Mô hình số kỹ thuật cho cầu đúc sẵn sử dụng trong thiết kế định hướng chế tạo và lắp dựng
Tóm tắt Mô hình số kỹ thuật cho cầu đúc sẵn sử dụng trong thiết kế định hướng chế tạo và lắp dựng: ... gia lắp dựng tham gia góp ý trong giai đoạn thiết kế, hoặc đơn vị sản xuất/chế tạo tổ chức đào tạo để đảm bảo đơn vị lắp dựng nắm bắt được tất cả các yêu cầu, quy tắc cũng như cách thức tiến hành lắp dựng theo thiết kế của họ không phải bao giờ cũng đạt hiệu quả mong muốn [13]. Kỹ thuật số hóa ...t quả theo dõi quá trình hoạt động, cần rút ra các phản hồi để cải tiến mô hình thiết kế được thực hiện. Tại cấp 2 của DEM, dữ liệu lớn trong quá trình hoạt động cần được số hóa và phân tích. 4. Thử nghiệm Mô hình số kỹ thuật cho một trụ cầu bê tông cốt thép đúc sẵn 4.1. Tổng quan mô hình Quá t...r-Aided Manufacturing). Thân trụ cầu được chế tạo bằng công nghệ in bê tông 3D sử dụng máy in giàn 3 trục để tạo nên lớp ván khuôn bê tông vĩnh cửu. Sau đó, người ta đặt lồng thép, ống cáp và tiến hành đổ bê tông. Mô hình số thiết kế của thân trụ cầu được được sử dụng để tính toán tham số cho quá...
chí Khoa học Công nghệ Xây dựng Hình 1. Cấp độ phát triển của mô hình số kỹ thuật DEM toán trong công cụ BIM để tạo ra mô hình. Khi xuất hiện các thay đổi thiết kế, tham số hình học được điều chỉnh và mô hình BIM sẽ tự động được cập nhập dựa trên thuật toán kết nối giữa mô hình và cơ sở dữ liệu. Các nguyên lý thiết kế DfMA cần được tích hợp trong các thuật toán mô hình hóa. Từ đó mô hình thiết kế kỹ thuật số sẽ chứa các thông tin hình học, thông tin vật liệu, phương pháp lắp dựng và sai số cho phép cho quá trình sản xuất và lắp dựng. Mô hình thiết kế kỹ thuật số sẽ được đồng bộ với mô hình chế tạo kỹ thuật số. Với mục tiêu nâng cao năng suất, tăng tính tự động hóa, giảm thiểu chi phí và chế tạo những cấu kiện có tính thẩm mỹ cao, công nghệ in bê tông 3D được sử dụng để in ván khuôn bê tông cố định cho cấu kiện đã được nghiên cứu áp dụng. Trong cơ sở dữ liệu chung, từ thông tin hình học và vật liệu từ mô hình thiết kế, các tham số cho quá trình in bê tông sẽ được tính toán như đường dẫn in, chiều rộng và độ dày lớp in bê tông, thời gian in và cấp phối vật liệu. Mô hình thiết kế sẽ được sử dụng để tính toán những tham số in. Mô hình kỹ thuật số lắp dựng chứa đựng trong đó hướng dẫn cho công tác lắp ghép và tiêu chuẩn sai số lắp ghép được tính hợp vào mô hình và cơ sở dữ liệu chung. Tiêu chuẩn sai số lắp ghép cho cấu kiện cầu đúc sẵn như trong đề xuất của Culmo và cs. [7] đã được đánh giá trong mô hình mô phỏng quá trình lắp dựng. Tất cả các thông tin từ các mô hình thiết kế, chế tạo và lắp dựng đều được chuyển đến cơ sở dữ liệu chung để đảm bảo tính liền mạch thông tin. Mô hình số kỹ thuật song sinh (Digital Twin Model) sử dụng để theo dõi quá trình làm việc của các cấu kiện sẽ được thiết lập cho DEM cấp 2. Cấu kiện được lắp cảm biến để theo dõi các chỉ số trong quá trình cấu kiện làm việc. Dữ liệu thu được từ cảm biến sẽ được sử dụng để phát triển mô 171 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng hình kỹ thuật số song sinh. Quá trình làm việc của cấu kiện trong giai đoạn vận hành sẽ được lưu trữ và số hóa bởi hệ thống bảo trì. Dựa vào kết quả theo dõi quá trình hoạt động, cần rút ra các phản hồi để cải tiến mô hình thiết kế được thực hiện. Tại cấp 2 của DEM, dữ liệu lớn trong quá trình hoạt động cần được số hóa và phân tích. 4. Thử nghiệm Mô hình số kỹ thuật cho một trụ cầu bê tông cốt thép đúc sẵn 4.1. Tổng quan mô hình Quá trình phát triển mô hình số kỹ thuật DEM cấp 1 cho trụ cầu bê tông cốt thép được trình bày tại Hình 2. DEM cấp 1 được phát triển bao gồm mô hình tham số BIM dựa trên nguyên lý thiết kế DfMA, mô hình chế tạo kỹ thuật số và mô hình lắp dựng kỹ thuật số. Cơ sở dữ liệu chung được thiết lập để lưu trữ, liên kết và phân tích dữ liệu xuyên suốt các quá trình từ thiết kế, chế tạo đến lắp dựng. Trong giai đoạn thiết kế, mức độ phát triển mô hình LOD (Level of Development) của mô hình chế tạo được thiết lập ở mức tối thiểu là LOD400, để đảm bảo có đủ thông tin phục vụ các giai đoạn sản xuất và lắp dựng. Mô hình tham số BIM định hướng DfMA được khởi tạo để chuyển sang mô hình chế tạo. Những thông tin về nhà cung ứng cấu kiện, phương án vận chuyển, giới hạn công trường và sai số lắp dựng sẽ được tính hợp vào mô hình chế tạo. Hình 2. Mô hình số kỹ thuật cấp 1 cho trụ cầu 4.2. Mô hình thiết kế tham số định hướng DfMA Mô hình số thiết kế định hướng DfMA là mô hình trung tâm trong việc thiết lập mô hình DEM. Mô hình được thiết lập dựa trên nền tảng mô hình tham số BIM thỏa mãn các điều kiện cho lắp dựng DfA và cho sản xuất DfM. Hình 3 diễn tả quy trình hình thành mô hình thiết kế tham số định hướng DfMA. Bước 1 là bước thiết lập các tham số thiết kế cho DfA và DfM. Các tham số được xem xét để đảm bảo sự phù hợp cho lắp dựng và chế tạo, thông tin về các tham số này cần phân tích và tích hợp trong mô hình BIM. Bước 172 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, NUCE 2021 p-ISSN 2615-9058; e-ISSN 2734-9489 9 251 Hình 3: Quy trình thiết lập mô hình tham số định hướng DfMA 252 4.3 Mô hình số thiết kế 253 Sử dụng công nghệ in 3D, thân trụ cầu có thể được thiết kế đảm bảo yêu cầu thẩm mỹ. 254 Công nghệ in 3D cho phép chế tạo các cấu kiện có hình dáng hình học tự do, do đó có thể 255 giúp giải phóng tư duy thiết kế khỏi các hình khối bê tông thông thường do hạn chế của kỹ 256 thuật đúc sẵn. Hình 4 thể hiện mô hình thiết kế thẩm mỹ một thân trụ cầu có kiến trúc xoắn. 257 Trong trường hợp này, trụ cầu không được in trực tiếp, mà công nghệ in 3D được sử dụng để 258 in ván khuôn cho trụ cầu. Các tham số thiết kế chính cần được tính toán cho việc sử dụng 259 công nghệ in 3D là góc nhô ra giữa các lớp in, độ cong và mức độ phức tạp hình học. Góc 260 nhô giữa các lớp in được thiết kế trong khoảng (-15,15) độ để đạt được chất lượng in tốt nhất. 261 Sử dụng phương pháp mô hình tham số giúp cho nhà thiết kế có thể tạo ra các phương án 262 thiết kế với mức độ phức tạp khác nhau. Thuật toán được thiết lập để kiểm soát giới hạn các 263 tham số in và ràng buộc để tạo ra mô hình có thể in được. Mô hình in 3D cỡ nhỏ sử dụng máy 264 in Formlabs3 được sử dụng để kiểm tra khuyết tật hình học, và phương pháp lắp dựng. 265 Hình 3. Quy trìn thiết lập mô ì tham số định hướng DfMA tiếp theo, cần thiết lập cơ sở dữ liệu tham số cho việc dựng mô hình với tham số được phân loại theo mức độ LOD từ 200-400. Hoạt động lắp dựng được phân tích để làm rõ các yêu cầu cần thỏa mãn. Một hệ tọa độ các điểm quan trắc cần được thiết lập để hình thành đường căn chỉnh mô hình phục vụ việc lắp dựng cấu kiện. Giới hạn sai số lắp dựng theo trục x, y, z được tích hợp vào mô hình để mô phỏng quá trình lắp dựng. Sau hi mô hình cấu kiện với tham số lắp dựng được thiết lập, bước tiếp t eo là phân tích tham số cho yêu cầu chế tạo DfM. T a số chế tạo được thiết lập dựa trên điều kiện về sản xuất cấu kiện trong nhà máy. Mô hình BIM thỏa mãn các tham số điều kiện DfM sẽ được sử dụng cho việc chế tạo các cấu kiện. Mô hình BIM sẽ được sử dụng để tính toán vật liệu chế tạo như diện tích ván khuôn, khối lượng bê tông cốt thép. Mô hình thân trụ cầu sẽ được sử dụng để thiết lập dữ liệu in cho máy in bê tông. Kết quả cuối cùng các mô hình số sẽ được chuyển giao cho các bên nhà thầu để thực hiện chế tạo. Mô hình số thiết kế, chế tạo và lắp dựng sử dụng cho việc mô phỏng và kiểm soát sai số trong quá trìn lắp dựng là kết quả chính của mô hình. 173 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng 4.3. Mô hình số thiết kế Sử dụng công nghệ in 3D, thân trụ cầu có thể được thiết kế đảm bảo yêu cầu thẩm mỹ. Công nghệ in 3D cho phép chế tạo các cấu kiện có hình dáng hình học tự do, do đó có thể giúp giải phóng tư duy thiết kế khỏi các hình khối bê tông thông thường do hạn chế của kỹ thuật đúc sẵn. Hình 4 thể hiện mô hình thiết kế thẩm mỹ một thân trụ cầu có kiến trúc xoắn. Trong trường hợp này, trụ cầu không được in trực tiếp, mà công nghệ in 3D được sử dụng để in ván khuôn cho trụ cầu. Các tham số thiết kế chính cần được tính toán cho việc sử dụng công nghệ in 3D là góc nhô ra giữa các lớp in, độ cong và mức độ phức tạp hình học. Góc nhô giữa các lớp in được thiết kế trong khoảng (−15, 15) độ để đạt được chất lượng in tốt nhất. Sử dụng phương pháp mô hình tham số giúp cho nhà thiết kế có thể tạo ra các phương án thiết kế với mức độ phức tạp khác nhau. Thuật toán được thiết lập để kiểm soát giới hạn các tham số in và ràng buộc để tạo ra mô hình có thể in được. Mô hình in 3D cỡ nhỏ sử dụng máy in Formlabs3 được sử dụng để kiểm tra khuyết tật hình học, và phương pháp lắp dựng. Hình 4. Mô hình số thiết kế Hình 5 diễn giải quá trình khởi tạo mô hình tham số BIM cho DfMA sử dụng phần mềm mô hình tham số Grasshopper và Rhino. Mô hình tham số sử dụng kết hợp các tham số thiết kế đầu vào và các thuật toán dựng dựng mô hình. Cơ sở dữ liệu tham số thiết kế là một phần quan trọng trong mô hình 174 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng DEM. Quy tắc đặt tên cho các tham số sẽ được thống nhất sử dụng xuyên suốt quá trình thiết kế đến sản xuất và lắp dựng. Tham số chính đến từ thuyết minh tính toán. Các ràng buộc trong thuật toán mô hình là khoảng cách tối thiểu, tối đa của cốt thép, lớp bê tông bảo vệ, sai số cho phép, các tham số cho việc chế tạo và dựng. Các thuật toán được xây dựng cho các mô hình móng, thân, mũ trụ cầu với các kết cấu chi tiết như cốt thép, cáp và ống cáp. Thuật toán mô hình được lập trình trên nguyên lý mô hình hướng đối tượng. Tất cả các cấu kiện có tham số thiết kế, ràng buộc và quan hệ chính – phụ. Khi thay đổi giá trị một tham số thì các tham số khác sẽ tự động thay đổi dựa trên các ràng buộc đã được định nghĩa trước trong thuật toán. Những dữ liệu tham số này cũng được sử dụng cho việc tính toán khối lượng và tạo bản vẽ chi tiết 2D. Hình 5. Mô hình tham số BIM cho thân trụ cầu 4.4. Mô hình số chế tạo Mô hình số chế tạo cho móng, thân và mũ trụ cầu được phát triển trên nền tảng mô hình tham số BIM, cho phép tính toán khối lượng các vật liệu chính như bê tông, cốt thép và ván khuôn. Mô hình 3D thép sẽ được chuyển trực tiếp đến máy gia công thép dựa trên nền tảng công nghệ sản xuất dưới sự hỗ trợ của máy tính CAM (Computer-Aided Manufacturing). Thân trụ cầu được chế tạo bằng công nghệ in bê tông 3D sử dụng máy in giàn 3 trục để tạo nên lớp ván khuôn bê tông vĩnh cửu. Sau đó, người ta đặt lồng thép, ống cáp và tiến hành đổ bê tông. Mô hình số thiết kế của thân trụ cầu được được sử dụng để tính toán tham số cho quá trình in bê tông. Hình 6 trình bày quá trình tính toán, mô phỏng và tạo ra dữ liệu in cho việc vận hành máy in bê tông. Đường dẫn in được tính toán và thiết lập dựa vào chiều dày và độ rộng lớp in. Quá trình in được mô phỏng dựa vào đường dẫn in và tốc độ in. Dựa vào các tham số in, mã G-Code được khởi tạo cho việc vận hành máy in. Mẫu in cỡ nhỏ cho ván khuôn bê tông đã được thực hiện với độ dày lớp in 20 mm, chiều rộng 50mm và sử dụng vòi phun với đường kính 40 mm. Sử dụng công nghệ in bê tông 3D sẽ giúp giảm thời gian và chi phí sản xuất, so với việc sử dụng ván khuôn định hình truyền thống. Đồng thời có thể chế tạo được những cấu kiện có hình khối phức tạp, có tính thẩm mỹ cao. 175 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng Hình 6. Quá trình mô phỏng in bê tông 3D cho thân trụ cầu Hình 7 trình bày quá trình khởi tạo G-Code cho máy in bê tông trong Grasshopper. G-code là dữ liệu tập hợp tọa độ các điểm (x, y, z) trong không gian sử dụng để xác định vị trí di chuyển cho vòi in từ đường dẫn in. Dựa vào tham số tốc độ in, tọa độ các điểm sẽ được thiết lập trên đường dẫn in. Vòi Hình 7. Quá trình khởi tạo G-code cho máy in 176 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng in sẽ di chuyển đến ví trí bắt đầu và chuyển động đến các điểm tiếp theo trên đường dẫn in. Lớp in đầu tiên kết thúc khi vòi in di chuyển về vị trí điểm bắt đầu, sau đó vòi in sẽ di chuyển lên lớp in tiếp theo. Đường dẫn in có vai trò quan trọng trong việc định hình hình dáng của mô hình in. Chiều dày lớp in, tốc độ in, thời gian in là những tham số chính cần được thiết lập, tình toán cho quá trình in từ mô hình số thiết kế. 4.5. Mô hình số mô phỏng lắp dựng (Digital preassembly model) Mô hình số lắp dựng được sử dụng cho việc mô phỏng trước quá trình lắp dựng dựa trên biện pháp lắp dựng và sai số lắp dựng cho phép. Hình 8 thể hiện tổng quan quy trình sử dụng mô hình số cho kiểm soát sai số lắp dựng. Từ mô hình số chế tạo với sai số hình học trong quá trình sản xuất, mô hình sẽ được cập nhập và chuyển sang mô hình số mô phỏng quá trình lắp dựng. Sai số trong quá trình lắp dựng được tính toán dựa vào độ lệch giữa tọa độ điểm kết nối quan trắc liên kết với tọa độ điểm theo mô hình số thiết kế. Hình 8. Quy trình sử dụng mô hình số cho kiểm soát sai số lắp dựng Đường căn chỉnh lắp dựng sẽ được thiết lập dựa vào tọa độ điểm liên kết là trọng tâm dữ liệu cho mô hình số mô phỏng lắp dựng (Hình 9). Điểm quan trắc lắp dựng được xác định là trọng tâm cấu kiện. Việc lắp dựng trụ cầu yêu cầu chặt chẽ về sai số theo chiều cao (trục Z). Sai số lắp dựng cho phép được thiết lập như sau: sai số trục x và y không quá 15 mm và trục Z là 10 mm. Đường căn chỉnh theo theo giới hạn sai số lắp dựng được thiết lập dựa trên tọa độ điểm lắp dựng với sai số cho phép. Sai số lắp dựng thực tế sẽ được tính toán dựa vào độ lệch tọa độ điểm căn chỉnh trong mô hình số với tọa độ điểm đo được trên công trường. Hình 10 trình bày phương pháp kiểm tra sai số trong việc đặt ống cáp. Sai số được tính toán giữa mô hình thiết kế và chế tạo được đo từ trọng tâm cấu kiện đến từng vị trí ống cáp được xác định tại mặt tiếp giáp của hai cấu kiện. Trong quá trình lắp dựng, yêu cầu không có khe hở trong khớp nối giữa các cấu kiện để tránh việc cáp bị ăn mòn. Mô hình số thiết kế khớp nối được phát triển như trong Hình 10. Sau đó khớp nối được sản xuất từ máy in 3D. Chất lượng khớp nối của ống dẫn cùng với sai số lắp dựng là một trong những yếu tố quyết định độ bền trụ cầu lắp ghép. 177 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng Hình 9. Tính toán sai số lắp dựng sử dụng mô hình số Hình 10. Phương pháp tính toán sai số lắp dựng cáp dự ứng lực 178 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng 5. Kết luận Bài báo đã làm rõ sự cần thiết của mô hình số kỹ thuật DEM cho phát triển công nghệ thi công cầu sử dụng cấu kiện đúc sẵn trong bối cảnh yêu cầu về chuyển đổi số trong ngành xây dựng ngày càng trở nên cấp thiết. Khái niệm và cơ chế vận hành của DEM, là kết quả chính của nghiên cứu này, đã tạo ra cơ sở lý thuyết để làm nền tảng cho các nghiên cứu trong tương lai nhằm phát triển một phần mềm hỗ trợ quản lý thông tin kỹ thuật cho toàn bộ vòng đời công trình từ thiết kế, chế tạo, lắp dựng, hoạt động và bảo trì. Mô hình đề xuất cũng đã được triển khai trên thực tế trong một trường hợp cụ thể có phạm vi nhỏ. Để đẩy nhanh những nỗ lực trong phát triển công nghệ chế tạo cấu kiện đúc sẵn và lắp ghép, mô hình thiết kế tham số định hướng chế tạo và lắp dựng DfMA cùng với công nghệ in 3D đã được nghiên cứu áp dụng trong thực tiễn. Bài báo này đã trình bày kết quả nghiên cứu trong giai đoạn đầu của một dự án nghiên cứu mô hình số kỹ thuật DEM cho cầu sử dụng cấu kiện đúc sẵn. Các mô hình kỹ thuật số cho quá trình thiết kế, chế tạo, lắp dựng cho trụ cầu đã được nghiên cứu và phát triển thử nghiệm. Kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ hiệu quả của việc tích hợp các thông tin kỹ thuật cho sản xuất và lắp dựng vào mô hình DEM. Tính kết nối giữa các bên hữu quan của dự án đã được cải thiện nhờ vào việc thiết lập mô hình trung tâm trao đổi thông tin là mô hình thiết kế tham số định hướng DfMA. Những thông tin về thiết kế, sản xuất và lắp dựng đều được tích hợp vào mô hình trung tâm này, được sử dụng để trao đổi thông tin giữa các nhà thầu. Kết quả thử nghiệm khá khả quan, cho thấy mô hình nghiên cứu có thể áp dụng để hỗ trợ việc thi công/xây dựng cầu nhanh (accelerated bridge construction - ABC). Tuy nhiên việc áp dụng mô hình DEM còn tồn tại những hạn chế về việc đồng bộ kỹ thuật của công nghệ BIM giữa chủ đầu tư, đơn vị thiết kế nhà thầu thi công lắp dựng. Mô hình yêu cầu sự tham gia của đơn vị thi công lắp dựng, nhà thầu chế tạo cùng đơn vị thiết kế ngay từ giai đoạn đầu của dự án. Vấn đề này còn nhiều hạn chế trong các dự án đầu tư xây dựng hiện nay ở Việt Nam. Nghiên cứu tiếp theo cần triển khai là ứng dụng mô hình ở một phạm vi rộng hơn với thử nghiệm thực tế, kể cả ở Việt Nam, để có thể đánh giá được toàn diện ưu, nhược điểm của mô hình. Từ đó làm tiền đề cho các nghiên cứu khả thi về mặt kinh tế, tài chính, từ đó đưa giải pháp vào thực tiễn đảm bảo hiệu quả cao nhất. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải Hàn Quốc trong dự án nghiên cứu có mã số No.21SMIP-A158708-02. Tài liệu tham khảo [1] Ezy, M., Saghatforoush, E., Abbasianjahromi, H. (2018). An investigation of advantages and disadvan- tages of off-site manufacturing: a meta-synthesis. International Journal of Project Organisation and Management, 10(4):307. [2] Koem, C., Shim, C.-S., Park, S.-J. (2016). Seismic performance of prefabricated bridge columns with combination of continuous mild reinforcements and partially unbonded tendons. Smart structures and systems, 17(4):541–557. [3] Shim, C. S., Chung, C.-H., Kim, H. H. (2008). Experimental evaluation of seismic performance of precast segmental bridge piers with a circular solid section. Engineering Structures, 30(12):3782–3792. [4] Shim, C.-S., Chung, C.-H., Kim, I.-K., Kim, Y.-J. (2010). Development and Application of Precast Decks for Composite Bridges. Structural Engineering International, 20(2):126–133. 179 Cương, N. D., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng [5] Shim, C., Lee, S., Park, S., Koem, C. (2017). Experiments on prefabricated segmental bridge piers with continuous longitudinal reinforcing bars. Engineering Structures, 132:671–683. [6] Shim, C.-S., Dang, S. N., Park, S. (2018). Three-Dimensional Information Delivery for Design and Construction of Prefabricated Bridge Piers. Structural Engineering International, 28(1):6–12. [7] Culmo, M. P., Halling, M. W., Maguire, M., Mertz, D. (2017). Recommended guidelines for prefabri- cated bridge elements and systems tolerances and recommended guidelines for dynamic effects for bridge systems. No. NCHRP Project 12-98. [8] Culmo, M. P., Marsh, L., Stanton, J. (2018). Recommended AASHTO Guide Specifications for ABC Design and Construction. Transportation Research Board. [9] Boothroyd, G., Dewhurst, P., Knight, W. A. (2010). Product Design for Manufacture and Assembly. CRC Press. [10] Quân, N. T., Tâm, T. V. (2018). Thiết kế chương trình dạy học cho khóa đào tạo giảng viên nguồn về bim tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (KHCNXD)-ĐHXDHN, 12(1):3–10. [11] BCA (2016). BIM for DfMA (Design for Manufacturing and Assembly) Essential Guide. Building and Construction Authority (BCA) Singapore: Singapore. [12] Boothroyd, G., Knight, W. (1993). Design for assembly. IEEE Spectrum, 30(9):53–55. [13] Molloy, O., Tilley, S., Warman, E. (1998). Design for Manufacturing and Assembly. Springer US. [14] Kostopoulos, G. K. (1975). Digital engineering. Wiley, New York. [15] Wasim, M., Serra, P. V., Ngo, T. D. (2020). Design for manufacturing and assembly for sustainable, quick and cost-effective prefabricated construction – a review. International Journal of Construction Management, 1–9. [16] Shim, C.-S., Lee, K.-M., Kang, L. S., Hwang, J., Kim, Y. (2012). Three-Dimensional Information Model- Based Bridge Engineering in Korea. Structural Engineering International, 22(1):8–13. [17] Lee, K. M., Lee, Y. B., Shim, C. S., Park, K. L. (2012). Bridge information models for construction of a concrete box-girder bridge. Structure and Infrastructure Engineering, 8(7):687–703. [18] Gao, S., Low, S. P., Nair, K. (2018). Design for manufacturing and assembly (DfMA): a preliminary study of factors influencing its adoption in Singapore. Architectural Engineering and Design Management, 14 (6):440–456. [19] Arashpour, M., Miletic, M., Williams, N., Fang, Y. (2018). Design for Manufacture and Assembly in Off- Site Construction: Advanced Production of Modular Fac¸ade Systems. Proceedings of the International Symposium on Automation and Robotics in Construction, International Association for Automation and Robotics in Construction (IAARC). [20] Tik, L. B., Jhun, K. K., Tatt, S. L., Lin, A. F., Min, T. S. (2019). Design for manufacturing and assembly (DfMA) for Malaysia construction industry. Malaysian Construction Research Journal (MCRJ), 190. [21] Hosseini, M. R., Jupp, J., Papadonikolaki, E., Mumford, T., Joske, W., Nikmehr, B. (2020). Position paper: digital engineering and building information modelling in Australia. Smart and Sustainable Built Environment. 180
File đính kèm:
- mo_hinh_so_ky_thuat_cho_cau_duc_san_su_dung_trong_thiet_ke_d.pdf