Mối quan hệ giữa các cấu trúc quản trị và hiệu quả doanh nghiệp: Các hướng nghiên cứu tiềm năng
Tóm tắt Mối quan hệ giữa các cấu trúc quản trị và hiệu quả doanh nghiệp: Các hướng nghiên cứu tiềm năng: ...ác cơ chế quản trị quốc gia [34], và vì vậy, không thể cung cấp một sự hiểu biết thấu đáo về hiệu lực của các cơ chế quản trị doanh nghiệp trong những môi trường thể chế khác nhau [35]. Một hướng nghiên cứu mới nổi gần đây trong chuyên ngành quản trị doanh nghiệp đã xem xét lại khuôn k... việc suy diễn các kết luận mang tính nhân quả từ các ước lượng kinh tế lượng là điều không khả thi. Công trình thực nghiệm tiên phong của Wintoki và cộng sự (2012) cung cấp một hướng dẫn hữu ích và quan trọng trong việc xác định định dạng mô hình và lựa chọn kỹ thuật ước lượng thích h...n ngành quản trị doanh nghiệp hiện nay, cũng như cung cấp những hàm ý chính sách quan trọng trong việc xác định những hệ quả thị trường của những thay đổi chính sách quản trị doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo [1] Adams, R. and D. Ferreira, “Women in the boardroom and their impact on gov...
ải thích trong mô hình có thể bao quát được tất cả các đặc tính doanh nghiệp (quan sát được và không quan sát được) hay không, nên kỹ thuật ước lượng các ảnh hưởng cố định phải được sử dụng để giảm thiểu các thiên lệch gây ra do bỏ sót biến [42]. Tính đồng thời có thể nảy sinh khi ít nhất một biến giải thích được xác định một cách đồng thời với biến phụ thuộc trong mô hình [43]. Ví dụ, một HĐQT đa dạng hơn về giới có thể giúp tăng cường chức năng giám sát của HĐQT, và nhờ thế, có thể giúp cải thiện hiệu quả tài chính doanh nghiệp [1]. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao có thể có nhiều thành viên nữ trong HĐQT hơn các doanh nghiệp khác bởi vì nữ giới có khuynh hướng lựa chọn làm việc cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả [18]. Điều này có nghĩa là biến đa dạng giới trong HĐQT và biến hiệu quả doanh nghiệp có thể được xác định và ảnh hưởng lẫn nhau một cách đồng thời. Như đã trình bày ở trên, bên cạnh hai nguồn nội sinh đã nêu, có thể có một nguồn nội sinh khác ẩn chứa trong mối quan hệ giữa quản trị và hiệu quả doanh nghiệp, được gọi là tính nội sinh động. Một số nghiên cứu gần đây gợi ý rằng bản chất của mối quan hệ này là động, nghĩa là những đặc tính quản trị và hiệu quả doanh nghiệp hiện hành có thể chịu sự tác động của hiệu quả doanh nghiệp trong quá khứ [27, 31, 32]. Phát hiện thực nghiệm này phù hợp với các quan điểm lý thuyết được đề xuất bởi Harris và Raviv (2008), và Raheja (2005) về bản chất động của mối quan hệ giữa quản trị và hiệu quả doanh nghiệp [44-46]. Wintoki và cộng sự (2012), Schultz và cộng sự (2010) lập luận rằng nếu mối quan hệ động này thật sự tồn tại thì những phát hiện về mối quan hệ nhân quả giữa quản trị và hiệu quả doanh nghiệp của các nghiên cứu trước đây, sử dụng các kỹ thuật ước lượng bình phương tối thiểu thông thường (OLS) hay ước lượng các ảnh hưởng cố định (FE), có thể là giả mạo [27, 32]. Nói cách khác, nếu tính nội sinh động không được kiểm soát một cách đầy đủ thì việc suy diễn các kết luận mang tính nhân quả từ các ước lượng kinh tế lượng là điều không khả thi. Công trình thực nghiệm tiên phong của Wintoki và cộng sự (2012) cung cấp một hướng dẫn hữu ích và quan trọng trong việc xác định định dạng mô hình và lựa chọn kỹ thuật ước lượng thích hợp cho các đề tài nghiên cứu tương lai trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp [27]. Theo đó, Wintoki và cộng sự (2012) gợi ý rằng mô hình thực nghiệm thích hợp cho mối quan hệ nhân quả tiềm năng giữa quản trị và hiệu quả doanh nghiệp không nên là một mô hình tĩnh như trong các nghiên cứu trước đây mà phải là một mô hình động, trong đó một (hoặc một số) giá trị trễ của biến phụ thuộc được sử dụng như là (các) biến giải thích trong mô hình [27]. Tuy nhiên, sự hiện diện của cấu trúc tự hồi quy bậc một [AR(1)] (hoặc bậc cao hơn) trong mô hình đã dẫn đến những ước lượng thiên lệch và/hoặc không nhất quán nghiêm trọng nếu sử dụng các kỹ thuật OLS hay FE [47]. Tương tự, mặc dù phương pháp ước lượng biến công cụ (IV) thường được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây để kiểm soát các ảnh hưởng cố định không quan sát được và tính đồng thời, phương pháp này không được thiết kế để đối phó với tính nội sinh động của mối quan hệ quản trị công ty - hiệu quả doanh nghiệp đã nêu ở trên [27]. Do vậy, cả ba kỹ thuật ước lượng truyền thống OLS, FE và IV có thể không phải là những kỹ thuật thích hợp để ước lượng các mô hình động trong nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp. Hai kỹ thuật kinh tế lượng khác có thể khắc phục được những hạn chế của ba kỹ thuật nêu trên, và có thể áp dụng cho các mô hình động với các biến giải thích nội sinh, đó là: (i) Ước lượng AB difference GMM, được đề xuất bởi Arellano và Bond (1991) [48]; và (ii) Ước lượng BB system GMM, được đề xuất bởi Blundell và Bond (1998) [49]. Blundell và Bond (1998) đã chứng minh rằng ước lượng BB System GMM thì hiệu quả hơn và ít thiên lệch do mẫu hữu hạn hơn so với ước lượng AB difference GMM. Hơn nữa, các phân tích mô phỏng được thực hiện gần đây bởi Flannery và Hankins (2013), và Zhou (2014) đã chứng minh N.V. Tuấn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 1 (2017) 83-91 88 rằng ước lượng BB system GMM là một ước lượng hiệu quả nhất cho các tập dữ liệu bảng động [47, 50]. Do vậy, tác giả đề xuất các nghiên cứu tương lai trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp nên sử dụng ước lượng BB system GMM cho các mô hình dữ liệu bảng động nhằm kiểm soát các quan ngại nội sinh ẩn chứa trong mối quan hệ quản trị - hiệu quả doanh nghiệp, bao gồm: (i) Tính nội sinh động; (ii) Tính đồng thời; (iii) Các ảnh hưởng cố định không quan sát được [27]. Trong chuyên ngành quản trị doanh nghiệp, phương pháp này đã được ứng dụng trong một số nghiên cứu gần đây [27, 38, 39, 51, 52]. Bên cạnh phương pháp nêu trên thì phương pháp hồi quy đa biến, đa cấp cũng có thể được áp dụng để khám phá tác động của các biến chất lượng quản trị doanh nghiệp và chất lượng quản trị quốc gia đối với hiệu quả doanh nghiệp. Kỹ thuật hồi quy đa cấp này cho phép tách biệt tác động cấp doanh nghiệp và tác động cấp quốc gia đối với biến phụ thuộc. Tác giả cho rằng bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy đa biến, đa cấp để phân tích các tập dữ liệu đa quốc gia, các đề tài nghiên cứu tương lai có thể khắc phục được những hạn chế của các nghiên cứu trước đây, vốn chỉ tập trung cho các thị trường đã phát triển như Anh hay Hoa Kỳ. 4. Những vấn đề cần được tiếp tục giải quyết Từ các phân tích nêu trên, tác giả tin rằng các nghiên cứu trong lĩnh vực này có thể áp dụng phương pháp mô hình hóa động để phân tích dữ liệu đa quốc gia nhằm tìm hiểu các tác động nhân quả tiềm năng của các cấu trúc quản trị doanh nghiệp (ví dụ như đa dạng giới trong HĐQT hay cấu trúc sở hữu) và chất lượng quản trị đối với hiệu quả doanh nghiệp, xét trong mối quan hệ tương tác với chất lượng quản trị của quốc gia. Theo đó, các nghiên cứu tương lai cần tập trung giải quyết hai câu hỏi nghiên cứu quan trọng mà cho đến nay các phân tích thực nghiệm trong chuyên ngành vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng: (i) Một là có hay không mối quan hệ nhân quả giữa các biến cấu trúc quản trị doanh nghiệp (như đa dạng giới trong HĐQT, cấu trúc HĐQT, cấu trúc sở hữu), chất lượng quản trị và hiệu quả doanh nghiệp, một khi bản chất nội sinh động của các mối quan hệ này được tính đến?; (ii) Hai là liệu các quan hệ nhân quả đó (nếu có) có bị điều hòa bởi chất lượng quản trị quốc gia hay không? Hai vấn đề nghiên cứu này là những chủ đề mới nổi trong chuyên ngành quản trị doanh nghiệp và nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới. Các phát hiện thực nghiệm từ các hướng nghiên cứu này sẽ là những đóng góp rất có ý nghĩa cho chuyên ngành cả về mặt thực tiễn (hoạch định chính sách quản trị doanh nghiệp) và lý luận (phương pháp ước lượng). Trong lược sử nghiên cứu của chuyên ngành quản trị doanh nghiệp trên thế giới, có khá ít các nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình hóa động để khám phá một tập dữ liệu đa quốc gia về quản trị doanh nghiệp và quản trị quốc gia. Việc xem xét đồng thời các biến ở cấp độ doanh nghiệp và cấp độ quốc gia sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc khám phá những tác động mang tính tương hỗ giữa các biến này đối với hiệu quả doanh nghiệp. Bằng cách đó, các nghiên cứu tương lai được kỳ vọng sẽ đóng góp một cách có ý nghĩa vào một chủ đề mới nổi trong chuyên ngành quản trị doanh nghiệp, liên quan đến vai trò của các cơ chế quản trị quốc gia đối với mối quan hệ quản trị - hiệu quả doanh nghiệp, được khởi xướng gần đây bởi một số học giả uy tín trong chuyên ngành [34, 35]. 5. Kết luận Tác giả đề xuất các nghiên cứu tương lai trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp cần tập trung giải quyết các mục tiêu sau: (i) Một là phải cung cấp được bằng chứng thực nghiệm từ dữ liệu đa quốc gia để làm sáng tỏ tác động của đa dạng giới trong HĐQT (và các biến cấu trúc HĐQT khác) đối với hiệu quả doanh nghiệp. Liệu phát hiện đó có bền vững khi bản chất động của mối quan hệ này được kiểm soát hay không? Và liệu mối quan hệ này có bị điều tiết N.V. Tuấn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 1 (2017) 83-91 89 bởi các cơ chế quản trị quốc gia hay không?; (ii) Hai là vận dụng phương pháp mô hình hóa động để cung cấp bằng chứng thực nghiệm nhằm làm rõ vai trò của cấu trúc sở hữu đối với hiệu quả doanh nghiệp cũng như vai trò điều tiết của các cơ chế quản trị quốc gia đối với mối quan hệ này; (iii) Ba là xét trên quan điểm động, chất lượng quản trị doanh nghiệp - đo lường bởi mức độ tuân thủ và sự thực thi các quy tắc quản trị doanh nghiệp được chấp nhận phổ biến - có ảnh hưởng như thế nào đối với hiệu quả doanh nghiệp? Liệu ảnh hưởng đó có bị điều tiết bởi chất lượng quản trị quốc gia hay không? Và như thế nào?. Các kết quả đạt được từ việc nghiên cứu cả ba chủ đề nêu trên sẽ cho phép đi đến một số phát hiện mang tính khái quát hóa cao về những vấn đề đang gây ra nhiều tranh cãi trong chuyên ngành quản trị doanh nghiệp hiện nay, cũng như cung cấp những hàm ý chính sách quan trọng trong việc xác định những hệ quả thị trường của những thay đổi chính sách quản trị doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo [1] Adams, R. and D. Ferreira, “Women in the boardroom and their impact on governance and performance”, Journal of Financial Economics, 94 (2009) 2, 291-309. [2] HKEC, Consultation paper: Board diversity, Hong Kong, China: Hong Kong Exchanges and Clearing Limited, 2012. [3] Carter, D.A., et al., “The gender and ethnic diversity of US boards and board committees and firm financial performance”, Corporate Governance: An International Review, 18 (2010) 5, 396-414. [4] Adams, R. and P. Funk, “Beyond the glass ceiling: Does gender matter?”, Management Science, 58 (2012) 2, 219-235. [5] Fama, E.F. and M. Jensen, “Separation of ownership and control”, Journal of Law and Economics, 26 (1983) 2, 301-325. [6] Jensen, M. and W. Meckling, “Theory of the firm: Managerial behaviour, agency cost, and ownership structure”, Journal of Financial Economics, 3 (1976) 5, 305-360. [7] Goodstein, J., K. Gautam, and W. Boeker, “The effects of board size and diversity on strategic change”, Strategic Management Journal, 15 (1994) 3, 241-250. [8] Pfeffer, J., “Size, composition, and function of hospital boards of directors: A study of organization-environment linkage”, Administrative Science Quarterly, 18 (1973) 3, 349-364. [9] Hillman, A.J. and T. Dalziel, “Boards of directors and firm performance: Integrating agency and resource dependence perspectives”, Academy of Management Review, 28 (2003) 3, 383-396. [10] Pfeffer, J. and G.R. Salancik, The external control of organizations: A resource dependence perspective, Stanford, California: Stanford University Press, 2003. [11] Rose, C., “Does female board representation influence firm performance? The Danish evidence”, Corporate Governance: An International Review, 15 (2007) 2, 404-413. [12] Erhardt, N.L., J.D. Werbel, and C.B. Shrader, “Board of director diversity and firm financial performance”, Corporate Governance: An International Review, 11 (2003) 2, 102-111. [13] Campbell, K. and A. Mínguez-Vera, “Gender diversity in the boardroom and firm financial performance”, Journal of Business Ethics, 83 (2008) 3, 435-451. [14] Mohan, N., “A review of the gender effect on pay, corporate performance and entry into top management”, International Review of Economics and Finance, 34 (2014) C, 41-51. [15] Dezsö, C.L. and D.G. Ross, “Does female representation in top management improve firm performance? A panel data investigation”, Strategic Management Journal, 33 (2012) 9, 1072-1089. [16] Carter, D.A., B.J. Simkins, and W.G. Simpson, “Corporate governance, board diversity, and firm value”, Financial Review, 38 (2003) 1, 33-53. [17] Ahern, K.R. and A. Dittmar, “The changing of the boards: The impact on firm valuation of mandated female board representation”, Quarterly Journal of Economics, 127 (2012) 1, 137-197. [18] Farrell, K.A. and P.L. Hersch, “Additions to corporate boards: The effect of gender”, Journal of Corporate Finance, 11 (2005) 1&2, 85-106. [19] Terjesen, S., R. Sealy, and V. Singh, “Women directors on corporate boards: A review and research agenda”, Corporate Governance: An International Review, 17 (2009) 3, 320-337. N.V. Tuấn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 1 (2017) 83-91 90 [20] Demsetz, H., “The structure of ownership and the theory of the firm”, Journal of Law and Economics, 26 (1983) 2, 375-90. [21] Demsetz, H. and B. Villalonga, “Ownership structure and corporate performance”, Journal of Corporate Finance, 7 (2001) 3, 209-233. [22] Lemmon, M.L. and K.V. Lins, “Ownership structure, corporate governance, and firm value: Evidence from the East Asian financial crisis”. The Journal of Finance 58 (2003) 4, 1445-1468. [23] Himmelberg, C.P., R.G. Hubbard, and D. Palia, “Understanding the determinants of managerial ownership and the link between ownership and performance”, Journal of Financial Economics, 53 (1999) 3, 353-384. [24] Yabei, H. and S. Izumida, “Ownership concentration and corporate performance: A causal analysis with Japanese panel data”, Corporate Governance: An International Review, 16 (2008) 4, 342-358. [25] Thomsen, S. and T. Pedersen, “Ownership structure and economic performance in the largest European companies”, Strategic Management Journal, 21 (2000) 6, 689-705. [26] Gedajlovic, E. and D.M. Shapiro, “Ownership structure and firm profitability in Japan”, Academy of Management Journal, 45 (2002) 3, 565-575. [27] Wintoki, M.B., J.S. Linck, and J.M. Netter, “Endogeneity and the dynamics of internal corporate governance”, Journal of Financial Economics, 105 (2012) 3, 581-606. [28] Xu, X. and Y. Wang, “Ownership structure and corporate governance in Chinese stock companies”, China Economic Review, 10 (1999) 1, 75-98. [29] Hu, H., O. Tam, and M. Tan, “Internal governance mechanisms and firm performance in China”, Asia Pacific Journal of Management, 27 (2010) 4, 727-749. [30] Haniffa, R. and M. Hudaib, “Corporate governance structure and performance of Malaysian listed companies”, Journal of Business Finance and Accounting, 33 (2006) 7&8, 1034-1062. [31] Pham, P.K., J.A. Suchard, and J. Zein, “Corporate governance and alternative performance measures: Evidence from Australian firms”, Australian Journal of Management, 36 (2011) 3, 371-386. [32] Schultz, E.L., D.T. Tan, and K.D. Walsh, “Endogeneity and the corporate governance- performance relation”, Australian Journal of Management, 35 (2010) 2, 145-163. [33] Wang, K. and G. Shailer, “Ownership concentration and firm performance in emerging markets: A meta-analysis”, Journal of Economic Surveys, 29 (2015) 2, 199-229. [34] Filatotchev, I., G. Jackson, and C. Nakajima, “Corporate governance and national institutions: A review and emerging research agenda”, Asia Pacific Journal of Management, 30 (2013) 4, 965-986. [35] Kumar, P. and A. Zattoni, “How much do country-level or firm-level variables matter in corporate governance studies?”, Corporate Governance: An International Review, 21 (2013) 3, 199-200. [36] Aslan, H. and P. Kumar, “National governance bundles and corporate agency costs: A cross- country analysis”, Corporate Governance: An International Review, 22 (2014) 3, 230-251. [37] Van Essen, M., P.J. Engelen, and M. Carney, “Does 'good' corporate governance help in a crisis? The impact of country- and firm-level governance mechanisms in the European financial crisis”, Corporate Governance: An International Review, 21 (2013) 3, 201-224. [38] Nguyen, T., S. Locke, and K. Reddy, “A dynamic estimation of governance structures and financial performance for Singaporean companies”, Economic Modelling, 40 (2014) C, 1-11. [39] Nguyen, T., S. Locke, and K. Reddy, “Does boardroom gender diversity matter? Evidence from a transitional economy”, International Review of Economics and Finance, 37 (2015) C, 184-202. [40] Nguyen, T., S. Locke, and K. Reddy, “Ownership concentration and corporate performance from a dynamic perspective: Does national governance quality matter?”, International Review of Financial Analysis, 41 (2015) C, 148-161. [41] Wooldridge, J.M., Econometric analysis of cross section and panel data, Cambridge, MA: The MIT Press, 2002. [42] Roberts, M.R. and T.M. Whited, Endogeneity in empirical corporate finance, in Handbook of the economics of finance, M.H. George M. Constantinides and M.S. Rene, Editors. Elsevier: Saint Louis, USA, 2013, p. 493-572. [43] Wooldridge, J.M., Introductory econometrics: A modern approach, 4 ed., Mason, USA: South- Western Cengage Learning, 2009. N.V. Tuấn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 1 (2017) 83-91 91 [44] Harris, M. and A. Raviv, “A theory of board control and size”, Review of Financial Studies, 21 (2008) 4, 1797-1832. [45] Hermalin, B.E. and M.S. Weisbach, “Endogenously chosen boards of directors and their monitoring of the CEO”, American Economic Review, 88 (1998) 1, 96-118. [46] Raheja, C.G., “Determinants of board size and composition: A theory of corporate boards”, Journal of Financial and Quantitative Analysis, 40 (2005) 2, 283-306. [47] Flannery, M.J. and K.W. Hankins, “Estimating dynamic panel models in corporate finance”, Journal of Corporate Finance, 19 (2013) C, 1-19. [48] Arellano, M. and S. Bond, “Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations”, Review of Economic Studies, 58 (1991) 2, 277-297. [49] Blundell, R. and S. Bond, “Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models”, Journal of Econometrics, 87 (1998) 1, 115-143. [50] Zhou, Q., R. Faff, and K. Alpert, “Bias correction in the estimation of dynamic panel models in corporate finance”, Journal of Corporate Finance, 25 (2014) C, 494-513. [51] Chen, M.Y., “Determinants of corporate board structure in Taiwan”, International Review of Economics and Finance, 32 (2014) C, 62-78. [52] Munisi, G. and T. Randøy, “Corporate governance and company performance across Sub-Saharan African countries”, Journal of nomics and Business, 70 (2013) C, 92-110. The Relationships amongst Corporate Governance Structures and Firm Performance: A Potential Research Agenda Nguyen Van Tuan Dalat University, No. 1, Phu Dong Thien Vuong, Da Lat City, Lam Dong, Vietnam Abstract: This paper reviews recent empirical studies on corporate governance to clarify the causal relationships amongst corporate governance structures and firm performance. Based on previous empirical research results, this paper suggests several important but controversial research questions in corporate governance literature. First, whether or not there are casual relationships amongst corporate governance mechanisms (especially boardroom gender diversity and ownership structures) and firm performance once the dynamic nature of these relationships is taken into consideration. Second, whether or not these casual relationships (if any) are moderated by the national governance quality of the country within which firms operate. These two research questions may suggest a potential research agenda in the corporate governance literature. Keywords: Corporate governance structures, national governance, firm performance, endogeneity, Vietnam.
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_cac_cau_truc_quan_tri_va_hieu_qua_doanh_ngh.pdf