học nguyệt san chỉ là tài 
liệu tham khảo cho giáo viên, khi họ muốn làm phong phú thêm bài giảng; 
mà không thể sử dụng làm tài liệu giáo khoa cho học sinh, bởi cấu trúc cũng 
253Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014
như mục đích và cách ấn hành. Theo tìm hiểu, chúng tôi được biết trước 1975, 
không có sách giáo viên, sách bài soạn đi kèm SGK như hiện nay. Giáo viên 
chỉ có SGK, giáo viên ở các tỉnh lẻ, rất ít người biết đến Tiểu học nguyệt san. 
Nếu xem Tiểu học nguyệt san là sách giáo viên cũng không ổn. Vì nó được biên 
soạn và cấu trúc theo kiểu tập hợp lại toàn bộ các bài học, bài đọc của tháng 
tương ứng cho tất cả các môn, tất cả các khối lớp. Phần hướng dẫn, trừ phần 
Học vần (và ở vài bài Ngữ vựng có chỉ dẫn về đồ dùng dạy học), hầu hết không 
có hướng dẫn gì về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học...
5. Kết luận 
Có thể thấy SGK Việt ngữ miền Nam trước 1975 đã được biên soạn theo 
mô hình phỏng giao tiếp - “sách triển khai nội dung theo trục kỹ năng ngôn 
ngữ. Sách thường cấu trúc theo chủ điểm, lấy một hoặc một số bài đọc làm 
điểm tựa để hình thành kiến thức, phát triển kỹ năng đọc, viết, nói, nghe cho 
học sinh; các bài tập rèn luyện kỹ năng thường gắn với những tình huống giao 
tiếp và nhiệm vụ giao tiếp cụ thể” [11]. Tuy nhiên, những điểm mạnh của mô 
hình này chưa được các bộ SGK khai thác triệt để, do hệ thống các câu hỏi 
bài tập chưa phong phú, chưa chú ý đến khai thác các mức độ của nhận thức 
và rèn luyện kỹ năng tiếng Việt cho học sinh; các bài tập gắn với tình huống 
chưa nhiều, chưa được thể hiện một cách có chủ đích (nội dung dạy nghi thức 
lời nói, như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi chỉ thấy ở sách Đức dục mà không thấy ở 
sách Việt ngữ). Ngoài ra, mô hình “sách triển khai nội dung theo chủ đề hoạt 
động của học sinh nhằm tìm hiểu các lĩnh vực khác nhau của đời sống, lấy các 
hoạt động đó làm môi trường giao tiếp để hình thành kiến thức, phát triển các 
kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh” [11] - mô hình được xem là hiệu quả 
nhất trong dạy học tiếng hiện nay - chưa hề thấy dù là manh nha trong bài 
học của tất cả các phân môn ở các bộ SGK mà chúng tôi có điều kiện tìm hiểu 
kể cả Tiểu học nguyệt san.
Mặc dầu không thể tránh khỏi những hạn chế về nội dung, mô hình, cấu 
trúc, trình bày, văn phong... do giới hạn của thời đại, của lịch sử nhưng SGK 
Việt ngữ ở miền Nam trước 1975 của nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa có những 
điểm mạnh đáng ghi nhận về tính tích hợp; về việc hướng tới triết lý nhân 
bản, dân tộc, khai phóng; về con đường hình thành các kỹ năng đọc, nói, nghe, 
viết cho học sinh bậc Tiểu học. Có thể nói cứ liệu về những điểm ưu, nhược của 
SGK Việt ngữ như đã trình bày đều ít nhiều giúp cho người biên soạn chương 
trình và SGK dạy học tiếng Việt cho học sinh tiểu học giai đoạn tới những bài 
học hữu ích. 
 N T L K
CHÚ THÍCH
(1) Trong giai đoạn này, có 2 năm từ 1973 đến 1975, ở miền Nam có 2 chương trình giáo dục 
và 2 hệ thống sách giáo khoa cùng song song tồn tại, một của Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng 
hòa và một của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (được thực hiện ở những 
vùng giải phóng). Xem: Lê Khắc Hân, “Bộ sách giáo khoa giải phóng ra đời như thế nào?”, 
(2) Do giới hạn phạm vi đề cập, ở bài viết này, chúng tôi chưa có dịp bàn đến văn phong, kỹ 
thuật trình bày... 
254 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7-8 (114-115) . 2014
(3) Có thể nói, gần như ông Trần Văn Chánh [8, tr. 105-126], người viết bài này cũng đã cố 
công tìm kiếm sách Việt ngữ bậc Tiểu học trong thư viện của các trường Đại học Sư phạm 
TPHCM, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Viện Nghiên cứu Giáo dục thuộc 
Đại học Sư phạm TPHCM, Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM, Thư viện Viện Khoa học 
Xã hội TPHCM, các nhà sách cũ và qua bạn bè quen biết đã từng dạy tiểu học trước 1975, 
nhưng tư liệu thu thập được không như mong đợi. 
(4) Phần Giáo khoa thường chiếm tới 4/5 số trang của Tiểu học nguyệt san 1955 và 1964 (số 
các tháng trong năm học từ tháng 9 đến tháng 6).
(5) Chúng tôi sao y, kể cả lỗi chính tả. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Bùi Văn Bảo, Bùi Quang Minh (1972), Việt-văn toàn-thư 3, Nxb Nhật Tảo, Sài Gòn.
2. Bộ Quốc gia Giáo dục (1955), Tiểu học nguyệt san số 1&2, tháng 2&3, Sài Gòn.
3. Bộ Quốc gia Giáo dục (1955), Tiểu học nguyệt san, số 5&6, tháng 5&6, Sài Gòn.
4. Bộ Quốc gia Giáo dục (1960), Chương trình Tiểu học, Sài Gòn.
5. Bộ Quốc gia Giáo dục (1964), Tiểu học nguyệt san, số 2, tháng 9 năm 1964, Sài Gòn.
6. Bộ Giáo dục (1968), Chương trình Tiểu học (áp dụng kể từ niên khóa 1967-1968), Trung tâm 
Học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục, Sài Gòn. 
7. Bộ Giáo dục (1968), “Nguyên tắc cải tổ chương trình Tiểu học”, trong Chương trình Tiểu học 
(áp dụng kể từ niên khóa 1967-1968), Trung tâm Học liệu Bộ Văn hóa Giáo dục, Sài Gòn. 
8. Trần Văn Chánh (2012), “Những bài học thuộc lòng, một thứ văn chương tiểu học của miền 
Nam trước đây”, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (95).2012, tr.105-126.
9. Nguyễn Tất Lâm (1974), Tân Việt ngữ, lớp 1, 2, 3, 4, 5, Nxb Nam sơn, Sài Gòn.
10. Một nhóm giáo viên, Quốc-văn, lớp Nhứt, quyển I, II, Nxb Việt hương, Sài Gòn.
11. Nguyễn Minh Thuyết (2013), “Phác thảo mô hình sách giáo khoa Tiếng Việt tương lai”, trong 
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia - quốc tế Đổi mới Chương trình, Sách giáo khoa giáo dục phổ thông: 
Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.
12. Phạm Trường Xuân (và các tác giả khác) (1959), Quốc-văn toàn thư, lớp 3, quyển I, II, Nxb 
Việt hương, Sài Gòn. 
TÓM TẮT 
Bài viết tìm hiểu về mô hình SGK Việt ngữ bậc Tiểu học ở miền Nam những năm 1955-
1975, thời kỳ có nhiều bộ sách của nhiều nhóm tác giả biên soạn, do nhiều nhà xuất bản ấn hành. 
Nhưng các bộ sách đều tuân thủ một chương trình, đều chung mô hình phỏng giao tiếp, chú trọng 
tính tích hợp; và theo triết lý nhân bản, dân tộc, khai phóng. 
Do giới hạn của lịch sử, sách Việt ngữ bậc Tiểu học ở miền Nam trước 1975 không thể 
tránh khỏi những hạn chế nhất định. Song đặc điểm một chương trình với nhiều bộ sách, chú 
trọng tích hợp... cùng triết lý nhân bản, dân tộc, khai phóng là những điểm mạnh không thể không 
lưu tâm khi chuẩn bị biên soạn SGK môn Tiếng Việt bậc Tiểu học trong giai đoạn mới. 
ABSTRACT
MODEL OF VIETNAMESE TEXTBOOKS FOR PRIMARY EDUCATION 
IN SOUTH VIETNAM BEFORE 1975
 The article finds out about Vietnamese Textbooks for primary education in South Vietnam 
from 1954 to 1975 - the time when there were a lot of textbooks compiled by groups of authors 
and published by various publishers; however, all of them complied with a common curriculum 
and the model of communication adaptation, focused on integration and followed the principles of 
humanism, nationalism and libertarianism.
 Due to the limit of history, Vietnamese textbooks before 1975 can’t avoid certain 
restrictions. However, a curriculum with various textbooks, focusing on integration and following 
the principles of humanism, nationalism and libertarianism is really a remarkable feature which is 
worth considering in compiling Vietnamese Textbooks for primary education in this new era.

File đính kèm:

  • pdfmo_hinh_sach_giao_khoa_viet_ngu_bac_tieu_hoc_o_mien_nam_truo.pdf