Một số nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Christian Wolff (1679 - 1754)
Tóm tắt Một số nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Christian Wolff (1679 - 1754): ...Wolff, 1980, tr.12). Cũng nh− các nhà triết học Anh, Pháp và Đức thế kỷ XVII-XVIII, Wolff cho rằng nguồn gốc của luật tự nhiên xuất phát từ bản tính tự nhiên của con ng−ời. Tuy nhiên, trong khi Hobbes cho rằng bản tính con ng−ời là tham lam, ích kỷ, độc ác nh− sói và gấu, vì vậy, tro...Wolff, 1980, tr.35). Điều đó cũng có nghĩa là “quyền hoàn thiện là quyền bẩm sinh (recht auf vollkommenheit ist angeborenes recht), vì vậy, không ai có quyền sử dụng quyền của mình để cản trở quyền hoàn thiện của ng−ời khác” (C. Wolff, 1980, tr.45). Tuy nhiên, cũng nh− Thomas Aquin...ff - cũng là trái với luật tự nhiên. “Bởi không ai có thể ngăn chặn việc sử dụng các quyền của tôi và cũng không ai có quyền lấy nó đi, vì vậy tôi cũng không đ−ợc phép làm điều đó đối với quyền của ng−ời khác. Một số nội dung cơ bản 35 Mỗi ng−ời cần đảm bảo quyền của mình và không xâ...
MộT Số NộI DUNG CƠ BảN CủA TƯ TƯởNG TRIếT HọC PHáP QUYềN CHRISTIAN WOLFF (1679 - 1754) NGÔ THị Mỹ DUNG (*) à một trong những nhà t− t−ởng nổi tiếng của thời kỳ Khai sáng, nhà triết học Đức C. Wolff đã để lại cho nhân loại nhiều t− t−ởng có giá trị, trong đó có t− t−ởng pháp quyền. Với những tác phẩm đồ sộ nghiên cứu về luật tự nhiên, luật ban hành, hệ thống quyền lực nhà n−ớc và luật quốc tế, C. Wolff đã trở thành ng−ời sáng lập thực sự của khoa học luật và triết học pháp quyền Đức thế kỷ XVIII. Với những cống hiến to lớn trong nhiều lĩnh vực, nhà t− t−ởng bách khoa (enzyklopọdischer denker), C. Wolff không chỉ là một trong những triết gia quan trọng nhất của phong trào Khai sáng Đức, mà còn là một trong những ng−ời đầu tiên sáng tạo ra ngôn ngữ triết học Đức (cùng với Christian Thomasius (1655-1728)) khi đ−a tiếng Đức vào giảng dạy ở các tr−ờng đại học và viết các tác phẩm của mình. Hệ thống triết học Wolff bao gồm nhiều lĩnh vực, từ logic học (1712), siêu hình học (1719), đạo đức học (1720), học thuyết xã hội (1721) đến mục đích luận (1725), trong đó triết học pháp quyền chiếm một vị trí quan trọng. Với tám tập viết bằng tiếng La tinh bàn về tính hợp lý của luật tự nhiên xuất phát từ bản tính tự nhiên của con ng−ời đ−ợc tổng hợp trong tác phẩm(*)“Luật tự nhiên theo ph−ơng pháp khoa học” (Jus naturae methodo scientifica pertractatum) từ năm 1740 đến 1748, cùng với các tác phẩm bàn về hệ thống quyền lực nhà n−ớc, luật ban hành và luật quốc tế nh− “Luật ban hành theo ph−ơng pháp khoa học” (Ius gentium methodo scientifica pertractatum) (1749); “Các tổ chức, luật tự nhiên và luật quốc tế” (Institutiones Iuris Naturae et Gentium) (1750) và “Những nguyên tắc cơ bản của luật tự nhiên và luật quốc tế” (Grundsọtze des Natur- und Vửlkerrechts) (1754), Wolff đã trở thành một trong những đại biểu quan trọng nhất của t− t−ởng triết học pháp quyền Đức thế kỷ XVIII. Bài viết trình bày và phân tích mối liên hệ giữa bản tính tự nhiên của con ng−ời và luật tự nhiên, giữa quyền tự nhiên của con ng−ời và vấn đề nhà n−ớc trong tác phẩm “Những nguyên tắc cơ bản của luật tự nhiên và luật quốc tế” (*) TS., Tr−ờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. L Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2014 32 (Grundsọtze des Natur-und Vửlkerrechts”) xuất bản năm 1754, qua đó góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản trong t− t−ởng triết học pháp quyền của ông. 1. Bản tính tự nhiên của con ng−ời và luật tự nhiên Một trong những nội dung quan trọng của lịch sử t− t−ởng triết học pháp quyền ph−ơng Tây là vấn đề luật tự nhiên, luật ban hành (luật thực định) và mối quan hệ giữa chúng. Các nhà triết học từ thời cổ đại đến thời kỳ Phục h−ng và cận đại đều cho rằng bên cạnh luật ban hành còn tồn tại một thứ luật cao hơn, đó là luật tự nhiên. Luật tự nhiên là phổ biến và có giá trị ở mọi thời đại. Tuy nhiên, khái niệm luật tự nhiên (lex naturalis) ở mỗi thời đại lại đ−ợc hiểu rất khác nhau. Tr−ớc thời kỳ Phục h−ng, các nhà triết học th−ờng cho rằng luật tự nhiên là Logos, ý niệm hay ý chí tối cao của Th−ợng đế (A. Kaufmann, 1997, tr.21); là “sự phản chiếu của luật Th−ợng đế thông qua lý trí của con ng−ời” nh− mong muốn bảo toàn sinh mạng, kế tục nòi giống và chung sống thành xã hội. Luật tự nhiên không chỉ quyết định sự vận hành các cơ quan của con ng−ời mà còn chứa đựng trong nó những chuẩn mực luân lý, vì vậy, luật tự nhiên cũng là luật đạo đức (A. Kaufmann, 1997, tr.23). Khác với những t− t−ởng của các nhà triết học thời kỳ trên, các nhà triết học thời phục h−ng và cận đại nh− Hugo Grotius (1583-1642), Thomas Hobbes (1588-1679), John Locke (1632-1704), Montesquieu (1689-1755), Samuel von Pufendorf (1632-1694), Christian Thomasius (1655-1728), đều xuất phát từ “bản tính tự nhiên” của con ng−ời (độc ác, thiện, ích kỷ,) để lập luận cho luật tự nhiên (chung sống thành xã hội; bảo tồn nòi giống;), từ đấy khẳng định quyền tự nhiên của con ng−ời (quyền sống, quyền tự do, m−u cầu hạnh phúc;...) và đ−a ra những hình thức và quyền lực nhà n−ớc (thống nhất quyền lực; phân chia quyền lực;...) để đảm bảo cho những quyền tự nhiên đó. Kế thừa những t− t−ởng trên, Wolff cho rằng mục đích t− t−ởng pháp quyền của ông không phải là đ−a ra những nội dung mới mà là tìm cách chứng minh và hoàn thiện những vấn đề đã đ−ợc các nhà triết học đi tr−ớc đặt ra. Trong Lời nói đầu của tác phẩm “Những nguyên tắc cơ bản của luật tự nhiên và luật quốc tế”, ông viết: “Mục đích tác phẩm của tôi là tìm nguồn gốc của tất cả pháp luật trong bản tính tự nhiên của con ng−ời (die Quelle alles Rechts in der menschlichen Natur gefunden), cái mà những nhà triết học từ thời cổ đại đã làm trong một thời gian dài và những bậc thầy tài ba đã trình bày lại, nh−ng không có nghĩa là đã đ−ợc chứng minh. Tôi đã không chỉ bị thuyết phục bởi những quan điểm của các nhà triết học từ tr−ớc đến nay, mà còn có thể làm rõ chân lý của những nguyên tắc trên bằng cách liên kết chúng với hành vi thực tiễn của con ng−ời” (C. Wolff, 1980, tr.12). Cũng nh− các nhà triết học Anh, Pháp và Đức thế kỷ XVII-XVIII, Wolff cho rằng nguồn gốc của luật tự nhiên xuất phát từ bản tính tự nhiên của con ng−ời. Tuy nhiên, trong khi Hobbes cho rằng bản tính con ng−ời là tham lam, ích kỷ, độc ác nh− sói và gấu, vì vậy, trong trạng thái tự nhiên, con ng−ời có thể làm tất cả để tranh giành quyền lợi cá nhân, bất chấp đến tính mạng hay lợi ích của ng−ời khác, liên tục xảy ra xung Một số nội dung cơ bản 33 đột và chống phá lẫn nhau; và, theo Pufendorf, bản tính con ng−ời vừa tham lam, vừa có xu h−ớng làm hại ng−ời khác, nh−ng đồng thời cũng là sinh vật yếu đuối, không thể sống nổi nếu không có sự trợ giúp của đồng loại, vì vậy con ng−ời luôn có nhu cầu đ−ợc sống bên nhau, hình thành luật tự nhiên, sống thành xã hội giúp đỡ lẫn nhau cùng tồn tại (Sammuel von Pufendorf, 2007, tr.20), thì Wolff cho rằng bản tính tự nhiên của con ng−ời là v−ơn tới sự hoàn thiện (hoàn hảo-vollkommenheit). Theo đó, sự hoàn thiện của một sự việc nhìn chung nằm trong sự thống nhất của cái đa dạng hoặc nhiều cái trong một tổng thể sự vật. Sự hoàn thiện có thể thông qua sự xác định của tất cả những gì bao hàm trong nó. Chẳng hạn một chiếc đồng hồ hoàn hảo khi các bộ phận của nó hoạt động chính xác. Ng−ợc lại, sự không hoàn hảo (unvollkommenheit) là thiếu sự thống nhất của cái đa dạng (mangel der ỹbereinstimmung) hoặc nhiều cái trong một tổng thể sự vật. Chẳng hạn một con mắt không hoàn hảo là con mắt nhìn không rõ hoặc khó nhìn do cái gì đó cản trở nó (C. Wolff, 1980, tr.12). Vì vậy, sự hoàn thiện của con ng−ời - theo Wolff - là sự phát triển tổng thể (gesamheit) và hài hòa của những tiềm năng đa dạng (vielfalt der mửglichkeiten) trong mỗi cá nhân trong đời sống cộng đồng (C. Wolff, 1980, tr.14). Bản tính tự nhiên của con ng−ời là tự do và bình đẳng: “Từ tự nhiên tất cả con ng−ời là tự do” - Von natur sind also alle menschen frei (C. Wolff, 1980, tr.46). “Từ tự nhiên, mọi ng−ời đều bình đẳng không ai có đặc quyền tự nhiên” (C. Wolff, 1980, tr.45). Sự tự do tự nhiên và bình đẳng tự nhiên thể hiện rõ trong trạng thái tự nhiên (naturzustand) của con ng−ời. Trong trạng thái này, mỗi ng−ời làm theo ý chí của mình mà không bị lệ thuộc vào ý chí của ng−ời khác. Tuy nhiên, cũng nh− Pufendorf, Wolff cho rằng cá nhân không thể hoàn thiện mình nếu không có các mối quan hệ cũng nh− sự giúp đỡ của những cá nhân khác. “Con ng−ời phải sống thành xã hội, đó là luật tự nhiên. Luật tự nhiên liên kết mọi ng−ời với nhau và từ sự liên kết tự nhiên này không ai có thể thoát khỏi sự ràng buộc của luật tự nhiên (“das Gesetz der Natur verbinde alle Menschen und von der natỹrlichen Verbindlichkeit kửnne kein Mensch befreit werden”), bởi luật tự nhiên có cơ sở của nó trong con ng−ời và mọi sự vật” (C. Wolff, 1980, tr.30). Bản tính tự nhiên của con ng−ời là v−ơn tới sự hoàn thiện, vì vậy, nguyên tắc chung của luật tự nhiên (principium juris naturae) là thúc đẩy sự hoàn thiện của con ng−ời và tình trạng của con ng−ời (menschenzustand), giúp con ng−ời tránh xa nguy hiểm. Để nuôi sống và hoàn thiện mình, con ng−ời có quyền sử dụng mọi ph−ơng tiện. Nếu các quy luật tự nhiên liên kết chúng ta vì một mục đích nào đó, nó cũng cho chúng ta quyền đối với ph−ơng tiện, bởi sẽ là vô lý nếu tồn tại mục đích mà không có ph−ơng tiện để hoạt động (C. Wolff, 1980, tr.35). Điều đó cũng có nghĩa là “quyền hoàn thiện là quyền bẩm sinh (recht auf vollkommenheit ist angeborenes recht), vì vậy, không ai có quyền sử dụng quyền của mình để cản trở quyền hoàn thiện của ng−ời khác” (C. Wolff, 1980, tr.45). Tuy nhiên, cũng nh− Thomas Aquinas, Wolff cho rằng luật tự nhiên Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2014 34 chính là luật của Th−ợng đế, bởi xét đến cùng, bản chất của mọi sự vật, kể cả bản tính tự nhiên của con ng−ời có nguồn gốc từ Th−ợng đế (C. Wolff, 1980, tr.13). Luật tự nhiên liên kết con ng−ời với nhau và làm cho hành vi của con ng−ời phù hợp với luật tự nhiên; nh− vậy sự liên kết tự nhiên, cũng là sự liên kết thần linh, luật tự nhiên, cũng chính là luật thần linh (die natỹrliche Verbindlichkeit ist auch eine gửttliche, und das natỹrliche Gesetz ist auch ein gửttliches) (C. Wolff, 1980, tr.30). 2. Quyền tự nhiên của con ng−ời và vấn đề nhà n−ớc Kế thừa t− t−ởng của Locke, Montesquieu, đặc biệt là của Pufendorf về quyền tự do tự nhiên (natỹrliche freieit) và bình đẳng tự nhiên (natỹrliche gleichheit) của con ng−ời, Wolff cũng khẳng định rằng, trong trạng thái tự nhiên mọi ng−ời đều tự do và bình đẳng. Từ tự nhiên hình thành trách nhiệm tự nhiên (natỹrliche rechtspflichten) và quyền tự nhiên (natỹrliche rechte) của con ng−ời. Đó là trách nhiệm với chính mình, trách nhiệm với Th−ợng đế và trách nhiệm với những ng−ời khác (C. Wolff, 1980, tr.46). Cũng nh− Pufendorf, Wolff cho rằng con ng−ời không thể phát triển và hoàn thiện mình nếu không có sự trợ giúp của cộng đồng ngay cả khi họ có một cuộc sống tốt. “Một điều hiển nhiên là nhu cầu giúp đỡ của con ng−ời rất lớn, không ai có thể tự hoàn thiện mình mà không cần sự giúp đỡ của ng−ời khác” (C. Wolff, 1980, tr.32). Luật tự nhiên liên kết con ng−ời với nhau giúp con ng−ời ngày càng hoàn thiện hơn và ngăn chặn sự không hoàn thiện, kết quả của sự liên kết này là mỗi ng−ời đ−ợc kết nối với sự hoàn thiện của những ng−ời khác và kiềm chế mọi hành động dẫn đến sự không hoàn thiện (C. Wolff, 1980, tr.32). Trong trạng thái tự nhiên, quyền tự nhiên của con ng−ời, đặc biệt là quyền tự do phát triển và hoàn thiện mình luôn bị đe dọa, bởi ai cũng muốn dùng mọi ph−ơng tiện để bảo vệ quyền của mình, vì vậy các cá nhân buộc phải đồng ý tham gia một khế −ớc xã hội (pactum unionuis) để thành lập một cộng đồng chính trị - một nhà n−ớc - nhằm đảm bảo cho những quyền trên. Với khế −ớc xã hội, theo Wolff, các cá nhân mất đi quyền tự do tự nhiên dùng mọi ph−ơng tiện để hoàn thiện mình, nh−ng có đ−ợc sự bình đẳng thông qua sự đảm bảo của nhà n−ớc. Khế −ớc cũng quy định sự tự do lựa chọn các hình thức nhà n−ớc (quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, dân chủ) dựa trên ý chí chung. Trong khế −ớc, các quyền và nghĩa vụ của các bên (nhà n−ớc và ng−ời dân) đ−ợc quy định rõ ràng, theo đó nhà n−ớc có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu sống (lebensbedỹrfnissen), đảm bảo an toàn pháp lý (rechtsicherheit) và hạnh phúc cộng đồng (Wohlfahrt) (C. Wolff, 1980, tr.21). Một trong những vấn đề quan trọng để nhà n−ớc có thể thực hiện tốt nhiệm vụ trên là luật ban hành phải phù hợp với luật tự nhiên, nghĩa là phải đảm bảo những điều kiện để con ng−ời có thể tự do phát triển và hoàn thiện mình (C. Wolff, 1980, tr.27). Xâm phạm quyền hoàn thiện của con ng−ời d−ới bất kỳ hình thức nào - theo Wolff - cũng là trái với luật tự nhiên. “Bởi không ai có thể ngăn chặn việc sử dụng các quyền của tôi và cũng không ai có quyền lấy nó đi, vì vậy tôi cũng không đ−ợc phép làm điều đó đối với quyền của ng−ời khác. Một số nội dung cơ bản 35 Mỗi ng−ời cần đảm bảo quyền của mình và không xâm hại quyền của ng−ời khác. Vi phạm quyền hoàn thiện của ng−ời khác là trái luật (injuria)” (C. Wolff, 1980, tr.60). Khác với quan điểm của Hobbes cho rằng bản tính tự nhiên của con ng−ời là ích kỷ, đầy tham vọng và trạng thái tự nhiên là trạng thái chiến tranh, vì vậy muốn thoát khỏi trạng thái này phải chuyển giao toàn bộ quyền lực cho nhà n−ớc và nhà cầm quyền có quyền lực tuyệt đối đối với ng−ời dân, Wolff cho rằng quyền lập pháp phải thuộc về nhân dân. Vì nhà n−ớc đ−ợc hình thành trên cơ sở “ý chí chung” nên ng−ời dân có quyền trong việc ban hành, sửa đổi và bãi bỏ luật, nếu những đạo luật đó không phục vụ cho “cái chung tốt nhất” (C. Wolff, 1980, tr.78). Và, để đảm bảo cho những quyền tự nhiên (tự do, bình đẳng, dùng mọi ph−ơng tiện để hoàn thiện mình) đ−ợc thực thi, thì hình thức nhà n−ớc tốt nhất - theo Wolff - là nhà n−ớc quân chủ lập hiến. Kế thừa t− t−ởng của Thomasius về vấn đề hạnh phúc cộng đồng (wohlfart der gesellschaft), Wolff đ−a ra nhận định rằng hạnh phúc cá nhân không thể đạt tới sự hoàn thiện nếu không có sự liên kết với hạnh phúc cộng đồng, vì vậy, sự phồn vinh hay hạnh phúc cộng đồng là mục đích tối cao của nhà n−ớc. Khẩu hiệu đ−ợc ông đ−a ra là: “Hãy làm tất cả những gì thúc đẩy hạnh phúc (sự phồn vinh) cộng đồng; loại bỏ những gì cản trở hay có hại cho nó” (Tun, was die wohlfart der gesellschaft befửrdert; unterlass, was ihr hinderlich oder sonst nachteilig is) (C. Wolff, 1980, tr.21). Ngoài ra, nhà n−ớc còn phải quan tâm đến đời sống văn hóa truyền thống, tạo việc làm cho nhân dân, bởi theo Wolff, trong lao động con ng−ời có thể tự hoàn thiện mình. Một nhà n−ớc hợp lý tính là một nhà n−ớc mà trong đó các thành viên bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi (homines aequalis). Những quan điểm của Wolff về trách nhiệm của nhà n−ớc thực sự có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh n−ớc Đức chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội dân sự. Kế thừa t− t−ởng của Leibniz về bản tính của con ng−ời là luôn mong muốn h−ớng tới sự hoàn thiện, Wolff đã đ−a ra kết luận rằng mục đích cao nhất của xã hội là làm tất cả những gì có thể với khả năng của mình vì sự hoàn thiện của con ng−ời. 3. Kết luận T− t−ởng pháp quyền Wolff đề cập đến nhiều vấn đề, tuy nhiên nổi bật nhất vẫn là vấn đề luật tự nhiên, quyền tự nhiên và vấn đề nhà n−ớc. Kế thừa t− t−ởng của các nhà triết học tiền bối, triết học pháp quyền Wolff cũng xuất phát từ bản tính tự nhiên của con ng−ời (v−ơn tới sự hoàn thiện, tự do, bình đẳng) để lập luận cho luật tự nhiên (chung sống thành xã hội) và quyền tự nhiên của con ng−ời (dùng mọi ph−ơng tiện để hoàn thiện mình, tự do, bình đẳng). Luật tự nhiên có giá trị phổ biến và là tiêu chí của luật ban hành. Ngay cả luật quốc tế cũng đ−ợc Wolff lập luận dựa trên nguyên tắc của luật tự nhiên và đ−ợc ông xem nh− là luật tự nhiên đ−ợc mở rộng. Nét nổi bật trong t− t−ởng pháp quyền Wolff là sự kết hợp giữa ý t−ởng về bản chất xã hội (bản chất cộng đồng) của con ng−ời với ý t−ởng về sự hoàn thiện (perfectio) của con ng−ời từ Leibniz, đặt mục đích cuối cùng của con ng−ời ở trung tâm của học thuyết luật Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2014 36 tự nhiên. Nguyên tắc tối cao của nó là sự liên kết tất cả lực l−ợng thúc đẩy sự hoàn thiện của con ng−ời và kiềm chế các hành động ng−ợc lại. Mặc dù t− t−ởng pháp quyền của Wolff còn hạn chế khi cho rằng luật tự nhiên có giá trị phổ biến và nhà n−ớc đ−ợc hình thành dựa trên khế −ớc, nh−ng tinh thần nhân văn của nó (xuất phát từ con ng−ời để lập luận cho quyền tự nhiên bất khả t−ớc đoạt của con ng−ời, nhiệm vụ của nhà n−ớc là hạnh phúc cộng đồng) đã ảnh h−ởng trực tiếp đến các thể chế chính trị pháp quyền Đức từ đấy về sau TàI LIệU THAM KHảo 1. Christian Wolff (1980), Gesammelte Werke: Grundsọtze des Natur-und Vửlckerrechts (Toàn tập: Những nguyên tắc cơ bản của luật tự nhiên và luật quốc tế), t.19, Newyorker, Hildesheim. 2. Karl Zimmermann (2004), Einleitung. Christian Wolffs rationale Gesellschafts-und Staatslehre zur Fửrderung des Gemeinwohls (Dẫn nhập. Học thuyết nhà n−ớc - xã hội lý tính của Christian Wolff), Beck, Mỹnchen. 3. Klaus-Gert Lutterbeck (2002), Staat und Gesellschaft bei Christian Thomasius und Christian Wolff. Eine historische Untersuchung in systematischer Absicht (Nhà n−ớc và xã hội của Christian Thomasius và Christian Wolff. Một nghiên cứu lịch sử mang tính hệ thống), Frommann -Holzboog, Stuttgart-Bad Cannstatt. 4. Sammuel von Pufendorf (2007), Von den Pflichten des Menschen und Bỹrgers nach dem Naturgesetz (Về nghĩa vụ của con ng−ời và của công dân theo luật tự nhiên) (1673), Frankfurt am Main, Klaus Luig, Suhrkamp. 5. Arthur Kaufmann (1997), Rechtssphilosophie (Triết học pháp quyền), Beck Publishing House, Mỹnchen.
File đính kèm:
- mot_so_noi_dung_co_ban_cua_tu_tuong_triet_hoc_phap_quyen_chr.pdf