Phân tích vấn đề bản quyền trong việc xây dựng các nguồn thông tin thực của thư Viện số

Tóm tắt Phân tích vấn đề bản quyền trong việc xây dựng các nguồn thông tin thực của thư Viện số: ...ỡng chế là tiêu chuẩn đòi hỏi doanh nghiệp nhất thiết phải chấp hành trong sản xuất, thi công và chịu sự giám sát thực thi của cơ quan quản lý tiêu chuẩn hoá, là quy phạm kỹ thuật có tính chất pháp quy, do đó không đ−ợc luật bản quyền bảo hộ. Tiêu chuẩn có tính khuyến nghị thuộc về quy...nghìn nămnăm 1998 của Mỹ quy định cho phép th− viện dùng ph−ơng thức “sử dụng hợp lý” để chế tác 3 loại phục chế phẩm l−u trữ trong th− viện, trong đó bao gồm bản phục chế số, nh−ng không đ−ợc đem bản phục chế số truyền bá cho công chúng ngoài toà nhà th− viện. Điều đó có nghĩa là th− ...mà WTO quy định, mà còn vì sau này bất cứ đơn vị và cá nhân nào khi sử dụng tác phẩm của ng−ời khác đều không thể vi phạm quy định này. Thứ ba, Điều 5 Điều lệ quản lý chế phẩm nghe nhìn mới do Quốc vụ viện Trung Quốc ban bố, bắt đầu thực hiện từ ngày 1 tháng 2 năm 2002, quy định: “Nhà ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phân tích vấn đề bản quyền trong việc xây dựng các nguồn thông tin thực của thư Viện số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu 
chuẩn nhà n−ớc làm thí dụ, hoàn toàn 
không phải tất cả các tiêu chuẩn nhà n−ớc 
do các cơ quan, tổ chức quản lý tiêu chuẩn 
hoá nhà n−ớc chế định đều thuộc loại tài 
liệu pháp quy và đều không đ−ợc luật bản 
quyền bảo hộ. Nói chung, tiêu chuẩn nhà 
n−ớc có thể đ−ợc chia thành 2 loại: tiêu 
chuẩn có tính c−ỡng chế và tiêu chuẩn có 
tính khuyến nghị. Tiêu chuẩn có tính 
c−ỡng chế là tiêu chuẩn đòi hỏi doanh 
nghiệp nhất thiết phải chấp hành trong 
sản xuất, thi công và chịu sự giám sát thực 
thi của cơ quan quản lý tiêu chuẩn hoá, là 
quy phạm kỹ thuật có tính chất pháp quy, 
do đó không đ−ợc luật bản quyền bảo hộ. 
Tiêu chuẩn có tính khuyến nghị thuộc về 
quy phạm kỹ thuật tự nguyện áp dụng, 
hoàn toàn không mang tính chất pháp 
quy, nếu trong quá trình chế định loại tiêu 
chuẩn này cần bỏ ra lao động có tính sáng 
tạo, phù hợp với những điều kiện cần thiết 
để cấu thành tác phẩm đ−ợc luật bản 
quyền quy định, thì loại tiêu chuẩn này 
đ−ợc luật bản quyền bảo hộ. Trong vụ 
tranh chấp bản quyền mà Viện Nghiên 
cứu Thiết kế Tiêu chuẩn Xây dựng Trung 
Quốc kiện Công ty Xuất bản Điện tử 
Yinguan Bắc Kinh, bên nguyên là ng−ời 
chế định tiêu chuẩn thiết kế xây dựng nhà 
n−ớc. Năm 2000, bên bị đã đ−a tập biểu đồ 
tổng quát về tiêu chuẩn thiết kế xây dựng 
nhà n−ớc về n−ớc, điện, nhiệt do bên 
nguyên biên soạn vào đĩa quang mà mình 
chế tác và xuất bản phát hành d−ới hình 
thức xuất bản phẩm điện tử, bên nguyên 
kiện bên bị xâm phạm bản quyền của 
mình. Toà án nhân dân trung cấp số 1 
thành phố Bắc Kinh cho rằng, tiêu chuẩn 
kỹ thuật mà bên nguyên đứng quyền tuy 
Vấn đề bản quyền... 
47 
do cơ quan hành chính nhà n−ớc ban hành 
d−ới hình thức tài liệu, nh−ng thuộc về 
tiêu chuẩn có tính chỉ đạo kỹ thuật, là tiêu 
chuẩn có tính khuyến nghị, trong quá 
trình chế định tiêu chuẩn này, ng−ời chế 
định đã phải bỏ ra lao động có tính sáng 
tạo, nên nó phù hợp với những điều kiện 
cần thiết để cấu thành tác phẩm, thuộc 
phạm vi bảo hộ của luật về quyền tr−ớc 
tác, do đó bên bị đã xâm phạm quyền 
phục chế và quyền phát hành của bên 
nguyên, toà tuyên bên bị phải bồi th−ờng 
cho bên nguyên khoản thiệt hại kinh tế là 
120.000 NDT (5). 
 Còn cần chỉ ra rằng, tiêu chuẩn có 
tính c−ỡng chế nhà n−ớc tuy không đ−ợc 
luật bản quyền bảo hộ, nh−ng cũng không 
có nghĩa là bất cứ ai cũng có thể tuỳ tiện 
truyền bá. Thông th−ờng, để bảo đảm cho 
những tiêu chuẩn này đ−ợc ban bố và thực 
thi đúng đắn, cơ quan quản lý tiêu chuẩn 
hoá sẽ căn cứ vào chức năng và quyền hạn, 
trao quyền xuất bản chúng cho cơ quan 
xuất bản đ−ợc chỉ định. Ngày 18 tháng 8 
năm 1997, Cục Giám sát Kỹ thuật Nhà 
n−ớc và Vụ Báo chí Xuất bản nhà n−ớc đã 
liên hợp công bố Biện pháp quản lý việc 
xuất bản tiêu chuẩn, quy định “tiêu chuẩn 
phải do đơn vị xuất bản chính thức, đ−ợc 
ngành hành chính xuất bản Quốc vụ viện 
phê chuẩn xuất bản, tiêu chuẩn nhà n−ớc 
do Nhà xuất bản Tiêu chuẩn Nhà n−ớc 
xuất bản”. Tháng 6 năm 1999, Toà án 
Nhân dân Tối cao Trung Quốc, trong công 
văn tr−ng cầu ý kiến gửi Cục Bản quyền 
Nhà n−ớc Trung Quốc, cho rằng, “để bảo 
đảm công bố và thực thi đúng đắn tiêu 
chuẩn, ngành quản lý tiêu chuẩn hoá căn 
cứ theo chức năng quyền hạn trao quyền 
xuất bản tiêu chuẩn có tính c−ỡng chế cho 
Nhà xuất bản Tiêu chuẩn Trung Quốc, 
đây vừa là một sự xác nhận t− cách kinh 
doanh, loại trừ t− cách xuất bản của các 
đơn vị xuất bản khác, đồng thời d−ờng nh− 
cũng nên coi đây là một sự cấp phép độc 
quyền kinh doanh dân sự”. Trong công 
văn trả lời, Cục Bản quyền Nhà n−ớc cho 
rằng “t− cách xuất bản này là một thứ 
quyền hành chính mang tính chất đặc 
biệt, chứ không phải là quyền dân sự 
mang tính chất quyền tr−ớc tác” (6). Điều 
đó cho thấy trong hoạt động xuất bản, phổ 
biến tiêu chuẩn nhà n−ớc, Nhà Xuất bản 
Tiêu chuẩn Trung Quốc đ−ợc phép độc 
quyền kinh doanh xuất bản, đây là quyền 
bắt nguồn từ quyền hành chính, ng−ời 
khác phổ biến những tiêu chuẩn nhà n−ớc 
có tính c−ỡng chế này tuy không xâm 
phạm bản quyền, nh−ng xâm hại đến độc 
quyền kinh doanh xuất bản mà quyền 
hành chính trao cho nó, đây là tình hình 
đặc biệt của Trung Quốc trong quá trình 
chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế 
thị tr−ờng. Muốn tiến hành xử lý và 
truyền bá loại văn bản này, DL cần đ−ợc 
nhà xuất bản này cho phép. 
 1.2.3 Những tác phẩm còn trong thời 
hạn bảo hộ 
 Do hành vi số hoá là một trong những 
ph−ơng thức phục chế, mà quyền phục chế 
lại là một thứ quyền riêng của ng−ời giữ 
bản quyền, nên nếu ch−a đ−ợc ng−ời giữ 
bản quyền cho phép mà tự ý tiến hành xử 
lý số hoá tác phẩm của ng−ời khác thì phải 
chịu trách nhiệm t−ơng ứng về xâm phạm 
quyền. Nh−ng quyền số hoá đã thuộc 
quyền phục chế thì tất nhiên nó là một thứ 
quyền hạn chế, không thể là quyền tuyệt 
đối, do đó th− viện hoàn toàn có thể chiểu 
theo quy định “Th− viện, nhà l−u trữ, nhà 
l−u niệm, bảo tàng, cung mỹ thuật, vì nhu 
cầu tr−ng bày hay bảo tồn nguyên bản, 
phục chế các tác phẩm mà mình s−u tập 
đ−ợc” tại Điều 22 (8) Luật về quyền tr−ớc 
tác mới, không cần đ−ợc ng−ời giữ bản 
quyền đồng ý, cũng không cần trả phí, yên 
tâm mạnh dạn tiến hành công tác số hoá 
các tài liệu l−u trữ, nh−ng mục đích của 
việc số hoá chỉ có thể là vì “nhu cầu tr−ng 
bày và bảo tồn nguyên bản”, không đ−ợc 
cung cấp dịch vụ trên mạng, bằng không 
sẽ xâm phạm “quyền truyền bá thông tin 
trên mạng” của ng−ời giữ bản quyền. Vấn 
đề là th− viện có thể dùng ph−ơng thức “sử 
dụng hợp lý” để cung cấp dịch vụ đọc bản 
Thông tin Khoa học xã hội, số 3, 2006 
48 
phục chế số hoá cho độc giả trên mạng cục 
bộ trong th− viện hay không? Tác giả cho 
rằng Luật về quyền tr−ớc tác của Trung 
Quốc tuy không trao cho th− viện đặc 
quyền này, nh−ng ph−ơng thức sử dụng 
này sẽ không dẫn đến tranh chấp bản 
quyền. Nhìn vào xu h−ớng lập pháp bản 
quyền số ở n−ớc ngoài, thì ph−ơng thức sử 
dụng này thuộc phạm trù “sử dụng hợp 
lý”. Thí dụ Điều 404 Luật bản quyền số 
nghìn nămnăm 1998 của Mỹ quy định cho 
phép th− viện dùng ph−ơng thức “sử dụng 
hợp lý” để chế tác 3 loại phục chế phẩm 
l−u trữ trong th− viện, trong đó bao gồm 
bản phục chế số, nh−ng không đ−ợc đem 
bản phục chế số truyền bá cho công chúng 
ngoài toà nhà th− viện. Điều đó có nghĩa là 
th− viện có thể cung cấp dịch vụ đọc bản 
phục chế số cho độc giả trên mạng cục bộ 
hoặc trên các máy lẻ trong th− viện. Bản 
sửa đổi Luật về quyền tr−ớc táccủa Hàn 
Quốc năm 2001 quy định, th− viện có thể 
không cần xin phép ng−ời giữ bản quyền, 
cho phép ng−ời sử dụng của th− viện mình 
đọc các tác phẩm có bản quyền qua màn 
hình máy vi tính, nh−ng không cho phép 
download và in ấn (7). Nếu DL cung cấp 
dịch vụ thông tin qua mạng rộng ngoài 
mạng cục bộ d−ới hình thức thu phí thì 
cần đ−ợc tác giả và nhà xuất bản cùng cho 
phép, không thế sẽ xâm phạm quyền 
truyền bá thông tin trên mạng của họ. 
 Trực tiếp mua chế phẩm và cơ sở dữ 
liệu số hoá là biện pháp quan trọng để xây 
dựng nguồn l−u trữ thực của DL. Về hình 
thái nội dung, có thể chia chế phẩm số hoá 
làm 2 loại lớn là sách điện tử và chế phẩm 
nghe nhìn. 
 Hiện nay việc xuất bản sách điện tử 
đang phát triển mạnh. Năm 2003, trên 
150 nhà xuất bản, th− viện, công ty máy 
tính và website đã tự phát tổ chức Liên 
minh bảo hộ bản quyền số và eBook Trung 
Quốc, trong 1- 2 năm tới, thông qua nỗ lực 
chung của các thành viên liên minh, trên 
internet, số sách điện tử chính bản có thể 
cung cấp cho độc giả download sẽ đạt 
50.000 bản (8). vào đầu năm 2002, Tập 
đoàn xuất bản Liaoning, trên “mạng sách 
điện tử Trung Quốc”, nơi nó chuyên kinh 
doanh sách điện tử, bắt đầu cung cấp loạt 
đầu 5.000 loại sách điện tử, dự tính trong 
một thời gian ngắn l−ợng cung cấp có thể 
đạt tới 25.000 loại (9). Thị tr−ờng sách 
điện tử Đài Loan cũng rất sôi động, l−ợng 
tiêu thụ hàng tháng của mạng Hoa văn 
đạt tới 2.000.000 bản (10). Một số nhà xuất 
bản nổi tiếng ở n−ớc ngoài nh− McGraw 
Hill, MacMillan Pub., Random House, St. 
Marper Collins đều đặt chân vào lĩnh vực 
xuất bản sách điện tử. Việc DL trực tiếp 
mua sách điện tử để đ−a vào l−u trữ trong 
th− viện không những có thể bớt đ−ợc 
khoản kinh phí đầu t− để chuyển đổi số 
hoá mà còn có thể tránh đ−ợc tranh chấp 
bản quyền. Đ−ơng nhiên trong tình hình 
hiện nay khi chủng loại sách điện tử còn 
ch−a thật phong phú, đây chỉ là một 
ph−ơng thức không chủ đạo để bổ sung 
nguồn l−u trữ cho th− viện số. Vì một bản 
sao sách điện tử chỉ có thể cung cấp cho 
một độc giả sử dụng, khi mua cần chú ý 
vấn đề số bản sao. Khi cung cấp dịch vụ 
sách điện tử cho ng−ời dùng, DL cần tuân 
thủ hợp đồng đã ký với nhà kinh doanh 
xuất bản, làm tốt công tác bảo hộ bản 
quyền số, đồng thời cũng cần cố gắng bảo 
vệ lợi ích của mình, trong điều khoản hợp 
đồng mua, cần ghi rõ cho phép th− viện có 
quyền căn cứ theo quy định về “sử dụng 
hợp lý” tại Điều 22 (8) Luật về quyền tr−ớc 
tác để phục chế ít nhất 1 bản sao nhằm 
mục đích bảo tồn nguyên bản, và quy định 
rõ về ph−ơng thức sử dụng và phạm vi 
truyền bá sách điện tử. Ngoài ra, sách điện 
tử mua về có thể bảo tồn trong máy phục 
vụ của nhà kinh doanh sách, cũng có thể 
bảo tồn trong máy phục vụ của DL, nh−ng 
bảo tồn trong máy phục vụ của nhà kinh 
doanh sách có rủi ro nhất định, một khi 
website của nhà kinh doanh sách phá sản, 
lợi ích của th− viện sẽ bị tổn thất. 
 Về việc mua các chế phẩm nghe nhìn, 
th− viện các cấp, các loại ở Trung Quốc 
phần nhiều đều mở dịch vụ nghe nhìn 
d−ới hình thức cho thuê có trả phí, th− 
Vấn đề bản quyền... 
49 
viện một số tr−ờng cao đẳng còn đ−a chế 
phẩm nghe nhìn lên mạng, cung cấp cho 
độc giả nghe, xem và download trên mạng 
trong tr−ờng (11), một số th− viện xã và 
thị trấn còn cho thuê các chế phẩm nghe 
nhìn, lấy đó làm một nguồn thu chủ yếu 
(12). Tác giả cho rằng, sau khi ban bố Luật 
về quyền tr−ớc tác mới, các th− viện cần 
cẩn thận khi triển khai dịch vụ cho thuê 
chế phẩm nghe nhìn. Tr−ớc hết, Luật về 
quyền tr−ớc tác mới của Trung Quốc đã 
trao cho ng−ời giữ bản quyền quyền cho 
thuê chế phẩm nghe nhìn, Điều 10 (7) luật 
này quy định: “Quyền cho thuê tức là 
quyền cho phép (có thu phí) ng−ời khác 
tạm thời sử dụng các tác phẩm điện ảnh 
và các tác phẩm đ−ợc sáng tác bằng 
ph−ơng thức t−ơng tự nh− sáng tác điện 
ảnh, phần mềm máy tính”. Điều 41 (1) còn 
quy định: “Đối với các chế phẩm nghe nhìn 
do mình chế tác, ng−ời chế tác có quyền 
cho phép ng−ời khác phục chế, phát hành, 
cho thuê, truyền bá cho công chúng qua 
mạng thông tin và h−ởng thù lao”. Do 
Điều 22, 23 thuộc Tiết 4 “Những hạn chế 
đối với quyền” trong Luật về quyền tr−ớc 
tác mới, theo yêu cầu “toàn thể thành viên 
đều cần giới hạn những hạn chế hoặc lệ 
ngoại của quyền riêng vào một tr−ờng hợp 
đặc biệt nhất định” mà Điều 13 của TRIPS 
(Hiệp nghị quyền sở hữu tri thức liên quan 
đến th−ơng mại) quy định, rõ ràng không 
thể giải thích mở rộng các điều khoản liên 
quan đến sự hạn chế quyền(*). Thứ hai, 
Điều 21 Điều lệ thực thi Luật về quyền 
tr−ớc tác mới do Quốc vụ viện Trung Quốc 
công bố ngày 2 tháng 8 năm 2002 quy 
định: “Theo những quy định hữu quan của 
Luật về quyền tr−ớc tác, việc sử dụng tác 
phẩm đã công bố và có thể không cần 
ng−ời giữ quyền tr−ớc tác đồng ý, không 
đ−ợc làm ảnh h−ởng đến việc sử dụng bình 
th−ờng tác phẩm này, cũng không đ−ợc 
làm tổn hại một cách không hợp lý tới lợi 
ích hợp pháp của ng−ời giữ quyền tr−ớc 
tác”. Sở dĩ quy định này là quan trọng 
(*) Câu không rõ nghĩa (ND) 
không chỉ vì nó là nguyên tắc quan trọng 
mà WTO quy định, mà còn vì sau này bất 
cứ đơn vị và cá nhân nào khi sử dụng tác 
phẩm của ng−ời khác đều không thể vi 
phạm quy định này. Thứ ba, Điều 5 Điều 
lệ quản lý chế phẩm nghe nhìn mới do 
Quốc vụ viện Trung Quốc ban bố, bắt đầu 
thực hiện từ ngày 1 tháng 2 năm 2002, 
quy định: “Nhà n−ớc thực hiện chế độ cấp 
phép đối với việc cho thuê chế phẩm 
nghe nhìn; ch−a đ−ợc phép, bất kỳ đơn vị 
và cá nhân nào đều không đ−ợc tiến hành 
các hoạt động cho thuê chế phẩm nghe 
nhìn”. 
 Do vậy, dịch vụ cho thuê nghe nhìn 
của th− viện không thuộc về phạm trù 
pháp luật “sử dụng hợp lý”. Để tránh 
tranh chấp bản quyền, khi triển khai dịch 
vụ nghe nhìn, th− viện có thể áp dụng 2 
đối sách: một là m−ợn đọc miễn phí, hai là 
sau khi trả phí sử dụng bản quyền cho cơ 
quan quản lý tập thể về bản quyền, tiếp 
tục triển khai dịch vụ cho thuê. So ra, cách 
làm thứ hai hay hơn, hơn nữa đã thành 
thông lệ ở n−ớc ngoài. Chẳng hạn, Điều 6, 
Điều 8 Phụ lục 7 Luật bản quyền, quyền 
thiết kế và quyền sáng chế năm 1988 của 
Anh quy định, khi cho m−ợn chế phẩm 
nghe nhìn, phần mềm máy tính, th− viện 
cần đ−ợc phép của ng−ời giữ quyền [13]; 
trong Thông tri về một số sửa đổi Luật về 
quyền tr−ớc tác và Lệnh thi hành Luật về 
quyền tr−ớc tác do Bộ Văn hoá Nhật Bản 
ban bố năm 1984 có quy định, khi th− viện 
công cộng m−ợn bản phục chế các tác 
phẩm phim nhựa, băng đĩa hình từ bên 
ngoài, có thể không cần xin phép ng−ời giữ 
quyền tr−ớc tác, nh−ng cần trả một khoản 
phí nhất định cho ng−ời giữ quyền, hơn 
nữa t− liệu nghe nhìn m−ợn từ bên ngoài 
chỉ giới hạn ở những t− liệu phù hợp với 
mục đích giáo dục nhà tr−ờng, giáo dục xã 
hội, không đ−ợc m−ợn từ bên ngoài bản 
phục chế các tác phẩm nghe nhìn mang 
tính giải trí có khuynh h−ớng cạnh tranh 
với việc công chiếu tại rạp, bán trên thị 
tr−ờng, cho thuê th−ơng mại (14); Th− 
viện thuộc Trung tâm Văn hoá Pompidu 
Thông tin Khoa học xã hội, số 3, 2006 
50 
Pháp giải quyết vấn đề bản quyền trong 
việc m−ợn các t− liệu nghe nhìn từ bên 
ngoài bằng cách trả phí sử dụng cho cơ 
quan quản lý bản quyền (15). 
 Về việc mua cơ sở dữ liệu, nói chung 
th− viện không có quyền sở hữu, chỉ có 
quyền sử dụng, ph−ơng thức sử dụng và 
phạm vi sử dụng cơ sở dữ liệu có hợp pháp 
hay không, vừa do các quy định hữu quan 
của luật bản quyền quyết định, vừa do các 
quy định của luật hợp đồng quyết định. Do 
việc mua quyền sử dụng cơ sở dữ liệu chủ 
yếu thực hiện thông qua việc ký hợp đồng, 
nên muốn đề phòng nhà kinh doanh việc 
chế tác cơ sở dữ liệu t−ớc đoạt quyền sử 
dụng hợp pháp của độc giả qua hợp đồng 
thì các điều khoản về sử dụng hợp lý đ−ợc 
quy định trong luật bản quyền cần đ−ợc 
thể hiện đầy đủ trong hợp đồng. Hiện nay, 
một số cơ sở dữ liệu liên tục xẩy ra tranh 
chấp bản quyền, có cơ sở dữ liệu toàn văn 
nổi tiếng Trung Quốc có lần bị Cục Xuất 
bản Báo chí Nhà n−ớc và Cục Bản quyền 
Nhà n−ớc Trung Quốc tuyên bố là xuất 
bản phẩm phi pháp (16), khiến th− viện sử 
dụng sản phẩm này cũng đứng tr−ớc nguy 
cơ bị ngành quản lý hành chính về bản 
quyền kiểm tra niêm phong. Do vậy để bảo 
vệ lợi ích của chính DL, khi mua quyền sử 
dụng cơ sở dữ liệu, DL cần yêu cầu nhà 
kinh doanh việc chế tác cơ sở dữ liệu thêm 
các điều khoản kèm theo vào hợp đồng, 
quy định rõ một khi cơ sở dữ liệu nẩy sinh 
vấn đề xâm phạm quyền dẫn đến việc 
ng−ời giữ bản quyền đòi bồi th−ờng, hoặc 
do vấn đề bản quyền mà cơ sở dữ liệu bị 
ngành quản lý hành chính về bản quyền 
kiểm tra niêm phong thì mọi trách nhiệm 
pháp luật và kinh tế đều do nhà kinh 
doanh việc chế tác cơ sở dữ liệu chịu. 
2. Vấn đề bản quyền trong việc download các 
nguồn thông tin ảo 
 Biến nguồn thông tin trên mạng 
thành nguồn l−u trữ trong th− viện là một 
trong những ph−ơng pháp quan trọng để 
xây dựng nguồn thông tin của DL, có 
ng−ời chủ tr−ơng thông qua nhiều lần 
download các nguồn trên mạng để xây 
dựng cơ sở dữ liệu ảo của th− viện mình 
(17), hoặc copy những thông tin có giá trị 
nhất trên mạng, chuyển vào máy phục vụ 
của th− viện mình, xây dựng các kính 
t−ợng trạm điểm (18); có ng−ời thậm chí 
chủ tr−ơng, các cơ quan thông tin sách có 
thể khai thác các thông tin nhận đ−ợc qua 
mạng, làm thành sách điện tử hoặc ấn 
phẩm để tham gia phát triển thị tr−ờng 
xuất bản phẩm điện tử (19). Trong thực tế, 
có một số th− viện các tr−ờng cao đẳng đã 
bắt đầu download một cách có kế hoạch 
nguồn thông tin trên mạng có giá trị tham 
khảo đối với việc giảng dạy và nghiên cứu, 
biến nó thành một bộ phận hợp thành 
quan trọng của cơ sở dữ liệu mang đặc sắc 
th− viện mình (20). Nh−ng hành vi 
download là hành vi phục chế, ch−a đ−ợc 
phép của ng−ời giữ bản quyền, bất kỳ ai, 
bất kỳ cơ quan nào cũng không đ−ợc tự ý 
phục chế. Đồng thời, dù khống chế những 
thông tin download này để chỉ sử dụng 
trong phạm vi mạng cục bộ của th− viện 
hay của tr−ờng cũng không phù hợp với 
những điều kiện cần thiết để cấu thành 
việc “sử dụng hợp lý”. Điều 21 Điều lệ thực 
thi Luật về quyền tr−ớc tác của Trung 
Quốc quy định: “Chiểu theo những quy 
định hữu quan của Luật về quyền tr−ớc 
tác, việc sử dụng các tác phẩm đã công bố 
và có thể không cần đ−ợc ng−ời giữ quyền 
tr−ớc tác cho phép không đ−ợc ảnh h−ởng 
đến việc sử dụng bình th−ờng các tác 
phẩm này, cũng không đ−ợc làm tổn hại 
một cách không hợp lý tới lợi ích hợp pháp 
của ng−ời giữ quyền tr−ớc tác”. Nếu chế 
tác các tác phẩm download thành xuất 
bản phẩm điện tử hay ấn phẩm rồi tung ra 
thị tr−ờng thì đó rõ rành là hành vi xâm 
phạm quyền, đồng thời với việc xâm phạm 
quyền phục chế của ng−ời giữ bản quyền, 
việc đó còn xâm phạm quyền phát hành 
Vấn đề bản quyền... 
51 
của ng−ời giữ bản quyền. Do vậy, ch−a 
đ−ợc ng−ời giữ bản quyền cho phép, DL 
không đ−ợc download thông tin trên mạng 
vào máy phục vụ của th− viện mình, càng 
không thể tiến hành khai thác thành xuất 
bản phẩm. Do chi phí cho việc xin cấp 
phép hiện nay khá cao, trong thực tế, việc 
download thông tin trên mạng không nhiều 
khả năng trở thành ph−ơng thức chủ yếu 
để xây dựng nguồn l−u trữ thực của DL. 
 Tài liệu tham khảo 
1. Li Xiaohong. Bảo hộ quyền tr−ớc tác 
trong môi tr−ờng mạng, Công nghệ 
thông tin th− viện hiện đại, 1999 (4) 
2. Yang Haiping. Nghiên cứu về E-
BOOK, Tạp chí Th− viện học Trung 
Quốc, 2001 (4) 
3. Wang Wenhua. Th− viện số và vấn đề 
bảo hộ bản quyền, Công nghệ thông tin 
th− viện hiện đại, 2000 (3). 
4.  
5. Zhang Dongmei. Tiêu chuẩn nhà 
n−ớc có tính khuyến nghị, có bỏ ra 
lao động mang tính sáng tạo cần 
đ−ợc Luật về quyền tr−ớc tác bảo hộ, 
Báo Quyền sở hữu tri thức Trung 
Quốc, 25/ 12/ 2003 (4) 
6. Cục Bản quyền Nhà n−ớc. Phúc đáp 
Toà án Nhân dân Tối cao về tranh 
chấp quyền tr−ớc tác tiêu chuẩn. 
7. Bản sửa đổi Luật về quyền tr−ớc tác 
của Hàn Quốc có hiệu lực. Quyền tr−ớc 
tác, 2001 (2) 
8. Thành lập Liên minh Bảo hộ bản 
quyền số và sách điện tử Trung Quốc. 
tai/a2.htm 
9. Tập đoàn xuất bản Liaoning tung ra 
“cuốn sách điện tử khái niệm” đầu tiên 
của Trung Quốc. 
10. Thị tr−ờng sách Trung văn rộng lớn 
2 bờ eo biển Đài Loan. 
b4.htm 
11. Wang Jing. Về sự phát triển của công 
tác nghe nhìn tại th− viện các tr−ờng 
cao đẳng. Tạp chí Th− viện, 2000 (6) 
12. Zhang Yongsu. Nhà thông tin điện tử ở 
nông thôn. Tạp chí Th− viện, 2002 (1) 
13. Wei Zhi. Đánh giá “Chỉ thị về quyền 
cho thuê của Cộng đồng châu Âu”, 
Luật học hiện đại, 1999 (5) 
14. Li Guoxin. Nghiên cứu hệ thống pháp 
luật th− viện Nhật Bản. Bắc Kinh, 
Nxb Th− viện Bắc Kinh, 2000 
15. Sun Bingliang. Những hiểu biết về th− 
viện Tây Âu, Tạp chí Th− viện, 1995 (1) 
16. Vụ án đặc biệt lớn về quyền tr−ớc tác: 
tuyên bồi th−ờng 530.000. 
03052301.asp 
17. Guan Jisuo. Về việc tạo nguồn trong 
thời kỳ quá độ từ th− viện truyền 
thống sang th− viện số. Tạp chí Th− 
viện học Trung Quốc, 2001 (2) 
18. He Lingyong, Xiao Zili. Từ xây dựng 
nguồn t− liệu đến tích luỹ thông tin tri 
thức. Công tác thông tin t− liệu, 2000 
(4) 
19. Luo Zichu. ý nghĩa, nội dung và 
ph−ơng thức tham gia phát triển thị 
tr−ờng xuất bản phẩm điện tử bởi các 
cơ quan thông tin th− viện Trung 
Quốc, Tạp chí Th− viện học Trung 
Quốc, 2002 (3). 
20. Zhou Yonghong, Chen Nenghua. Phân 
tích hiện trạng việc cùng xây dựng, 
cùng chia sẻ nguồn thông tin trong các 
tr−ờng cao đẳng Trung Quốc, Tạp chí 
Th− viện học Trung Quốc, 2004 (1). 

File đính kèm:

  • pdfphan_tich_van_de_ban_quyen_trong_viec_xay_dung_cac_nguon_tho.pdf