Nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Tóm tắt Nhận diện hành vi quản trị lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam: ...a doanh nghiệp để đạt được ngưỡng lợi nhuận mong muốn [21]. Các nghiên cứu sau này của Roychowdhury (2006) và Gunny (2010) cũng cho ra kết quả tương tự [20; 9]. Cách thức phổ biến thứ hai để thực hiện REM là tiến hành sản xuất một cách thái quá. Bằng cách này, giá vốn mỗi đơn vị hàng b... dụ, theo mô hình được đề xuất bởi Dechow, Kothari và Watts (1998), áp dụng bởi Roychowdhury (2006), phần chi phí tùy ý (discretionary expenses) của doanh nghiệp trong năm bất kỳ sẽ được đo lường như sau: 0 50 100 150 200 250 300 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 ...]. Tuy nhiên hệ số tương quan này vẫn có ý nghĩa ở mức 1%. Trong khi đó, hệ số tương quan giữa và được kỳ vọng mang dấu dương lại bé hơn không (-1.18%). Hệ số này được xem là không đáng kể (không SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q4 - 2016 Trang 90 có ý nghĩa ở mức 10%). ...
REM. Nói cách khác, chênh lệch giữa giá trị quan sát và giá trị ước tính sẽ phản ánh mức độ thực hiện hành vi REM của NQL. Ví dụ, theo mô hình được đề xuất bởi Dechow, Kothari và Watts (1998), áp dụng bởi Roychowdhury (2006), phần chi phí tùy ý (discretionary expenses) của doanh nghiệp trong năm bất kỳ sẽ được đo lường như sau: 0 50 100 150 200 250 300 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q4 - 2016 Trang 87 ⁄ ( ( ⁄⁄ Trong đó: là chi phí tùy ý (bao gồm chi phí R&D và chi phí bán hàng, quản lý doanh nghiệp) phát sinh trong năm, là tổng tài sản vào cuối năm t và là doanh thu phát sinh trong năm t [20; 14]. Sau khi tính toán các hệ số và của mô hình này, phần giá trị sai số ngẫu nhiên (chênh lệch giữa giá trị quan sát ⁄ và giá trị ước tính ⁄̂ thu được từ mô hình trên) được xem là mức bất thường trong chi phí tùy ý của doanh nghiệp. Phần giá trị này không được giải thích bởi các biến trong mô hình và bị chi phối bởi NQL, do đó là biến đại diện cho hành vi quản trị lợi nhuận thực tế thông qua cắt giảm các chi phí tùy ý. Dựa trên nghiên cứu về quan hệ giữa lợi nhuận và dòng tiền của Dechow và các cộng sự (1998), Roychowdhury (2006) đã xây dựng mô hình nhận diện ba hành vi REM phổ biến thông qua các mô hình ước tính về dòng tiền hoạt động (cash flow from operating activities), chi phí tùy ý (discretionary expenses) và chi phí sản xuất (production cost). ⁄ ( ⁄ ( ⁄ ( ⁄ (1) Trong đó: CF là dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh phát sinh trong năm, là chênh lệch doanh thu giữa năm t và năm t-1. ⁄ ( ( ⁄⁄ (2) ( ⁄⁄ ( ⁄ ( ( ⁄⁄ (3) Trong đó: là chi phí sản xuất phát sinh trong năm; COGS là giá vốn hàng bán trong kỳ, là biến động giá trị hàng tồn kho [20;14]. Các giá trị , và lần lượt là các biến đại diện cho ba cách thức thực hiện REM (1) điều chỉnh doanh thu thông qua các chính sách chiết khấu, nới lỏng thanh toán, (2) cắt giảm chi phí tùy ý và (3) tiến hành sản xuất thái quá. Để thuận tiện trong quá trình phân tích, ba biến , và sẽ được đặt tên khác là , và . Giá trị, ý nghĩa và cách tính toán của các biến trên vẫn được giữ nguyên. Mô hình nhận diện Sau khi tính toán được phần giá trị bất thường trong mức hoạt động của doanh nghiệp. nghiên cứu sẽ kiểm nghiệm sự tương quan của các giá trị bất thường này ( với Y là CF, PROD hoặc DISEXP) với biến giả (dummy variable) của nhóm nghi ngờ ( có giá trị bằng 1 nếu quan sát thuộc nhóm nghi ngờ, ngược lại bằng 0). Phương trình hồi quy dùng để kiểm định mối quan hệ trên được xây dựng như sau: ( ( ( ( ( Trong đó: SIZE tính bằng lôgarit của giá trị thị trường vốn chủ sở hữu, MTB là hệ số giá trị thị trường vốn chủ sở hữu chia cho giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu, PERFORM tính bằng lợi nhuận thuần chia cho tổng tài sản đầu kỳ. Các biến SIZE, MTB và PERFORM được đưa vào mô hình để kiểm soát các sai số hệ thống trong giá trị bất thường của dòng tiền hoạt động, chi phí sản xuất và các chi phí tùy ý. SIZE thể hiện cho yếu tố quy mô của doanh nghiệp. MTB phản ánh tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp và PERFORM cho thấy hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam có áp dụng REM để tránh lỗ thì giá trị sẽ có ý nghĩa thống kê. Dấu của sẽ phụ SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q4 - 2016 Trang 88 thuộc vào các cách thức quản trị lợi nhuận thực tế được nghiên cứu. Cụ thể, được dự đoán sẽ có dấu âm (-) đối với mô hình hồi quy của và ; có dấu dương (+) với mô hình của . 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Kết quả nghiên cứu Dựa vào giả định doanh thu tuân theo quy luật bước đi ngẫu nhiên (random walk) của Roychowdhury (2006) khi xây dựng mô hình và mục đích của mô hình là nhận diện hành vi REM theo từng năm của từng công ty (firm- years) nên đề tài lựa chọn phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất (OLS) áp dụng cho dữ liệu chéo (cross-sectional data) để ước tính các hệ số hồi quy của mô hình [5]. Kết quả được trình bày trong Bảng 1. Bảng 1. Tổng hợp kết quả hồi quy các mô hình ƣớc tính Biến Hệ số chặn c (0.0768) * 0.0259 * (0.0538) * 0.0053 0.0023 0.0101 0.0110 * 0.0024 * (0.0003) *** 0.0003 0.0002 0.0007 0.0574 * 0.0489 * 1.0536 * 0.0034 0.0012 0.0057 0.0703 * (0.6799) * 0.0099 0.0165 (0.9656) * 0.0040 0.4454 0.3419 0.9765 * Có ý nghĩa ở mức 1%, ** Có ý nghĩa ở mức 5%, *** Có ý nghĩa ở mức 10% Bảng trên mô tả kết quả hồi quy của các mô hình ước tính sau: (a) (b) (c) Mô hình được ước tính cho toàn bộ quan sát với phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất (OLS) chạy cho dữ liệu chéo (cross-sectional data). Tổng quát, các mô hình đều cho kết quả tốt, tương đồng với các nghiên cứu đã thực hiện trước đó như Roychowdhury (2006) hay Jr (2015). So với Roychowdhury (2006), hệ số xác định hiệu chỉnh ( hiệu chỉnh) của mô hình ước tính dòng tiền hoạt động và chi phí tùy ý thấp hơn nhưng không đáng kể (44.54% so với 45% đối với dòng tiền hoạt động; 34.19% so với 38% đối với chi phí tùy ý). Tuy nhiên, mô hình ước của chi phí sản xuất lại có tính giải thích cao hơn hẳn so với kết quả của Roychowdhury (2006) (97.65% so với 89%). Sự khác nhau này có thể được giải thích thông qua các yếu tố không được đưa vào mô hình, đặc biệt là sự khác nhau về điều kiện kinh tế, xã hội trong giai đoạn thực hiện của hai nghiên cứu. Hệ số hiệu chỉnh của mô hình ước tính dòng tiền hoạt động và chi phí tùy ý không cao (44.54% và 34.19%). Điều này cho thấy ngoài các biến đã được đưa vào mô hình, dòng tiền hoạt động và chi phí tùy ý của doanh nghiệp vẫn chịu tác động bởi các yếu tố khác, một nhân tố quan trọng là các quyết định của NQL. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q4 - 2016 Trang 89 Các quyết định này tạo ra sự bất thường trong mức hoạt động của doanh nghiệp nên không được giải thích bởi mô hình. Do đó, đây cũng là một dấu hiệu cho thấy NQL có áp dụng REM để điều chỉnh lợi nhuận của doanh nghiệp. Không giống như vậy, mô hình ước tính chi phí sản xuất có tính giải thích rất cao (97.65%). Hay nói cách khác, mức chi phí sản xuất của doanh nghiệp là phù hợp so với mức doanh thu và sự thay đổi trong doanh thu qua các năm. Đây là dấu hiệu bác bỏ giả thuyết NQL áp dụng REM bằng cách tiến hành sản xuất thái quá. Tuy vậy kết quả trên vẫn chưa thể kết luận giả thuyết NQL có áp dụng REM để tránh lỗ. Do đó, nghiên cứu thực hiện ước tính các mô hình nhận diện để kiểm chứng mối quan hệ giữa các giá trị bất thường ( ) và biến xác định các quan sát thuộc nhóm nghi ngờ ( . Kết quả được trình bày trong Bảng 2. Bảng 2. Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình nhận diện REM Biến Hệ số chặn c (0.5466) * (0.0342) * 0.0492 0.0248 0.0124 0.0525 0.0449 * 0.0019 *** (0.0033) 0.0021 0.0010 0.0044 (0.0080) * 0.0019 0.0098 ** 0.0024 0.0012 0.0046 0.1494 * 0.1542 * (0.2860) * 0.0344 0.0165 0.0717 (0.0384) * (0.0149) * (0.0118) 0.0118 0.0058 0.0260 * Có ý nghĩa ở mức 1%, ** Có ý nghĩa ở mức 5%, *** Có ý nghĩa ở mức 10% Bảng trên mô tả kết quả hồi quy của mô hình ước tính sau: Mô hình được ước tính với Y lần lượt là CF, DISEXP và PROD. Dữ liệu được sử dụng là toàn bộ quan sát. Đề tài sử dụng phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất (OLS) chạy cho dữ liệu chéo (cross- sectional data). Hệ số tương quan giữa biến và bằng -0.0384 (có ý nghĩa ở mức 1%) cho thấy các quan sát có lợi nhuận vừa vượt không trung bình có giá trị Dòng tiền hoạt động thấp hơn 3.84% giá trị Tổng tài sản đầu kỳ so với các mẫu còn lại. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Roychowdhury (2006), 3.05%. Cũng tương tự đối với chi phí tùy ý, trung bình các quan sát nghi ngờ sẽ có chi phí tùy ý thấp hơn 1.49% giá trị tổng tài sản năm trước so với phần còn lại của mẫu. So sánh với các nghiên cứu trước đó, hệ số này có phần thấp hơn [4.35% trong nghiên cứu của Roychowdhury (2006)]. Tuy nhiên hệ số tương quan này vẫn có ý nghĩa ở mức 1%. Trong khi đó, hệ số tương quan giữa và được kỳ vọng mang dấu dương lại bé hơn không (-1.18%). Hệ số này được xem là không đáng kể (không SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q4 - 2016 Trang 90 có ý nghĩa ở mức 10%). Do đó, ta có thể kết luận 0 có sự khác biệt trong giá trị bất thường của chi phí sản xuất giữa các quan sát có lợi nhuận vừa vượt 0 và các quan sát còn lại. Tổng lại, kết quả hồi quy của mô hình ước tính và mô hình nhận diện cho kết quả thống nhất rằng: Các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK Việt Nam có áp dụng quản trị lợi nhuận thực tế bằng cách điều chỉnh doanh thu thông qua các chính sách chiết khấu và nới lỏng thanh toán; hoặc cắt giảm chi phí tùy ý, tuy nhiên không thực hiện REM bằng cách tiến hành sản xuất thái quá để tránh lỗ. Như vậy, ta có đủ bằng chứng để chấp nhận H1 đối với REM bằng cách tăng doanh thu và cắt giảm chi phí tùy ý, đồng thời bác bỏ H1 đối với REM thông qua tiến hành sản xuất thái quá. Để kiểm nghiệm mối quan hệ giữa việc thực hiện hai cách thức REM là điều chỉnh doanh thu và cắt giảm chi phí tùy ý, đề tài tính hệ số tương quan Pearson (Pearson correlation) của hai biến và . Kết quả dương 12.06% cho thấy mối quan hệ cùng chiều trong giá trị bất thường của Dòng tiền hoạt động và Chi phí tùy ý. Như vậy, NQL có xu hướng áp dụng đồng thời hai cách thức REM trên nhằm điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ về giá trị mong muốn. 3.1. Thảo luận Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu trên phù hợp với dự đoán được xây dựng từ quan sát thực tế và kết quả thực nghiệm trước đó. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý rằng các mô hình thực nghiệm lại bác bỏ giả thuyết NQL có áp dụng REM bằng cách tiến hành sản xuất thái quá để tránh lỗ. Điều này có thể được giải thích bởi hai nguyên nhân chính sau. Thứ nhất, cung cấp các chính sách giảm giá, gia hạn thanh toán hay cắt giảm chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với việc tiến hành sản xuất thái quá. Đối với các công ty niêm yết, các mô hình sản xuất thường phức tạp. Việc mở rộng sản xuất một cách đột ngột yêu cầu phải gia tăng nhanh mức nguyên liệu và nhân công đồng thời, phải tìm kiếm vị trí để lưu kho thành phẩm trong một thời gian dài. Điều này đặc biệt khó đối với các doanh nghiệp nhỏ hoặc đã có quy mô sản xuất bão hòa. Một nguyên nhân khác là rủi ro và chi phí cao khi điều chỉnh lợi nhuận bằng cách thúc đẩy sản xuất. Cách thức REM này ngoài làm tăng hàng hóa lưu kho còn đặt ra nhiều bài toán khó cho nhà quản trị như tiêu thụ lượng hàng hóa được sản xuất ra, giảm quy mô về mức hợp lý trở lại (cắt giảm nhân công, thanh lý máy móc). Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp có lợi nhuận rất ít thuộc Nhóm nghi ngờ, các vấn đề này có thể dẫn đến nguy cơ phải thu lỗ nặng và phá sản. Do đó, kết quả trên là phù hợp với tình hình thực tế của nghiên cứu. 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 4.1. Kết luận Bằng cách tổng hợp và phân tích các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến quản trị lợi nhuận, bài viết đã hệ thống hóa cơ sở lý luận, nêu lên cách thức để nhận điện REM. Đồng thời, nghiên cứu đã trình bày các kết quả nghiên cứu trước đó để cung cấp cho người đọc cái nhìn toàn diện nhất về REM. Sau đó, sử dụng các phương pháp thống kê và dữ liệu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nghiên cứu đã xây dựng giả thuyết, phân tích phương pháp và tiến hành thực nghiệm các vấn đề nghiên cứu đã đặt ra. Các kết quả hồi quy chỉ ra rằng các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam có áp dụng REM bằng thúc đẩy doanh thu thông qua các chính sách chiết khấu và nới lỏng thanh toán; hoặc cắt giảm chi phí tùy ý, tuy nhiên, không thực hiện REM bằng cách tiến hành sản xuất thái quá để tránh lỗ. Quản trị lợi nhuận là một chủ đề rộng và có TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q4 - 2016 Trang 91 ý nghĩa quan trọng trong thực tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu liên quan, đặc biệt là các nghiên cứu trong nước còn khá hạn chế. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xây dựng tiền đề để nhận diện hành vi REM trong thực tế. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như dữ liệu thu thập không bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp niêm yết do sự thiếu hụt trong thông tin đã được công bố bởi các công ty niêm yết; bài viết chỉ mới dừng lại ở nhận diện ba cách thức REM phổ biến. Do đó, người viết xin đề xuất một số hướng nghiên cứu tiếp theo để cung cấp những góc nhìn toàn diện hơn đối với REM. Các hướng nghiên cứu tiếp theo có thể đánh giá ảnh hưởng của REM lên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá mức độ nhận diện của nhà đầu tư đối với REM, do lường các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện REM hoặc kiểm nghiệp động cơ NQL thực hiện REM để đạt được ngưỡng lợi nhuận cam kết. Các chủ đề này có ý nghĩa quan trọng đối với cả NĐT, NQL và cơ quan quản lý. 4.2. Kiến nghị Với kết quả thực nghiệm trên, chúng tôi xin đề xuất hai kiến nghị chính nhằm tăng cường độ tin cậy của chỉ tiêu lợi nhuận và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư: Thứ nhất là nâng cao tính minh bạch thông tin trên thị trường. Để đạt được điều này, các cơ quan quản lý như Bộ Tài Chính, Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước cần hoàn thiện cơ chế quản lý và các quy định về kế toán theo hướng coi trọng bản chất kinh tế các nghiệp vụ, qua đó phản ánh đúng và đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Đặc biệt, cần có những quy định về công bố thông tin rõ ràng, minh bạch nhằm giúp các nhà đầu tư, nhất là NĐT nhỏ lẻ tiếp cận được nguồn thông tin của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp niêm yết cũng cần tạo điều kiện cho NĐT thu thập và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thiết nghĩ các công ty cần thành lập một website riêng để công bố thông tin và đồng thời ngoài các thông tin tài chính, cần chủ động công bố cả những thông tin phi tài chính như chia cổ tức, thay đổi mức hoạt động nhằm giúp NĐT có sự hiểu biết phù hợp về doanh nghiệp. Về phía các tổ chức trung gian, các ngân hàng, quỹ đầu tư và công ty chứng khoán cần phát huy vai trò của mình trong việc hỗ trợ NĐT và nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của thị trường. Thứ hai là nâng cao trình độ nhận thức và khả năng phân tích cho NĐT. Đề tài đề xuất các tổ chức đào tạo cần có chương trình đào tạo phù hợp, tạo điều kiện cho sinh viên và NĐT nghiên cứu và thực hành các kiến thức về kinh tế và tài chính, ví dụ như thành lập các trung tâm hỗ trợ dữ liệu và phân tích, tổ chức các cuộc thi học thuật và đầu tư như sàn chứng khoán ảo. Nhưng trước hơn hết, bản thân nhà đầu tư cần “tỉnh táo”, tích cực học tập, tìm hiểu, nâng cao năng lực chuyên môn để đưa ra những quyết định đầu tư phù hợp. Để trảnh ảnh hưởng của hành vi REM, NĐT có thể sử dụng các mô hình nhận diện được đề xuất trong nghiên cứu này để đo lường mức bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp, từ đó có được cái nhìn phù hợp nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 19, No Q4 - 2016 Trang 92 Detection of real earnings management: The case of Vietnamese listed companies Nguyen Thi Phuong Loan Nguyen Minh Thao University of Economics and Law, VNU HCM - Email: loanntp@uel.edu.vn ABSTRACT There are a great number of incentives that drive managements to manipulate firms’ profit. Beside exploiting the allowed discretional accrual choices, managers could perform real earnings management by altering the normal operating scale of the companies. This paper examines the three most prevalent means of real earnings management, including (1) boost in sales through price discounts or more lenient credit terms; (2) reduction of discretional expenses and (3) overproduction. The main concentration of the study is the applications of these measures to avoid losses. By using data of 610 listed companies on Ha Noi and Ho Chi Minh Stock Exchange from 2008 to 2015 and verified regression models, the research finds evidence that managers do apply real earnings management to avoid losses. These findings are consistent with other researches’ result. Based on the empirical result, the paper raises recommendations to enhance the profit’s reliability and protect investors. Key words: Earnings management, accrual-based earnings management, real earnings managements, earnings management’s detection. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. A. Levitt, "The number game," Securities and Exchange Comission (SEC), New York (1998). [2]. A.Y. Zang, "Evidence on the Trade-Off between Real Activities Manipulation and Accrual-Based Earnings Management," The Accounting Review 87, 675-703 (2012). [3]. C. M. C. A. L. M. N. C. d. C. Jr, "Earnings Manipulation by Real Activities Management and Investors' Perceptions," Research in International Business and Finance, 309-323 (2014). [4]. D. Burgstahler, l. Dichev, "Earnings management to avoid earnings decreases and losses," Journal of Accounting and Economics 24, 99-126 (1997). [5]. J. K. Thomas, H. Zhang, "Inventory Changes and Future Returns," Review of Accounting Studies 7, 63-187 (2002). [6]. J. R. Grahama, C. R. Harvey, S. Rajgopalc, "The Economic Implications of Corporate Financial Reporting," Journal of Accounting and Economics 40, 3-73 (2005). [7]. J. Z. Chen, "The Choice between Real and Accounting Earnings Management," Department of Accountancy and Taxation, University of Houston (2009). TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 19, SỐ Q4 - 2016 Trang 93 [8]. K. Gunny, "The relation between earnings management using real activities manipulation and future performance: Evidence from meeting earnings benchmarks" Contemporary Accounting Research 27, 855-888 (2010). [9]. K. Gunny, "What are the consequences of Real Earnings Management," Research in Accounting Regulation 50, 275-334 (2005). [10]. K. Schipper, "Commentary on Earnings Management," Accounting Harizons, 91- 102 (1989). [11]. M. Enomoto, F. Kimura, T. Yamaguchi, "Accrual-Based and Real Earnings Management: An International Comparison for Investor Protection", Journal of Contemporary Accounting and Economics 11, 183-198 (2015). [12]. M. J. Gordon, "Postulates, Principles and Research in Accounting," The Accounting Review 39, 251-263 (1964). [13]. M. Sellami, "Incentives and Constraints of Real Earnings Management: The Literature Review," International Journal of Finance and Accounting 4, 206-213 (2015). [14]. P. M. Dechow, R. G. Sloan and A. P. Sweeney, "Detecting Earnings Management" American Accounting Association 70, 193-225 (1995). [15]. P. M. Dechow, S. P. Kothari, , R. L. Watts, "The Relation between earnings and cash flows," Journal of Accounting and Economics 25, 133-168 (1998). [16]. P. M. Healy, J. M. Wahlen, "A Review of the Earnings Management Literature and Its Implications for Standard Setting," Accounting Horizon 13, 365-384 (1999). [17]. P. T. B. Vân, "Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận," Tạp chí ngân hàng 1, 29 (2013). [18]. S. Hepworth, "Smoothing periodic income," The Accounting Review 28, 32- 39 (1953). [19]. S. Matsuura, "On the relation between real earnings management and accounting earnings management: income smoothing perspective" Journal of International Business Research 7, 63-77 (2008). [20]. S. Roychowdhury, "Earnings management through real activities manipulation", Journal of Accounting and Economics 42, 335-370 (2006). [21]. W. R. Baber, P. M. Fairfield, J. A. Haggard, "The Effect of concern about Reported Income on Discretionary Spending Decisions: The Case of Research and Development," The Accounting Review 66, 818-829 (1991).
File đính kèm:
- nhan_dien_hanh_vi_quan_tri_loi_nhuan_thuc_te_cua_cac_doanh_n.pdf