Một số nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Christian Wolff (1679 - 1754)

Tóm tắt Một số nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Christian Wolff (1679 - 1754): ...Wolff, 1980, tr.12). Cũng nh− các nhà triết học Anh, Pháp và Đức thế kỷ XVII-XVIII, Wolff cho rằng nguồn gốc của luật tự nhiên xuất phát từ bản tính tự nhiên của con ng−ời. Tuy nhiên, trong khi Hobbes cho rằng bản tính con ng−ời là tham lam, ích kỷ, độc ác nh− sói và gấu, vì vậy, tro...Wolff, 1980, tr.35). Điều đó cũng có nghĩa là “quyền hoàn thiện là quyền bẩm sinh (recht auf vollkommenheit ist angeborenes recht), vì vậy, không ai có quyền sử dụng quyền của mình để cản trở quyền hoàn thiện của ng−ời khác” (C. Wolff, 1980, tr.45). Tuy nhiên, cũng nh− Thomas Aquin...ff - cũng là trái với luật tự nhiên. “Bởi không ai có thể ngăn chặn việc sử dụng các quyền của tôi và cũng không ai có quyền lấy nó đi, vì vậy tôi cũng không đ−ợc phép làm điều đó đối với quyền của ng−ời khác. Một số nội dung cơ bản 35 Mỗi ng−ời cần đảm bảo quyền của mình và không xâ...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 339 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Một số nội dung cơ bản của tư tưởng triết học pháp quyền Christian Wolff (1679 - 1754), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MộT Số NộI DUNG CƠ BảN CủA TƯ TƯởNG TRIếT HọC PHáP QUYềN 
CHRISTIAN WOLFF (1679 - 1754) 
NGÔ THị Mỹ DUNG (*) 
à một trong những nhà t− t−ởng nổi 
tiếng của thời kỳ Khai sáng, nhà 
triết học Đức C. Wolff đã để lại cho 
nhân loại nhiều t− t−ởng có giá trị, 
trong đó có t− t−ởng pháp quyền. Với 
những tác phẩm đồ sộ nghiên cứu về 
luật tự nhiên, luật ban hành, hệ thống 
quyền lực nhà n−ớc và luật quốc tế, C. 
Wolff đã trở thành ng−ời sáng lập thực 
sự của khoa học luật và triết học pháp 
quyền Đức thế kỷ XVIII. Với những 
cống hiến to lớn trong nhiều lĩnh vực, 
nhà t− t−ởng bách khoa 
(enzyklopọdischer denker), C. Wolff 
không chỉ là một trong những triết gia 
quan trọng nhất của phong trào Khai 
sáng Đức, mà còn là một trong những 
ng−ời đầu tiên sáng tạo ra ngôn ngữ 
triết học Đức (cùng với Christian 
Thomasius (1655-1728)) khi đ−a tiếng 
Đức vào giảng dạy ở các tr−ờng đại học 
và viết các tác phẩm của mình. 
Hệ thống triết học Wolff bao gồm 
nhiều lĩnh vực, từ logic học (1712), siêu 
hình học (1719), đạo đức học (1720), học 
thuyết xã hội (1721) đến mục đích luận 
(1725), trong đó triết học pháp quyền 
chiếm một vị trí quan trọng. Với tám 
tập viết bằng tiếng La tinh bàn về tính 
hợp lý của luật tự nhiên xuất phát từ 
bản tính tự nhiên của con ng−ời đ−ợc 
tổng hợp trong tác phẩm(*)“Luật tự 
nhiên theo ph−ơng pháp khoa học” (Jus 
naturae methodo scientifica 
pertractatum) từ năm 1740 đến 1748, 
cùng với các tác phẩm bàn về hệ thống 
quyền lực nhà n−ớc, luật ban hành và 
luật quốc tế nh− “Luật ban hành theo 
ph−ơng pháp khoa học” (Ius gentium 
methodo scientifica pertractatum) 
(1749); “Các tổ chức, luật tự nhiên và 
luật quốc tế” (Institutiones Iuris 
Naturae et Gentium) (1750) và “Những 
nguyên tắc cơ bản của luật tự nhiên và 
luật quốc tế” (Grundsọtze des Natur- 
und Vửlkerrechts) (1754), Wolff đã trở 
thành một trong những đại biểu quan 
trọng nhất của t− t−ởng triết học pháp 
quyền Đức thế kỷ XVIII. 
Bài viết trình bày và phân tích mối 
liên hệ giữa bản tính tự nhiên của con 
ng−ời và luật tự nhiên, giữa quyền tự 
nhiên của con ng−ời và vấn đề nhà n−ớc 
trong tác phẩm “Những nguyên tắc cơ 
bản của luật tự nhiên và luật quốc tế” 
(*) TS., Tr−ờng Đại học Khoa học xã hội và nhân 
văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 
L 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2014 32 
(Grundsọtze des Natur-und 
Vửlkerrechts”) xuất bản năm 1754, qua 
đó góp phần làm rõ một số nội dung cơ 
bản trong t− t−ởng triết học pháp quyền 
của ông. 
1. Bản tính tự nhiên của con ng−ời và luật tự nhiên 
Một trong những nội dung quan 
trọng của lịch sử t− t−ởng triết học pháp 
quyền ph−ơng Tây là vấn đề luật tự 
nhiên, luật ban hành (luật thực định) và 
mối quan hệ giữa chúng. Các nhà triết 
học từ thời cổ đại đến thời kỳ Phục h−ng 
và cận đại đều cho rằng bên cạnh luật 
ban hành còn tồn tại một thứ luật cao 
hơn, đó là luật tự nhiên. Luật tự nhiên 
là phổ biến và có giá trị ở mọi thời đại. 
Tuy nhiên, khái niệm luật tự nhiên (lex 
naturalis) ở mỗi thời đại lại đ−ợc hiểu 
rất khác nhau. Tr−ớc thời kỳ Phục 
h−ng, các nhà triết học th−ờng cho rằng 
luật tự nhiên là Logos, ý niệm hay ý chí 
tối cao của Th−ợng đế (A. Kaufmann, 
1997, tr.21); là “sự phản chiếu của luật 
Th−ợng đế thông qua lý trí của con 
ng−ời” nh− mong muốn bảo toàn sinh 
mạng, kế tục nòi giống và chung sống 
thành xã hội. Luật tự nhiên không chỉ 
quyết định sự vận hành các cơ quan của 
con ng−ời mà còn chứa đựng trong nó 
những chuẩn mực luân lý, vì vậy, luật 
tự nhiên cũng là luật đạo đức (A. 
Kaufmann, 1997, tr.23). 
Khác với những t− t−ởng của các 
nhà triết học thời kỳ trên, các nhà triết 
học thời phục h−ng và cận đại nh− Hugo 
Grotius (1583-1642), Thomas Hobbes 
(1588-1679), John Locke (1632-1704), 
Montesquieu (1689-1755), Samuel von 
Pufendorf (1632-1694), Christian 
Thomasius (1655-1728), đều xuất 
phát từ “bản tính tự nhiên” của con 
ng−ời (độc ác, thiện, ích kỷ,) để lập 
luận cho luật tự nhiên (chung sống 
thành xã hội; bảo tồn nòi giống;), từ 
đấy khẳng định quyền tự nhiên của con 
ng−ời (quyền sống, quyền tự do, m−u 
cầu hạnh phúc;...) và đ−a ra những hình 
thức và quyền lực nhà n−ớc (thống nhất 
quyền lực; phân chia quyền lực;...) để 
đảm bảo cho những quyền tự nhiên đó. 
Kế thừa những t− t−ởng trên, Wolff 
cho rằng mục đích t− t−ởng pháp quyền 
của ông không phải là đ−a ra những nội 
dung mới mà là tìm cách chứng minh và 
hoàn thiện những vấn đề đã đ−ợc các 
nhà triết học đi tr−ớc đặt ra. Trong Lời 
nói đầu của tác phẩm “Những nguyên 
tắc cơ bản của luật tự nhiên và luật 
quốc tế”, ông viết: “Mục đích tác phẩm 
của tôi là tìm nguồn gốc của tất cả pháp 
luật trong bản tính tự nhiên của con 
ng−ời (die Quelle alles Rechts in der 
menschlichen Natur gefunden), cái mà 
những nhà triết học từ thời cổ đại đã 
làm trong một thời gian dài và những 
bậc thầy tài ba đã trình bày lại, nh−ng 
không có nghĩa là đã đ−ợc chứng minh. 
Tôi đã không chỉ bị thuyết phục bởi 
những quan điểm của các nhà triết học 
từ tr−ớc đến nay, mà còn có thể làm rõ 
chân lý của những nguyên tắc trên bằng 
cách liên kết chúng với hành vi thực 
tiễn của con ng−ời” (C. Wolff, 1980, tr.12). 
Cũng nh− các nhà triết học Anh, 
Pháp và Đức thế kỷ XVII-XVIII, Wolff 
cho rằng nguồn gốc của luật tự nhiên 
xuất phát từ bản tính tự nhiên của con 
ng−ời. Tuy nhiên, trong khi Hobbes cho 
rằng bản tính con ng−ời là tham lam, 
ích kỷ, độc ác nh− sói và gấu, vì vậy, 
trong trạng thái tự nhiên, con ng−ời có 
thể làm tất cả để tranh giành quyền lợi 
cá nhân, bất chấp đến tính mạng hay lợi 
ích của ng−ời khác, liên tục xảy ra xung 
Một số nội dung cơ bản 33 
đột và chống phá lẫn nhau; và, theo 
Pufendorf, bản tính con ng−ời vừa tham 
lam, vừa có xu h−ớng làm hại ng−ời 
khác, nh−ng đồng thời cũng là sinh vật 
yếu đuối, không thể sống nổi nếu không 
có sự trợ giúp của đồng loại, vì vậy con 
ng−ời luôn có nhu cầu đ−ợc sống bên 
nhau, hình thành luật tự nhiên, sống 
thành xã hội giúp đỡ lẫn nhau cùng tồn 
tại (Sammuel von Pufendorf, 2007, 
tr.20), thì Wolff cho rằng bản tính tự 
nhiên của con ng−ời là v−ơn tới sự hoàn 
thiện (hoàn hảo-vollkommenheit). Theo 
đó, sự hoàn thiện của một sự việc nhìn 
chung nằm trong sự thống nhất của cái 
đa dạng hoặc nhiều cái trong một tổng 
thể sự vật. Sự hoàn thiện có thể thông 
qua sự xác định của tất cả những gì bao 
hàm trong nó. Chẳng hạn một chiếc 
đồng hồ hoàn hảo khi các bộ phận của 
nó hoạt động chính xác. Ng−ợc lại, sự 
không hoàn hảo (unvollkommenheit) là 
thiếu sự thống nhất của cái đa dạng 
(mangel der ỹbereinstimmung) hoặc 
nhiều cái trong một tổng thể sự vật. 
Chẳng hạn một con mắt không hoàn 
hảo là con mắt nhìn không rõ hoặc khó 
nhìn do cái gì đó cản trở nó (C. Wolff, 
1980, tr.12). Vì vậy, sự hoàn thiện của 
con ng−ời - theo Wolff - là sự phát triển 
tổng thể (gesamheit) và hài hòa của 
những tiềm năng đa dạng (vielfalt der 
mửglichkeiten) trong mỗi cá nhân trong 
đời sống cộng đồng (C. Wolff, 1980, 
tr.14). 
Bản tính tự nhiên của con ng−ời là 
tự do và bình đẳng: “Từ tự nhiên tất cả 
con ng−ời là tự do” - Von natur sind also 
alle menschen frei (C. Wolff, 1980, 
tr.46). “Từ tự nhiên, mọi ng−ời đều bình 
đẳng không ai có đặc quyền tự nhiên” 
(C. Wolff, 1980, tr.45). Sự tự do tự nhiên 
và bình đẳng tự nhiên thể hiện rõ trong 
trạng thái tự nhiên (naturzustand) của 
con ng−ời. Trong trạng thái này, mỗi 
ng−ời làm theo ý chí của mình mà 
không bị lệ thuộc vào ý chí của ng−ời 
khác. Tuy nhiên, cũng nh− Pufendorf, 
Wolff cho rằng cá nhân không thể hoàn 
thiện mình nếu không có các mối quan 
hệ cũng nh− sự giúp đỡ của những cá 
nhân khác. “Con ng−ời phải sống thành 
xã hội, đó là luật tự nhiên. Luật tự 
nhiên liên kết mọi ng−ời với nhau và từ 
sự liên kết tự nhiên này không ai có thể 
thoát khỏi sự ràng buộc của luật tự 
nhiên (“das Gesetz der Natur verbinde 
alle Menschen und von der natỹrlichen 
Verbindlichkeit kửnne kein Mensch 
befreit werden”), bởi luật tự nhiên có cơ 
sở của nó trong con ng−ời và mọi sự vật” 
(C. Wolff, 1980, tr.30). 
Bản tính tự nhiên của con ng−ời là 
v−ơn tới sự hoàn thiện, vì vậy, nguyên 
tắc chung của luật tự nhiên (principium 
juris naturae) là thúc đẩy sự hoàn thiện 
của con ng−ời và tình trạng của con 
ng−ời (menschenzustand), giúp con 
ng−ời tránh xa nguy hiểm. Để nuôi sống 
và hoàn thiện mình, con ng−ời có quyền 
sử dụng mọi ph−ơng tiện. Nếu các quy 
luật tự nhiên liên kết chúng ta vì một 
mục đích nào đó, nó cũng cho chúng ta 
quyền đối với ph−ơng tiện, bởi sẽ là vô 
lý nếu tồn tại mục đích mà không có 
ph−ơng tiện để hoạt động (C. Wolff, 
1980, tr.35). Điều đó cũng có nghĩa là 
“quyền hoàn thiện là quyền bẩm sinh 
(recht auf vollkommenheit ist 
angeborenes recht), vì vậy, không ai có 
quyền sử dụng quyền của mình để cản 
trở quyền hoàn thiện của ng−ời khác” 
(C. Wolff, 1980, tr.45). 
Tuy nhiên, cũng nh− Thomas 
Aquinas, Wolff cho rằng luật tự nhiên 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2014 34 
chính là luật của Th−ợng đế, bởi xét đến 
cùng, bản chất của mọi sự vật, kể cả bản 
tính tự nhiên của con ng−ời có nguồn 
gốc từ Th−ợng đế (C. Wolff, 1980, tr.13). 
Luật tự nhiên liên kết con ng−ời với 
nhau và làm cho hành vi của con ng−ời 
phù hợp với luật tự nhiên; nh− vậy sự 
liên kết tự nhiên, cũng là sự liên kết 
thần linh, luật tự nhiên, cũng chính là 
luật thần linh (die natỹrliche 
Verbindlichkeit ist auch eine gửttliche, 
und das natỹrliche Gesetz ist auch ein 
gửttliches) (C. Wolff, 1980, tr.30). 
2. Quyền tự nhiên của con ng−ời và vấn đề nhà n−ớc 
Kế thừa t− t−ởng của Locke, 
Montesquieu, đặc biệt là của Pufendorf 
về quyền tự do tự nhiên 
(natỹrliche freieit) và bình đẳng tự 
nhiên (natỹrliche gleichheit) của con 
ng−ời, Wolff cũng khẳng định rằng, 
trong trạng thái tự nhiên mọi ng−ời đều 
tự do và bình đẳng. Từ tự nhiên hình 
thành trách nhiệm tự nhiên (natỹrliche 
rechtspflichten) và quyền tự nhiên 
(natỹrliche rechte) của con ng−ời. Đó là 
trách nhiệm với chính mình, trách 
nhiệm với Th−ợng đế và trách nhiệm với 
những ng−ời khác (C. Wolff, 1980, tr.46). 
Cũng nh− Pufendorf, Wolff cho rằng 
con ng−ời không thể phát triển và hoàn 
thiện mình nếu không có sự trợ giúp của 
cộng đồng ngay cả khi họ có một cuộc 
sống tốt. “Một điều hiển nhiên là nhu 
cầu giúp đỡ của con ng−ời rất lớn, không 
ai có thể tự hoàn thiện mình mà không 
cần sự giúp đỡ của ng−ời khác” (C. 
Wolff, 1980, tr.32). Luật tự nhiên liên 
kết con ng−ời với nhau giúp con ng−ời 
ngày càng hoàn thiện hơn và ngăn chặn 
sự không hoàn thiện, kết quả của sự 
liên kết này là mỗi ng−ời đ−ợc kết nối 
với sự hoàn thiện của những ng−ời khác 
và kiềm chế mọi hành động dẫn đến sự 
không hoàn thiện (C. Wolff, 1980, tr.32). 
Trong trạng thái tự nhiên, quyền tự 
nhiên của con ng−ời, đặc biệt là quyền 
tự do phát triển và hoàn thiện mình 
luôn bị đe dọa, bởi ai cũng muốn dùng 
mọi ph−ơng tiện để bảo vệ quyền của 
mình, vì vậy các cá nhân buộc phải đồng 
ý tham gia một khế −ớc xã hội (pactum 
unionuis) để thành lập một cộng đồng 
chính trị - một nhà n−ớc - nhằm đảm 
bảo cho những quyền trên. Với khế −ớc 
xã hội, theo Wolff, các cá nhân mất đi 
quyền tự do tự nhiên dùng mọi ph−ơng 
tiện để hoàn thiện mình, nh−ng có đ−ợc 
sự bình đẳng thông qua sự đảm bảo của 
nhà n−ớc. Khế −ớc cũng quy định sự tự 
do lựa chọn các hình thức nhà n−ớc 
(quân chủ chuyên chế, quân chủ lập 
hiến, dân chủ) dựa trên ý chí chung. 
Trong khế −ớc, các quyền và nghĩa vụ 
của các bên (nhà n−ớc và ng−ời dân) 
đ−ợc quy định rõ ràng, theo đó nhà n−ớc 
có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu sống 
(lebensbedỹrfnissen), đảm bảo an toàn 
pháp lý (rechtsicherheit) và hạnh phúc 
cộng đồng (Wohlfahrt) (C. Wolff, 1980, 
tr.21). 
Một trong những vấn đề quan trọng 
để nhà n−ớc có thể thực hiện tốt nhiệm 
vụ trên là luật ban hành phải phù hợp 
với luật tự nhiên, nghĩa là phải đảm bảo 
những điều kiện để con ng−ời có thể tự 
do phát triển và hoàn thiện mình (C. 
Wolff, 1980, tr.27). Xâm phạm quyền 
hoàn thiện của con ng−ời d−ới bất kỳ 
hình thức nào - theo Wolff - cũng là trái 
với luật tự nhiên. “Bởi không ai có thể 
ngăn chặn việc sử dụng các quyền của 
tôi và cũng không ai có quyền lấy nó đi, 
vì vậy tôi cũng không đ−ợc phép làm 
điều đó đối với quyền của ng−ời khác. 
Một số nội dung cơ bản 35 
Mỗi ng−ời cần đảm bảo quyền của mình 
và không xâm hại quyền của ng−ời 
khác. Vi phạm quyền hoàn thiện của 
ng−ời khác là trái luật (injuria)” (C. 
Wolff, 1980, tr.60). 
Khác với quan điểm của Hobbes cho 
rằng bản tính tự nhiên của con ng−ời là 
ích kỷ, đầy tham vọng và trạng thái tự 
nhiên là trạng thái chiến tranh, vì vậy 
muốn thoát khỏi trạng thái này phải 
chuyển giao toàn bộ quyền lực cho nhà 
n−ớc và nhà cầm quyền có quyền lực 
tuyệt đối đối với ng−ời dân, Wolff cho 
rằng quyền lập pháp phải thuộc về 
nhân dân. Vì nhà n−ớc đ−ợc hình thành 
trên cơ sở “ý chí chung” nên ng−ời dân 
có quyền trong việc ban hành, sửa đổi 
và bãi bỏ luật, nếu những đạo luật đó 
không phục vụ cho “cái chung tốt nhất” 
(C. Wolff, 1980, tr.78). Và, để đảm bảo 
cho những quyền tự nhiên (tự do, bình 
đẳng, dùng mọi ph−ơng tiện để hoàn 
thiện mình) đ−ợc thực thi, thì hình thức 
nhà n−ớc tốt nhất - theo Wolff - là nhà 
n−ớc quân chủ lập hiến. 
Kế thừa t− t−ởng của Thomasius về 
vấn đề hạnh phúc cộng đồng (wohlfart 
der gesellschaft), Wolff đ−a ra nhận 
định rằng hạnh phúc cá nhân không thể 
đạt tới sự hoàn thiện nếu không có sự 
liên kết với hạnh phúc cộng đồng, vì 
vậy, sự phồn vinh hay hạnh phúc cộng 
đồng là mục đích tối cao của nhà n−ớc. 
Khẩu hiệu đ−ợc ông đ−a ra là: “Hãy làm 
tất cả những gì thúc đẩy hạnh phúc (sự 
phồn vinh) cộng đồng; loại bỏ những gì 
cản trở hay có hại cho nó” (Tun, was die 
wohlfart der gesellschaft befửrdert; 
unterlass, was ihr hinderlich oder sonst 
nachteilig is) (C. Wolff, 1980, tr.21). 
Ngoài ra, nhà n−ớc còn phải quan 
tâm đến đời sống văn hóa truyền thống, 
tạo việc làm cho nhân dân, bởi theo 
Wolff, trong lao động con ng−ời có thể tự 
hoàn thiện mình. Một nhà n−ớc hợp lý 
tính là một nhà n−ớc mà trong đó các 
thành viên bình đẳng về nghĩa vụ và 
quyền lợi (homines aequalis). Những 
quan điểm của Wolff về trách nhiệm của 
nhà n−ớc thực sự có ý nghĩa to lớn trong 
bối cảnh n−ớc Đức chuyển từ xã hội 
phong kiến sang xã hội dân sự. Kế thừa 
t− t−ởng của Leibniz về bản tính của 
con ng−ời là luôn mong muốn h−ớng tới 
sự hoàn thiện, Wolff đã đ−a ra kết luận 
rằng mục đích cao nhất của xã hội là 
làm tất cả những gì có thể với khả năng 
của mình vì sự hoàn thiện của con ng−ời. 
3. Kết luận 
T− t−ởng pháp quyền Wolff đề cập 
đến nhiều vấn đề, tuy nhiên nổi bật 
nhất vẫn là vấn đề luật tự nhiên, quyền 
tự nhiên và vấn đề nhà n−ớc. Kế thừa 
t− t−ởng của các nhà triết học tiền bối, 
triết học pháp quyền Wolff cũng xuất 
phát từ bản tính tự nhiên của con ng−ời 
(v−ơn tới sự hoàn thiện, tự do, bình 
đẳng) để lập luận cho luật tự nhiên 
(chung sống thành xã hội) và quyền tự 
nhiên của con ng−ời (dùng mọi ph−ơng 
tiện để hoàn thiện mình, tự do, bình 
đẳng). Luật tự nhiên có giá trị phổ biến 
và là tiêu chí của luật ban hành. Ngay 
cả luật quốc tế cũng đ−ợc Wolff lập luận 
dựa trên nguyên tắc của luật tự nhiên 
và đ−ợc ông xem nh− là luật tự nhiên 
đ−ợc mở rộng. 
Nét nổi bật trong t− t−ởng pháp 
quyền Wolff là sự kết hợp giữa ý t−ởng 
về bản chất xã hội (bản chất cộng đồng) 
của con ng−ời với ý t−ởng về sự hoàn 
thiện (perfectio) của con ng−ời từ 
Leibniz, đặt mục đích cuối cùng của con 
ng−ời ở trung tâm của học thuyết luật 
 Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2014 36 
tự nhiên. Nguyên tắc tối cao của nó là 
sự liên kết tất cả lực l−ợng thúc đẩy sự 
hoàn thiện của con ng−ời và kiềm chế 
các hành động ng−ợc lại. Mặc dù t− 
t−ởng pháp quyền của Wolff còn hạn 
chế khi cho rằng luật tự nhiên có giá trị 
phổ biến và nhà n−ớc đ−ợc hình thành 
dựa trên khế −ớc, nh−ng tinh thần nhân 
văn của nó (xuất phát từ con ng−ời để 
lập luận cho quyền tự nhiên bất khả t−ớc 
đoạt của con ng−ời, nhiệm vụ của nhà 
n−ớc là hạnh phúc cộng đồng) đã ảnh 
h−ởng trực tiếp đến các thể chế chính trị 
pháp quyền Đức từ đấy về sau  
TàI LIệU THAM KHảo 
1. Christian Wolff (1980), Gesammelte 
Werke: Grundsọtze des Natur-und 
Vửlckerrechts (Toàn tập: Những 
nguyên tắc cơ bản của luật tự nhiên 
và luật quốc tế), t.19, Newyorker, 
Hildesheim. 
2. Karl Zimmermann (2004), 
Einleitung. Christian Wolffs 
rationale Gesellschafts-und 
Staatslehre zur Fửrderung des 
Gemeinwohls (Dẫn nhập. Học thuyết 
nhà n−ớc - xã hội lý tính của 
Christian Wolff), Beck, Mỹnchen. 
3. Klaus-Gert Lutterbeck (2002), Staat 
und Gesellschaft bei Christian 
Thomasius und Christian Wolff. 
Eine historische Untersuchung in 
systematischer Absicht (Nhà n−ớc và 
xã hội của Christian Thomasius và 
Christian Wolff. Một nghiên cứu lịch 
sử mang tính hệ thống), Frommann 
-Holzboog, Stuttgart-Bad Cannstatt. 
4. Sammuel von Pufendorf (2007), Von 
den Pflichten des Menschen und 
Bỹrgers nach dem Naturgesetz (Về 
nghĩa vụ của con ng−ời và của công 
dân theo luật tự nhiên) (1673), 
Frankfurt am Main, Klaus Luig, 
Suhrkamp. 
5. Arthur Kaufmann (1997), 
Rechtssphilosophie (Triết học pháp 
quyền), Beck Publishing House, 
Mỹnchen. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_noi_dung_co_ban_cua_tu_tuong_triet_hoc_phap_quyen_chr.pdf