Nghiên cứu thể lực của học sinh tiểu học ở thành phố thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

Tóm tắt Nghiên cứu thể lực của học sinh tiểu học ở thành phố thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương: ...nh 1: Đồ thị biểu diễn chiều cao đứng của học sinh theo tuổi và giới tính Ở cùng lứa tuổi, chiều cao của học sinh nam và học sinh nữ không giống nhau. Từ 6 đến 8 tuổi, chiều cao trung bình của nam lớn hơn của nữ. Tuy nhiên, chênh lệch về chiều cao giữa học sinh nam và học sinh nữ ở tuổi từ 6...Các số liệu ở bảng 4 cho thấy, chỉ số BMI của học sinh nam và học sinh nữ từ 6 – 10 tuổi có sự chênh lệch. Cụ thể, ở học sinh nam chỉ số BMI giảm từ 18,08kg/m2 (6 tuổi) xuống 17,46kg/m2 (7 tuổi). Học sinh nữ, chỉ số BMI giảm từ 17,32kg/m2 (6 tuổi) xuống 16,75kg/m 2 (7 tuổi). Chỉ số BMI bắ...gnet của nam thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 5,2 và mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Ở 10 tuổi, chỉ số Pignet của nam thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 9,18 và mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Hình 5: Đồ thị biểu diễn chỉ số Pignet của học ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 188 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Nghiên cứu thể lực của học sinh tiểu học ở thành phố thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 
 43 
NGHIÊN CỨUTHỂ LỰC CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC 
Ở THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƢƠNG 
Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thúy Hiệp 
Trường Đại học Thủ Dầu Một 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu các chỉ số thể lực của 1127 học sinh từ 6-10 tuổi ở thành phố Thủ Dầu Một 
tỉnh Bình Dương cho thấy: Các chỉ số thể lực của học sinh tăng liên tục từ 6 đến 10 tuổi 
nhưng tốc độ tăng không đều giữa các độ tuổi và giới tính. Chiều cao, cân nặng và vòng 
ngực của học sinh tăng nhanh nhất ở giai đoạn 9-10 tuổi. Trong nhóm nghiên cứu, phần 
lớn học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường (chiếm 50,78% ở nam và 56,91% ở nữ), 
chỉ số BMI ở mức suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ đáng quan tâm (5,70% ở nam và 8,91% ở 
nữ), chỉ số BMI ở mức béo phì chiếm tỉ lệ khá cao (25,22 % ở nam và 18,91% ở nữ). Chỉ số 
Pignet của học sinh tăng trong giai đoạn đầu (từ 6-9 tuổi) – ở nam từ 30,68 lên 32,20; ở nữ 
từ 33,05 lên 37,40 và giảm trong giai đoạn sau (từ 9-10 tuổi) – ở nam từ 32,20 xuống 
27,79; ở nữ từ 37,40 xuống 36,97. 
Từ khóa: chỉ số thể lực, học sinh, cân nặng, chiều cao, chỉ số pignet, BMI. 
1. MỞ ĐẦU 
Các chỉ số thể lực không phải là hằng 
định mà có thể thay đổi phụ thuộc vào môi 
trường tự nhiên và điều kiện xã hội, đáng 
kể nhất là chế độ sinh hoạt và dinh dưỡng. 
Cải thiện sức khỏe và tình trạng dinh 
dưỡng của trẻ em là mục tiêu quan trọng 
hàng đầu của tất cả các quốc gia trong đó 
có Việt Nam. Đây cũng là mục tiêu thiên 
niên kỷ của Liên hiệp quốc, Chiến lược 
Quốc gia về Dinh dưỡng của Việt nam. Các 
nghiên cứu khoa học gần đâyđều cho thấy 
xu hướng gia tăng thừa cân béo phì ở trẻ 
em [7]. Do đó, các chỉ số sinh học cần phải 
nghiên cứu định kỳ ở từng thập kỷ và ở 
từng vùng miền để đánh giá sự phát triển 
về thể chất của thế hệ tương lai trước sự 
phát triển liên tục của đất nước và sự thay 
đổi kinh tế của từng địa phương. Đã có 
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này 
[1], [2], [3], [4], [5], [6] nhưng chưa có 
công trình nào nghiên cứu trên học sinh ở 
tỉnh Bình Dương. Để đánh giá được thực 
trạng về một số chỉ số thể lực của học sinh 
tiểu học trên địa bàn thành phố Thủ Dầu 
Một- tỉnh Bình Dương, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu các chỉ số thể lực: chiều cao 
đứng, cân nặng, vòng ngực, chỉ số BMI và 
chỉ số Pignet. 
2. ĐỐI TƢỢNG, THỜI GIAN, PHƢƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng 
nghiên cứu là các chỉ số thể lực của học 
sinh tiểu học có độ tuổi từ 6-10 ở các 
trường: Tiểu học Phú Hòa I, Tiểu học Phú 
Mỹ, Tiểu học Nguyễn Du thuộc thành phố 
Thủ Dầu Một. Tổng số học sinh trong 
nghiên cứu là 1127. 
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 
năm 2013 đến tháng 5 năm 2014. 
Phƣơng pháp nghiên cứu 
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu 
theo phương pháp phân tầng ngẫu nhiên: 
các trường được chia ra theo khu vực: 
Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 
 44 
Trung tâm thành phố và vùng ngoại ô 
thành phố, chọn ngẫu nhiên 3 trường, các 
trường chọn gồm Tiểu học Phú Hòa I, Tiểu 
học Phú Mỹ, Tiểu học Nguyễn Du; ở từng 
trường chọn ngẫu nhiên 2 lớp ở mỗi khối. 
Phương pháp nghiên cứu các chỉ số thể 
lực: Các chỉ số thể lực được xác định theo 
các phương pháp đã chuẩn hóa hiện hành. 
Chiều cao đứng: đơn vị đo là cm, dụng cụ 
đo là thước có vạch sẵn có độ chính xác 
đến 1 mm. Khi đo, học sinh ở tư thế đứng 
thẳng, hai gót chân sát vào nhau, mắt nhìn 
thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm là đầu, 
lưng, mông và gót chân chạm vào thước 
đo. Tư thế đứng được xác định khi đuôi 
mắt và lỗ tai ngoài cùng ở trên đường thẳng 
ngang vuông góc với trục cơ thể. Cân 
nặng: được xác định bằng cân y tế có độ 
chính xác đến 0,1 kg. Cân được đặt trên 
mặt phẳng ngang. Khi cân: đối tượng chỉ 
mặc trang phục gọn gàng, không mang dép 
và đội mũ, đứng thẳng sao cho trọng tâm 
của cơ thể rơi vào điểm giữa cân, đo xa bữa 
ăn. Vòng ngực trung bình: dụng cụ đo là 
thước vải không co dãn có độ chính xác 
đến 1 mm. Vòng ngực được đo ở tư thế 
đứng thẳng bằng thước dây cuốn quanh 
ngực qua mũi ức, dưới núm vú, sao cho 
mặt phẳng của thước dây tạo ra song song 
với mặt đất. Chỉ số BMI được tính theo 
công thức: BMI = Cân nặng (kg) / (Chiều 
cao (m))
2
. Đánh giá chỉ số BMI theo CDC 
chuẩn dành cho trẻ em từ 2-20 tuổi. Chỉ số 
Pignet được tính theo công thức: Pignet = 
Chiều cao (cm) – [Cân nặng (kg) + Vòng 
ngực (cm)]. 
Phƣơng pháp xử lý số liệu: Từ các số 
liệu thu được, tiến hành tính các tham số 
thống kê cơ bản: Độ lệch chuẩn (S); Giá trị 
trung bình ( X ); Sai số của số trung bình 
(SD). Độ tin cậy sai khác giữa hai giá trị 
trung bình (t). Các tính toán được xử lý trên 
máy tính, sử dụng phần mềm hệ chương 
trình Excel 2010. 
3. KẾT QUẢ 
3.1. Chiều cao 
 Kết quả chiều cao đứng của học sinh 
theo tuổi và giới tính được trình bày trong 
bảng 1. 
Bảng 1: Chiều 
cao đứng của học 
sinh theo tuổi và 
giới tính 
Qua bảng 1 cho thấy, chiều cao đứng 
của học sinh tăng dần theo tuổi. Ở nam 
tăng từ 118,77cm lúc 6 tuổi lên 138,54cm 
lúc 10 tuổi, mức tăng chiều cao trung bình 
ở giai đoạn này là 4,94 cm/năm. Đối với 
nữ, chiều cao tăng từ 118,04cm lúc 6 tuổi 
lên 139,99cm lúc 10 tuổi, mức tăng trung 
bình ở giai đoạn này là 5,49cm/năm. Như 
vậy, giai đoạn này chiều cao của học sinh 
nữ tăng nhiều hơn chiều cao học sinh nam. 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 
 45 
Hình 1: Đồ thị biểu diễn chiều cao đứng 
của học sinh theo tuổi và giới tính 
Ở cùng lứa tuổi, chiều cao của học sinh nam và học sinh nữ không giống nhau. Từ 6 
đến 8 tuổi, chiều cao trung bình của nam lớn hơn của nữ. Tuy nhiên, chênh lệch về chiều 
cao giữa học sinh nam và học sinh nữ ở tuổi từ 6-8 không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Ở 
9 tuổi, chiều cao của nữ lớn hơn so với chiều cao của nam đáng kể (2,24cm) và có ý nghĩa 
thống kê (p<0,02). Tốc độ tăng chiều cao nhanh nhất của học sinh nam và học sinh nữ ở 
giai đoạn từ 9 đến 10 tuổi. Nhìn chung, ở độ tuổi tiểu học tốc độ tăng trung bình của chiều 
cao đứng ở nữ (5,49cm) tăng nhiều hơn ở nam (5,94cm). Sở dĩ có sự khác biệt này vì ở cuối 
lứa tuổi tiểu học ở cơ thể các em đã bắt đầu giai đoạn dậy thì và theo quy luật sinh học thì 
nữ dậy thì sớm hơn ở nam. 
3.2. Cân nặng 
Kết quả nghiên cứu cân nặng của học sinh theo tuổi và giới tính trong bảng 2. 
Bảng 2: Cân nặng của học 
sinh theo tuổi và giới tính 
Các số liệu ở bảng 2 và hình 2 cho thấy, từ 6 đến 10 tuổi cân nặng của học sinh tăng 
dần. Cân nặng của học sinh nam tăng từ 25,65kg lúc 6 tuổi lên 38,12kg lúc 10 tuổi, mức 
tăng trung bình là 3,12kg/ năm. Cân nặng của nữ tăng từ 24,72kg lúc 6 tuổi lên 36,15kg lúc 
10 tuổi, mức tăng trung bình 2,86kg/ năm. 
Hình 2: Đồ thị biểu diễn 
cân nặng của học sinh 
theo tuổi và giới tính 
Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 
 46 
Trong giai đoạn từ 6 đến 10 tuổi, cân nặng trung bình của nam lớn hơn của nữ cùng 
tuổi. Ở tuổi 6 nam nặng hơn nữ 3,93kg, ở tuổi 7 là 1,33kg, ở tuổi 8 nam nặng hơn nữ 2,3kg, 
tuổi 9 hơn 0,52kg và tuổi 10 hơn 1,97kg. 
Trong giai đoạn 6 đến 10 tuổi, mức tăng cân nặng của học sinh không đều. Cân nặng 
của học sinh nam và nữ đều tăng nhiều nhất ở giai đoạn từ 9 đến 10 tuổi (tăng 3,58kg/năm 
ở nam và 4kg/năm ở nữ). Nhìn chung, ở học sinh tiểu học cân nặng trung bình của học sinh 
nam ở các độ tuổi đều cao hơn của học sinh nữ. 
3.3. Vòng ngực 
Kết quả nghiên cứu vòng ngực trung bình của học sinh theo tuổi và giới tính được trình 
bày trong bảng 3. 
Bảng 3: Vòng ngực trung 
bình của học sinh 
Các số liệu ở bảng 3 cho thấy vòng ngực trung bình của học sinh tăng không đều theo 
theo tuổi. Đối với học sinh nam, vòng ngực trung bình tăng từ 61,89cm ở tuổi 6 lên 
72,08cm ở tuổi 10 với mức tăng trung bình là 2,54 cm/năm. Đối với học sinh nữ, vòng 
ngực trung bình tăng từ 60,54cm ở tuổi 6 lên 62,83cm ở tuổi 7 và ở tuổi 8 là 63,42cm và 
sau đó tiếp tục tăng dần đến tuổi 10 là 66,92cm với mức tăng trung bình là 1,59cm/năm. 
Hình 3: Đồ thị vòng ngực 
trung bình của học sinh theo tuổi 
và giới tính (cm) 
Từ 6 đến 10 tuổi vòng ngực trung bình của học sinh nam tăng liên tục và tăng nhanh 
nhất ở giai đoạn 9 đến 10 tuổi. Ở học sinh nữ có tốc độ tăng không đều và tăng nhanh nhất 
ở giai đoạn 8 đến 9 tuổi. Như vậy, vòng ngực của nữ tăng nhanh ở độ tuổi sớm hơn ở nam 
và điều này cũng phù hợp với quy luật là nữ dậy thì sớm hơn nam. 
Từ 6 đến 10 tuổi vòng ngực trung bình của học sinh nam cao hơn của học sinh nữ. Mức 
chênh lệch là 1,36cm ở tuổi 6, ở tuổi 7 là 2,91cm, ở tuổi 8 là 2,92cm, ở tuổi 9 là 1,99cm và 
ở tuổi 10 là 5,16cm. Các mức chênh lệch trong các độ tuổi từ 6 đến 9 đều không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,05), còn ở 10 tuổi thì sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p<0.02). 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 
 47 
3.4. Chỉ số BMI của học sinh 
Kết quả nghiên cứu chỉ số BMI của học sinh theo tuổi và giới tính trong bảng 4. 
Bảng 4: Chỉ số BMI của 
học sinh theo tuổi và giới 
tính (kg/m
2
) 
Các số liệu ở bảng 4 cho thấy, chỉ số BMI của học sinh nam và học sinh nữ từ 6 – 10 
tuổi có sự chênh lệch. Cụ thể, ở học sinh nam chỉ số BMI giảm từ 18,08kg/m2 (6 tuổi) 
xuống 17,46kg/m2 (7 tuổi). Học sinh nữ, chỉ số BMI giảm từ 17,32kg/m2 (6 tuổi) xuống 
16,75kg/m
2
 (7 tuổi). 
Chỉ số BMI bắt đầu tăng dần từ 7 tới 10 tuổi, tăng từ 17,46 kg/m2 (7 tuổi) lên 19,51 
kg/m
2
 (10 tuổi) ở nam, tăng từ 16,75 kg/m2 (7 tuổi) lên 18,29 kg/m2 ở nữ. Trong giai đoạn 
này mức độ tăng chiều cao ít hơn so với tăng cân nặng. Chỉ số BMI cao nhất ở học sinh 
nam và học sinh nữ là 6 tuổi. 
Từ 6 đến 10 tuổi, chỉ số BMI của học sinh nam và học sinh nữ đều có sự chênh lệch. Ở 
6-7 tuổi, chỉ số BMI của nam cao hơn nữ với mức chênh lệch là 0,76 kg/m2 và 0,71 kg/m2 
nhưng không có sự khác biệt rõ (p > 0,05). Ở các tuổi 8, 9, 10 chỉ số BMI của nam cao hơn 
nữ với mức chênh lệch lần lượt là 1,14 kg/m2, 0,96 kg/m2, 1,22kg/m2 với mức chênh lệch 
có ý nghĩa thống kê. 
Đối chiếu với bảng BMI CDC chuẩn dành cho trẻ em từ 2-20 tuổi, kết quả phân bố học 
sinh theo thể trạng được trình bày qua bảng 5. 
Bảng 5: Phân bố của học 
sinh từ 6-10 tuổi theo thể 
trạng 
Bảng 5 cho thấy, chỉ số BMI ở mức suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ đáng quan tâm (5,70% 
ở nam và 8,91% ở nữ). Ở học sinh nữ, tỉ lệ suy dinh dưỡng có xu hướng cao hơn học sinh 
nam và đáng báo động ở 7 tuổi (10,88%) và 8 tuổi (12,77%). Chỉ số BMI ở mức bình 
thường chiếm tỉ lệ cao và đều đạt trên 50% (50,78% ở nam, 56,91% ở nữ). Chỉ số BMI ở 
Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 
 48 
mức có nguy cơ béo phì và béo phì ở các độ tuổi đều chiếm tỉ lệ khá cao. Trung bình của 
lứa tuổi tiểu học từ 6-10 tuổi: ở nam có tỉ lệ béo phì là 25,22 % và nguy cơ béo phì là 
18,31 %; ở nữ thì tỉ lệ này lần lượt là : 18,91% và 15,27%. Như vậy, qua sự phân bố thể 
trạng của học sinh theo chỉ số BMI cho thấy ở thành phố Thủ Dầu Một có tỉ lệ học sinh béo 
phì thấp hơn tỉ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh (21,1%) và tỉ lệ học sinh suy dinh dưỡng 
cao hơn tỉ lệ này ở thành phố Hồ Chí Minh (3,5%) [7]. 
Hình 4: Đồ thị 
thể hiện tỷ lệ phân 
bố học sinh nam, 
nữ 6-10 tuổi theo 
thể trạng 
3.5. Chỉ số Pignet của học sinh 
Kết quả nghiên cứu chỉ số Pignet được trình bày ở bảng 6 và hình 5. 
Các số liệu ở bảng 6 và hình 5 cho thấy, chỉ số Pignet của học sinh biến đổi theo quy 
luật chung là tăng trong giai đoạn đầu, giảm ở giai đoạn sau. Ranh giới giữa hai giai đoạn 
này là 9 tuổi. Chỉ số Pignet biến đổi theo lứa tuổi là do các chỉ số chiều cao, cân nặng và 
vòng ngực của học sinh tăng không giống nhau. Ở giai đoạn đầu, mức tăng chiều cao nhanh 
hơn mức tăng cân nặng và vòng ngực nên chỉ số Pignet tăng dần. Còn ở giai đoạn sau, mức 
tăng chiều cao chậm hơn mức tăng vòng ngực và cân nặng nên chỉ số Pignet giảm xuống. 
Cụ thể, ở học sinh nam chỉ số Pignet tăng từ 30,68 lúc 6 tuổi lên 32,20 lúc 9 tuổi và giảm 
xuống còn 27,79 ở 10 tuổi, mức giảm trung bình hàng năm là 0,72. Học sinh nữ có chỉ số 
Pignet tăng từ 33,05 lúc 6 tuổi lên 37,40 lúc 9 tuổi và giảm xuống còn 36,97 ở 10 tuổi, mức 
giảm trung bình hàng năm là -1,15. 
Bảng 6: Chỉ số 
Pignet của học 
sinh theo tuổi và 
giới tính 
Ở cùng một lứa tuổi, chỉ số Pignet của học sinh nam và của học sinh nữ không giống 
nhau. Từ 6 đến 7 tuổi, chỉ số Pignet của nam thấp hơn nữ nhưng không có sự khác biệt rõ 
(p>0,05). Lúc 8 tuổi, chỉ số Pignet của nam cũng thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 5 (24) – 2015 
 49 
4,38 và mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Lúc 9 tuổi, chỉ số Pignet của 
nam thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 5,2 và mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê 
(p<0,001). Ở 10 tuổi, chỉ số Pignet của nam thấp hơn của nữ với mức chênh lệch là 9,18 và 
mức chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
Hình 5: Đồ thị biểu diễn chỉ 
số Pignet của học sinh theo tuổi 
và giới tính 
Nhìn chung, chỉ số Pignet của học sinh 
nam thấp hơn của học sinh nữ theo từng độ 
tuổi từ 6 đến 10 tuổi và mức chênh lệch có 
sự khác biệt rõ là từ 8 đến 10 tuổi. Nam học 
sinh ở các độ tuổi đều có thể lực khỏe (24 < 
chỉ số pignet < 35); ở nữ giai đoạn 6-7 tuổi 
có thể lực khỏe, còn giai đoạn 8-10 tuổi có 
thể lực trung bình (35 < chỉ số pignet < 41). 
4. KẾT LUẬN 
Chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực 
trung bình của học sinh tăng dần theo lứa 
tuổi: 
– Chiều cao đứng: ở nam tăng từ 
118,77cm lúc 6 tuổi lên 138,54cm lúc 10 
tuổi, tăng trung bình 4,94cm/năm; ở nữ tăng 
từ 118,04cm lúc 6 tuổi lên 139,99cm lúc 10 
tuổi, tăng trung bình 5,49cm/năm. 
– Cân nặng trung bình: ở nam 25,65kg 
lúc 6 tuổi lên 38,12kg lúc 10 tuổi, tăng trung 
bình 3,12 kg/năm; ở nữ 24,72kg lúc 6 tuổi 
đến 36,15kg lúc 10 tuổi, tăng trung bình 2,86 
kg/ năm. 
– Vòng ngực trung bình: ở nam 61,89cm 
lúc 6 tuổi lên 72,08cm lúc 10 tuổi, tăng trung 
bình là 2,54 cm/năm; ở nữ 60,53cm lúc 6 tuổi 
lên 66,92cm lúc 10 tuổi, tăng trung bình 
1,59cm/năm. Chỉ số BMI tăng dần theo lứa 
tuổi (ở nam là 18,08 kg/m2 lúc 6 tuổi lên 
19,51 kg/m
2
 lúc 10 tuổi). Chỉ số BMI ở mức 
suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ đáng kể (5,70% ở 
nam và 8,91% ở nữ), chỉ số BMI ở mức béo 
phì chiếm tỉ lệ khá cao (25,22% ở nam và 
18,91% ở nữ). Chỉ số Pignet của học sinh 
tăng trong giai đoạn 6-9 tuổi, giảm trong giai 
đoạn 9-10 tuổi. Nam và nữ ở các độ tuổi đều 
có thể lực khỏe và thể lực trung bình. 
Chỉ số BMI ở học sinh tiểu học trên địa 
bàn Thành phố Thủ Dầu Một ở mức có 
nguy cơ béo phì và béo phì chiếm tỉ lệ khá 
cao, chỉ số BMI ở mức suy dinh dưỡng 
chiếm tỉ lệ đáng kể. Vì vậy, cần tăng cường 
công tác truyền thông, giáo dục cung cấp 
kiến thức và xây dựng hành vi dinh dưỡng 
hợp lý thông qua việc triển khai tốt chương 
trình dinh dưỡng học đường. Sự phát triển 
thể lực của học sinh hiện nay có nhiều thay 
đổi. Vì vậy, các chỉ số này cần được nghiên 
cứu thường xuyên ở mỗi địa phương trong 
từng khoảng thời gian nhất định. 
Journal of Thu Dau Mot University, No 5 (24) – 2015 
 50 
RESEARCH ON PRIMARY PUPILS’ PHYSICAL HEALTH IN THU DAU MOT 
CITY, BINH DUONG PROVINCE 
Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thuy Hiep 
Thu Dau Mot University 
ABSTRACT 
The research was conducted on 1127 pupils at the age from 6 to 10 years old in Thu 
Dau Mot city, Binh Duong province. The results show that physical health data of pupils 
increase continuously from 6 to 10 years old. However, physical development happens 
differently according to their ages and sexes. Height, weight and bust of pupils get the 
fastest development at the period of age of 9 and 10. In the studied group, most students 
have normal nutritional status (boys accounting 50,78% and girls accounting 56,91%). 
BMI index at malnutrition accounts for interest rates (5,70% in boys and 8,91% in girls), 
and the index of BMI obesity takes at the relatively high proportion (25,22% in boys and 
18,91% girls). The Pignet index of pupils increases in the initial stage (6-9 years old): from 
30,68 to 32,20 in boys; from 33,05 to 37,40 in girls, and decreases in the following period 
(9-10 years old): from 32,20 to 27,79 in boys; 37,40 to 36,97 in girls. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Hữu Chỉnh và cs (1996), Báo cáo thực hiện điều tra một số chỉ tiêu nhân trắc ở người 
Việt Nam trên 7 tuổi ở Hải Phòng, Chương trình điều tra cơ bản đặc điểm cơ bản của người 
Việt Nam ở thập kỷ 90, Trường Đại học Y khoa Hà Nội. 
[2] Trần Văn Dần và cs (1997), Một số nhận xét về phát triển thể lực của học sinh lứa tuổi 8 đến 14 
tuổi trên một số vùng dân cư miền Bắc Việt Nam trong thập kỷ 90, Bàn về đặc điểm tăng trưởng 
của người Việt Nam, Đề tài KX 07-07, Hà Nội. 
[3] Nguyễn Điểm và cs (2006), Đặc điểm tăng trưởng của trẻ em trước tuổi đến trường ở 3 vùng 
sinh thái (thành phố, nông thôn và miền núi) tỉnh Bình Định, Đề tài khoa học và công nghệ cấp 
Bộ, Trường Đại học Quy Nhơn. 
[4] Tạ Thúy Lan, Đàm Phượng Sào (1998), Sự phát triển thể lực của học sinh một số trường tiểu 
học và trung học cơ sở ở tỉnh Hà Tây, Thông báo Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[5] Trần Thị Lan, Lê Thị Tám (2012), Nghiên cứu một số chỉ số thể lực của học sinh từ 12-18 tuổi 
ở huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, Báo cáo khoa học về nghiên cứu và giảng dạy Sinh học ở 
Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[6] Trần Thị Loan (2002), Nghiên cứu một số thể lực và trí tuệ của học sinh từ 6-17 tuổi tại quận 
Cầu Giấy, Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[7] Trung tâm dinh dưỡng Thành phố Hồ Chí Minh (2014), “Dinh dưỡng trẻ em: Tiếp cận từ cộng 
đồng, trường học và bệnh viện”, Hội nghị dinh dưỡng thành phố Hồ Chí Minh mở rộng lần thứ 3. 
[8] Mei Z, Grummer-Strawn LM, Pietrobelli A, Goulding A, Goran MI, Dietz WH (2002), Validity 
of body mass index compared with other body-composition screening indexes for the 
assessment of body fatness in children and adolescents, American Journal of Clinical Nutrition; 
7597–7985. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_the_luc_cua_hoc_sinh_tieu_hoc_o_thanh_pho_thu_dau.pdf
Ebook liên quan