Quan hệ Trung - Mỹ từ năm 1949 đến nay

Tóm tắt Quan hệ Trung - Mỹ từ năm 1949 đến nay: ...bình thường hóa quan hệ khi mở sứ quán tại thủ đô của mỗi nước vào tháng 1 năm 1979. Đây là một trong những sự kiện có ảnh hưởng to lớn tới hai nước Trung - Mỹ và cả thế giới. Như vậy, từ vị thế chủ động trong chính sách với Trung Quốc từ năm 1949, đến thời điểm này, vì lợi ích quốc gia ...ỹ. Kể từ sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc luôn đặc biệt coi trọng quan hệ với Mỹ, coi Mỹ là đối tượng chính và đối tác quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, dành vị trí ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ này. Tuy nhiên, trong bối cảnh bị bao vây, cấm vận bởi Mỹ và Phương Tây, T...rung tâm.” Trong khi sức mạnh của Mỹ và các nước Liên minh Châu Âu (EU) suy giảm tương đối thì các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ lại trỗi dậy mạnh mẽ, kéo theo quá trình chuyển dịch mạnh, trước tiên là sức mạnh kinh tế, từ Tây sang Đông, trong đó khu vực Châu Á - Thái Bìn...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Quan hệ Trung - Mỹ từ năm 1949 đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quốc tế được thừa nhận; 
quan hệ của Trung Quốc với các nước trên 
thế giới được mở rộng. Đó là tiền đề cho 
công cuộc cải cách, mở cửa. Có thể coi Mỹ 
là một “đột phá khẩu” cho chiến lược 
hướng ra bên ngoài của Trung Quốc giai 
đoạn này, tuy việc bình thường hóa quan hệ 
với Mỹ đã khiến quan hệ của Trung Quốc 
với một số nước xã hội chủ nghĩa ngày 
càng xấu đi. Về ý thức hệ, Trung Quốc vẫn 
coi Mỹ đứng ở bên kia chiến tuyến, nhưng 
về kinh nghiệm phát triển và quản lý, Mỹ 
đã trở thành một “đối tác” cần thiết, có vai 
trò nền tảng cho sự phát triển trong các giai 
đoạn sau của Trung Quốc. 
1.3. Giai đoạn 1980 - 1990 
Đặc điểm của quan hệ Trung - Mỹ thời 
kỳ này là sự thực dụng, lợi dụng lẫn nhau, 
tập hợp lực lượng để tạo lợi thế so sánh 
trong quan hệ với Liên Xô do cả hai nước 
(2) Xem Paul Kennedy (2010), The Rise and Fall of the 
Great Powers: Economic Change and Military Conflict 
from 1500 to 2000, Random House, New York. 
(3) Sở Thụ Long và Kim Uy (Chủ biên) (2013), 
Chiến lược và chính sách ngoại giao của Trung 
Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 88. 
Quan hệ Trung - Mỹ từ năm 1949 đến nay 
 77 
đều có chung một “kẻ thù” là Liên Xô. 
Nhìn chung, quan hệ Trung - Mỹ phát triển 
“tương đối ổn định,” thậm chí có cả hợp tác 
về quân sự(4). Tuy nhiên, vị thế của Trung 
Quốc trong chính sách của Mỹ đã giảm dần 
kể từ khi Gorbachev lên cầm quyền ở Liên 
Xô, quan hệ Mỹ - Xô có dấu hiệu hòa hoãn 
và cải thiện. Ngược lại, Trung Quốc thấy 
rằng, ở góc độ nào đó, quan hệ với Mỹ quá 
thân cũng không giúp Trung Quốc tạo được 
thế với Liên Xô mà còn làm cho uy tín của 
Trung Quốc với các nước thuộc thế giới thứ 
ba bị suy giảm nghiêm trọng. Cho dù Trung 
Quốc đã theo đuổi một chính sách thực 
dụng hơn nhưng trong bối cảnh quốc tế khi 
đó, Trung Quốc không thể từ bỏ phe xã hội 
chủ nghĩa để ngả hẳn về Mỹ được. Yếu tố ý 
thức hệ dù đã giảm dần trong chính sách 
đối ngoại của Trung Quốc nhưng không 
mất đi. Mỹ vẫn có một vị trí mang tính “đối 
tượng” trong chính sách của Trung Quốc. 
Kể từ năm 1979, vị trí của Mỹ trong 
chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã có 
những thay đổi. Khác với nền tảng lý thuyết 
về “chiến tranh và cách mạng” dưới thời 
Mao Trạch Đông, chiến lược của Trung 
Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình là “hòa 
bình và phát triển,” tập trung vào phát triển 
kinh tế cho Trung Quốc. Paul Kennedy 
cũng đánh giá “Trung Quốc dưới thời Đặng 
là một quốc gia căng ra để phát triển sức 
mạnh của nó (với tất cả các ý nghĩa của từ 
đó - sức mạnh) bằng mọi biện pháp thực 
dụng, cân bằng giữa mong muốn khuyến 
khích các doanh nghiệp sáng tạo và thay 
đổi với một quyết tâm ủng hộ sự quản lý 
của nhà nước trong việc chỉ đạo các sự kiện 
giúp các mục tiêu quốc gia đạt được như 
nhanh chóng và thuận lợi nhất có thể”(5). 
Mỹ lúc này không chỉ đóng vai trò là 
“cầu nối” đưa Trung Quốc ra với thế giới 
phương Tây, giúp Trung Quốc thiết lập 
quan hệ với các nước trên thế giới, nâng 
cao dần vị thế và hình ảnh của Trung Quốc, 
mà còn trở thành một “đối tác” tiềm năng 
cho sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. 
Yếu tố “đối tượng” của Mỹ không mất đi 
trong chính sách đối ngoại Trung Quốc mà 
chỉ mờ đi do tính mục đích trong chiến lược 
của Trung Quốc cần hợp tác và lợi dụng 
Mỹ trong giai đoạn này. Sau sự kiện Thiên 
An Môn năm 1989, quan hệ của Trung 
Quốc với phương Tây xấu đi nghiêm trọng. 
Mỹ và phương Tây đẩy mạnh các biện pháp 
trừng phạt, cấm vận mạnh mẽ với Trung 
Quốc; các hợp tác về kinh tế, chính trị, 
quân sự với Trung Quốc cũng bị đình chỉ. 
Vị trí của Trung Quốc trong chiến lược của 
Mỹ bị hạ thấp và Mỹ bắt đầu thực hiện 
chính sách “diễn biến hòa bình” đối với 
Trung Quốc(6). Thêm vào đó, sự kiện Liên 
Xô sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc cũng 
có ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ Mỹ - 
Trung giai đoạn này. Có thể thấy, vị trí của 
Mỹ trong chính sách đối ngoại Trung Quốc 
giai đoạn 1972 - 1991 thay đổi từ chủ động 
ngăn chặn, kiềm chế Trung Quốc sang hòa 
hoãn, thúc đẩy hợp tác rồi lại đẩy mạnh bao 
vây, cấm vận Trung Quốc. 
1.4. Giai đoạn 1991 - 2000 
Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung Quốc 
rơi vào tình trạng bị Mỹ và phương Tây tiến 
hành bao vây, cấm vận. Thời điểm này 
cũng chứng kiến sự khủng hoảng và sụp đổ 
của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Năm 1991, 
Bức tường Berlin sụp đổ, Liên Xô tan rã 
kéo theo sự kết thúc của trật tự thế giới hai 
cực tồn tại trong suốt thời kỳ chiến tranh 
lạnh. Lúc này Mỹ mặc nhiên trở thành siêu 
cường duy nhất, trật tự thế giới chuyển từ 
(4) Sđd, tr.92. 
(5) Paul Kennedy (2010), The Rise and Fall of the 
Great Powers: Economic Change and Military 
Conflict from 1500 to 2000, New York, Random 
House, tr.447. 
(6) Sở Thụ Long và Kim Uy (chủ biên) (2013), Chiến 
lược và chính sách ngoại giao của Trung Quốc, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.93. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 78 
“hai cực” sang “nhất siêu, đa cường” với ưu 
thế vượt trội của Mỹ trên tất cả các lĩnh vực 
kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao, văn 
hoá, khoa học - công nghệ... Ưu tiên hàng 
đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ là 
duy trì vị thế “lãnh đạo thế giới,” ngăn chặn 
bất cứ quốc gia nào có ý đồ vươn lên thách 
thức vai trò của Mỹ. Kể từ sau chiến tranh 
lạnh, Trung Quốc luôn đặc biệt coi trọng 
quan hệ với Mỹ, coi Mỹ là đối tượng chính 
và đối tác quan trọng trong chính sách đối 
ngoại của mình, dành vị trí ưu tiên hàng đầu 
cho mối quan hệ này. Tuy nhiên, trong bối 
cảnh bị bao vây, cấm vận bởi Mỹ và 
Phương Tây, Trung Quốc đã phải tiến hành 
triển khai chính sách “ngoại giao láng 
giềng,” mở rộng quan hệ với các nước trong 
khu vực để dần phá thế bao vây cấm vận. 
Dù phải đối phó với lệnh trừng phạt của Mỹ 
và phương Tây nhưng Trung Quốc đã khôn 
ngoan không thành lập một “mặt trận quốc 
tế thống nhất chống Mỹ” khiến cho quan hệ 
Trung - Mỹ dù sóng gió nhưng cũng không 
bị quay lại trạng thái đối đầu những năm 
trước khi bình thường hóa quan hệ.(7) Giai 
đoạn thế hệ lãnh đạo thứ ba có thể được coi 
là giai đoạn khó khăn nhất trong quan hệ 
Trung - Mỹ kể từ khi hai nước bình thường 
hoá quan hệ. Trung Quốc chủ trương không 
đẩy căng thẳng với Mỹ lên quá cao mà kiên 
trì thực hiện chính sách “giấu mình chờ 
thời,” tập trung vào xây dựng và củng cố 
nội lực của đất nước. 
Đối với Trung Quốc, trong những năm 
1990, Mỹ là siêu cường duy nhất, là trọng 
tâm của chính sách đối ngoại Trung Quốc 
nên Trung Quốc không chủ trương trực tiếp 
đối đầu. Đối với Mỹ, do sự phát triển vượt 
bậc của Trung Quốc trong những năm kể từ 
sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ cũng 
không thể coi nhẹ vai trò của nước này 
trong chiến lược của mình. Joseph Nye 
từng nhận định “nếu Mỹ coi Trung Quốc là 
kẻ thù thì Trung Quốc sẽ trở thành kẻ thù 
của Mỹ trong tương lai. Nếu Mỹ coi Trung 
Quốc là bạn bè, cho dù không thể bảo đảm 
được một tình hữu nghị thì Mỹ cũng có thể 
mở ra cơ hội về những kết quả tốt đẹp 
hơn”(8). Trên tinh thần này, năm 1997, 
Giang Trạch Dân thăm Mỹ và năm 1998, 
Bill Clinton thăm Trung Quốc giúp cho 
quan hệ giữa hai nước dần được khôi phục, 
tăng cường hợp tác. Trung Quốc phát triển 
về kinh tế sẽ là một thị trường rộng lớn về 
đầu tư và xuất khẩu của Mỹ. 
1.5. Giai đoạn 2001 - 2012 
Bước sang thế kỷ XXI, đặc biệt kể từ sau 
“Sự kiện 11 tháng 9”, chiến lược toàn cầu 
của Mỹ buộc phải có sự thay đổi, Mỹ phải 
tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố. 
Trung Quốc ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến 
chống khủng bố nhưng cũng có giới hạn do 
Trung Quốc lo ngại việc Mỹ có thể tăng 
cường sự hiện diện ở Trung Á và Đông 
Nam Á, đặc biệt là hiện diện về quân sự. 
Tại Trung Quốc, thế hệ lãnh đạo thứ ba dần 
lui vào hậu trường nhường chỗ cho thế hệ 
thứ tư của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. 
Lúc này, Trung Quốc duy trì chiến lược 
tăng cường hợp tác, tranh thủ và tránh đối 
đầu với Mỹ vì thời kỳ này được đánh giá là 
có lợi cho Trung Quốc. 
Hồ Cẩm Đào chủ trương tận dụng cơ hội 
Mỹ đang vướng vào cuộc chiến chống 
khủng bố và sa lầy tại Iraq và Afghanistan 
để Trung Quốc vươn lên, trở thành một 
cường quốc toàn cầu dưới tên gọi “trỗi dậy 
hòa bình”. Năm 2001, Trung Quốc gia nhập 
Tổ chức Thương mại Thế giới và trong 
nhiệm kỳ của Hồ Cẩm Đào, tỷ lệ tăng 
trưởng kinh tế của Trung Quốc luôn ở mức 
cao, bình quân 13 - 14%/năm giai đoạn 
2003 - 2007, thu nhập bình quân đầu người 
(7) Sđd, tr.94. 
(8) Joseph Nye (2011), Should China be contained?, 
The Project Syndicate, truy cập ngày 20/4/2014 tại 
china-be--contained--. 
Quan hệ Trung - Mỹ từ năm 1949 đến nay 
 79 
của Trung Quốc cũng không ngừng tăng 
lên, Trung Quốc trở thành một quốc gia có 
thu nhập trung bình(9). Dựa trên tiềm lực 
kinh tế, Trung Quốc không ngừng tăng 
cường hiện đại hóa quân đội với ngân sách 
cho quốc phòng chỉ xếp sau Mỹ(10). Điều đó 
cho thấy, thời kỳ này được coi là thời cơ 
chiến lược cho Trung Quốc vươn lên mạnh 
mẽ và Trung Quốc đã tận dụng rất tốt quan 
hệ với Mỹ, trở thành người ủng hộ của Mỹ 
trong cuộc chiến chống khủng bố, trở thành 
đối tác thương mại lớn thứ hai của Mỹ. Có 
thể nói, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế 
giữa Mỹ và Trung Quốc kể từ sau chiến 
tranh lạnh đã tăng lên rất nhiều, đặc biệt từ 
những năm đầu thế kỷ XXI. Sự phụ thuộc 
lẫn nhau về kinh tế sẽ dẫn đến sự phụ thuộc 
lẫn nhau trên các lĩnh vực khác như chính 
trị, ngoại giao...; điều đó khiến Mỹ và Trung 
Quốc luôn là các đối tượng, đối tác hàng 
đầu trong chính sách đối ngoại của nhau. 
Nhìn chung, từ trong lịch sử, đặc biệt từ 
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc cho đến nay, 
quan hệ với Mỹ luôn đóng vai trò quan 
trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại 
của Trung Quốc. Mỹ luôn là một đối tượng 
của ngoại giao Trung Quốc nhưng khía 
cạnh hợp tác với Mỹ cũng tăng dần qua 
từng thời kỳ. Gần đây, trước sự “trỗi dậy” 
mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ nhận thấy 
không thể thi hành một chính sách kiềm chế 
Trung Quốc như trong thời kỳ đầu của 
Chiến tranh Lạnh mà phải tăng cường can 
dự với Trung Quốc nhiều hơn nữa, gắn 
Trung Quốc chặt hơn vào trật tự thế giới do 
Mỹ chi phối. Tom Donilon, cựu Cố vấn An 
ninh Quốc gia của Tổng thống Obama cho 
rằng, quan hệ Mỹ - Trung “tồn tại cả mặt 
hợp tác lẫn cạnh tranh”, còn cựu Thứ 
trưởng Ngoại giao Mỹ Robert B. Zoellick 
thì đưa ra quan điểm Mỹ sẽ chấp nhận sự 
trỗi dậy của Trung Quốc với tư cách một 
“cổ đông có trách nhiệm”(11). Vì vậy có thể 
thấy, Mỹ vừa là “đối tác” quan trọng cho sự 
phát triển của Trung Quốc nhưng ngược lại, 
yếu tố “đối thủ” của Mỹ chưa bao giờ mất 
đi mà nó thay đổi về hình thức tuỳ thuộc 
vào bối cảnh và tình hình thế giới trong thời 
gian qua.(9) 
1.6. Giai đoạn từ năm 2012 đến nay 
Trong những năm đầu tiên của thập kỷ 
thứ hai thế kỷ XXI, tình hình thế giới một 
mặt vừa hàm chứa các yếu tố phản ánh 
những xu thế vận động lớn của cục diện thế 
giới, mặt khác cũng nổi lên nhiều vấn đề 
lớn, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường, thậm 
chí mang tính đột biến tại một số khu vực 
như Bắc Phi - Trung Đông hay Ukraine/ 
Crimea. Thế giới tiếp tục vận động hướng 
tới cục diện “đa cực,” “đa trung tâm.” 
Trong khi sức mạnh của Mỹ và các nước 
Liên minh Châu Âu (EU) suy giảm tương 
đối thì các nền kinh tế mới nổi như Trung 
Quốc và Ấn Độ lại trỗi dậy mạnh mẽ, kéo 
theo quá trình chuyển dịch mạnh, trước tiên 
là sức mạnh kinh tế, từ Tây sang Đông, 
trong đó khu vực Châu Á - Thái Bình 
Dương được dự báo sẽ là trung tâm quyền 
lực mới của thế giới trong thế kỷ XXI. 
Tại Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đẩy 
mạnh chính sách “tái cân bằng”, chuyển 
dần nguồn lực về khu vực, làm mới lại các 
quan hệ đồng minh truyền thống, mở rộng 
quan hệ với các đối tác mới. Trung Quốc 
đang theo đuổi một chính sách khẳng định 
vị thế cường quốc khu vực của mình nhằm 
bảo đảm mọi lợi ích cốt lõi, duy trì khu vực 
ảnh hưởng. Tập Cận Bình khi lên nắm 
(9) Tom Orlik (2012), Charting China’s Economy: 10 
Years Under Hu, Wall Street Journal, truy cập ngày 
20 tháng 4 năm 2014 tại  
chinarealtime/2012/11/16/charting-chinas-economy-
10-years-under-hu-jintao/. 
(10) Stockholm International Peace Research Institute, 
SIPRI Military Expenditure Database, truy cập ngày 
20 tháng 4 năm 2014 tại  
files/?file=SIPRI+milex+data+1988-2012+v2.xlsx. 
(11) Joseph Nye: Work With China, Don’t Contain It, 
The New York Times, truy cập ngày 22 tháng 4 năm 
2014 tại  
work-with-china-dont-contain-it.html?_r=0. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 80 
quyền tiếp tục duy trì tư tưởng phát triển 
Trung Quốc của những người tiền nhiệm 
nhưng cũng đã đưa ra “Giấc mộng Trung 
Hoa” hay “Giấc mơ Trung Quốc” với mục 
tiêu về “sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc 
Trung Hoa”(12) dựa trên 2 trụ cột chính là: 
(1) Sức mạnh kinh tế và (2) Vị thế quốc 
tế(13). Trung Quốc đã và đang thực thi một 
chính sách cứng rắn tại Biển Đông và Biển 
Hoa Đông với Nhật Bản, Philippines, Việt 
Nam và các nước có yêu sách về chủ quyền 
trong khi không ngừng tìm cách gia tăng 
ảnh hưởng tại Lào, Campuchia, Myanmar 
và một số nước Nam Á. Bên cạnh đó, Tập 
Cận Bình tiếp tục duy trì chính sách “thiết 
lập một quan hệ kiểu mới dựa trên sự ổn 
định lâu dài và phát triển vững chắc với các 
nước lớn khác”(14). 
Từ những tuyên bố về một “Giấc mơ 
Trung Quốc” của Tập Cận Bình có thể thấy 
về đối ngoại, Trung Quốc sẽ tập trung: (1) 
Duy trì ổn định hòa bình, phát triển kinh tế 
nhằm vươn lên vượt Mỹ trở thành kinh tế 
lớn nhất thế giới; (2) Hiện thực hoá mục 
tiêu trở thành một cường quốc đại dương; 
(3) Đầu tư hiện đại hoá quân đội, đặc biệt là 
hải quân và không quân nhằm bảo vệ các 
lợi ích cốt lõi của Trung Quốc; và (4) Vươn 
lên trở thành cường quốc toàn cầu, có vai 
trò chủ chốt trong hệ thống quốc tế. Để 
hiện thực hoá “Giấc mơ” của mình, Trung 
Quốc sẽ tiếp tục định vị Mỹ có vai trò 
quan trọng hàng đầu trong chính sách đối 
ngoại trên cả hai mặt “đối tác” và “đối 
tượng” vì mối quan hệ này không chỉ ảnh 
hưởng đến sự phát triển của Trung Quốc 
mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống 
quan hệ quốc tế hiện nay và trong thời gian 
tới. Đặc biệt, Mỹ trực tiếp ảnh hưởng tới 
vai trò và vị thế của Trung Quốc trong nền 
chính trị thế giới. 
2. Đặc điểm chung trong quan hệ 
Trung - Mỹ từ 1949 đến nay 
Quan hệ Trung - Mỹ luôn diễn biến phức 
tạp với các lợi ích đan xen chồng chéo, các 
nhân tố tác động tới mối quan hệ cũng 
mang tính phức tạp và luôn biến động 
không ngừng. Đặc biệt, quan hệ Trung - Mỹ 
vẫn nằm trong xu thế chung trong quan hệ 
giữa các nước lớn, trong đó các nước tìm 
kiếm sự tập hợp lực lượng với các nước lớn 
khác song không hình thành liên minh rõ 
rệt. Do đó, quan hệ Trung - Mỹ về cơ bản 
vẫn tiếp tục xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh 
tranh. Đánh giá chung quan hệ Trung - Mỹ 
có một số đặc điểm chính như sau: 
Thứ nhất, quan hệ Trung - Mỹ luôn phản 
ánh đầy đủ hai mặt “hợp tác” và “cạnh 
tranh” lẫn nhau trong đó “cạnh tranh” là đặc 
điểm xuyên suốt từ năm 1949 đến nay. Yếu 
tố hợp tác chỉ bắt đầu xuất hiện từ khi quan 
hệ Trung - Xô bị chia rẽ, khi cả Trung Quốc 
và Mỹ đều xác định chung một “kẻ thù” là 
Liên Xô. Nhìn chung, trong chiều dài quan 
hệ hai nước, có lúc mặt hợp tác là nổi trội, 
có lúc đấu tranh là nổi trội. Tuy nhiên, yếu 
tố “đấu tranh” cũng thay đổi tuỳ theo nội 
hàm chính sách đối ngoại Trung Quốc khi 
xác định Mỹ là “kẻ thù” hay là “đối thủ.”(12) 
Thứ hai, “hợp tác” và “cạnh tranh” 
Trung - Mỹ chịu tác động của các nhân tố 
“điểm” và “diện”. Trung Quốc có thể xác 
định Mỹ là đối thủ trong lĩnh vực này 
nhưng lại là đối tác trong lĩnh vực khác và 
các yếu tố này biến đổi theo từng giai đoạn 
(trước và sau khi bình thường hóa quan hệ, 
trước và sau cuộc chiến chống khủng bố...), 
(12) Xem thêm Robert Lawrence Kuhn, Xi Jinping’s 
Chinese Dream, truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014 
tại  
global/xi-jinpings-chinese-dream.html?pagewanted 
=all202.html. 
(13) Wikileak, Look At The Next 30 Years Of The 
U.S.-China Relation, truy cập ngày 25 tháng 4 năm 
2014 tại https://www.wikileaks.org/plusd/cables/ 
09BEIJING22_a.html.a 
(14) Taylor Fravel, Foreign Policy Under Xi Jinping, 
The Diplomat, truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2014 
tại 
under-xi-jinping/. 
Quan hệ Trung - Mỹ từ năm 1949 đến nay 
 81 
theo từng lĩnh vực (quân sự, dân chủ - nhân 
quyền, văn hoá, kinh tế), theo vấn đề cụ thể 
(Biển Đông, Ukraine/Crimea, Bắc Phi - 
Trung Đông hay vấn đề Đài Loan, Triều 
Tiên, Iran...) và ở cấp độ toàn cầu, khu vực 
hay song phương (hợp tác toàn cầu trong 
cuộc chiến chống khủng bố, chống phổ biến 
vũ khí hạt nhân, chống biến đổi khí hậu..., 
đấu tranh ở cấp độ khu vực trong vấn đề, 
vừa hợp tác vừa cạnh tranh lẫn nhau về 
kinh tế - thương mại...). 
Thứ ba, Mỹ luôn là nhân tố hàng đầu 
trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, 
thậm chí là nhân tố quan trọng nhất kể từ 
khi Liên Xô sụp đổ đến nay. Có thể coi 
quan hệ với Mỹ là trục chính, xuyên suốt 
trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc 
để từ đó hoạch định chính sách với các đối 
tượng khác, ảnh hưởng đến cách hành xử 
của Trung Quốc ở các cấp độ toàn cầu và 
khu vực vì lợi ích quốc gia mà Trung Quốc 
theo đuổi và bảo vệ. Trung Quốc hoạch 
định chính sách để cạnh tranh ảnh hưởng 
với Mỹ, nâng cao vai trò của Trung Quốc, 
mong muốn thiết lập một trật tự thế giới có 
lợi nhất cho Trung Quốc nhưng Trung 
Quốc cũng cần Mỹ như là một đối tác phát 
triển không thể thiếu. 
Thứ tư, luôn tồn tại sự thiếu tin tưởng 
lẫn nhau trong quan hệ Trung - Mỹ do đặc 
điểm của cạnh tranh chiến lược giữa hai 
nước lớn. Bên cạnh các nhân tố lợi ích quốc 
gia, vị thế và ảnh hưởng trên trường quốc tế 
thì yếu tố ý thức hệ vẫn là một nhân tố 
không thể không kể đến dù nó rất mờ nhạt 
trước nhân tố lợi ích quốc gia. Mỹ tấn công 
mạnh Trung Quốc trong các lĩnh vực dân 
chủ - nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do 
thông tin và ngược lại Trung Quốc cũng 
không hài lòng với trật tự thế giới do Mỹ 
lãnh đạo hiện nay, cho rằng đó là một trật 
tự thiếu công bằng. Chính vì vậy, trong 
chính sách đối ngoại của mình, Trung Quốc 
sẽ không bao giờ có thể bỏ yếu tố “cạnh 
tranh” với Mỹ và Mỹ sẽ luôn có vị trí là 
một “đối thủ” mà Trung Quốc hướng tới 
vượt qua. 
Tài liệu tham khảo 
1. Phạm Bình Minh (chủ biên) (2010), Cục diện 
thế giới đến 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2. Nguyễn Thái Yên Hương (chủ biên) (2011), 
Quan hệ Mỹ - Trung: Hợp tác và cạnh tranh dưới 
góc độ cân bằng quyền lực, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
3. Viện Nghiên cứu các vấn đề quốc tế, Bộ 
Ngoại giao Trung Quốc (2013), Cục diện thế giới 
mới và ngoại giao Trung Quốc (sách xanh), Nxb Tri 
thức Thế giới, Bắc Kinh, (tiếng Trung). 
4. Khúc Tinh (2013), Xu hướng động thái an 
ninh quốc tế và ứng phó của ngoại giao Trung Quốc, 
Nxb Tri thức thế giới, Bắc Kinh, (tiếng Trung). 
5. Cừu Hoa Phi (2013), Ngoại giao Trung Quốc 
đương đại và quan hệ quốc tế, Nxb Thời sự, Bắc 
Kinh, (tiếng Trung). 
6. Tần Á Thanh (2011), Quan hệ nước lớn và 
ngoại giao Trung Quốc, Nxb Tri thức thế giới, Bắc 
Kinh, (tiếng Trung). 
7. Michael Yahuda (2011), The International 
Politics of the Asia Pacific (third and revised 
edition), Routledge, New York. 
8. Kenneth Rapoza (2013), “Within Four Years, 
China To Consume More Oil Than U.S.,” Forbes, 
truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2014 tại 
ithin-four-years-china-to-consume-more-oil-than-u-s/. 
9. Joseph Nye (2013), “Work With China, 
Don’t Contain It,” The New York Times, truy cập 
ngày 22 tháng 4 năm 2014 tại  
2013/01/26/opinion/work-with-china-dont-contain-
it.html?_r=0. 
10. Mohan Malik (2012), “The Pivot in US-
China Relations,” truy cập ngày 12 tháng 4 năm 
2014 tại  
the-pivot-in-us-china-relations/. 
11. Andrew J. Nathan and Robert S. Ross (1997), 
The Great Wall and the Empty Fortress: China’s 
Search for Security, New York: W.W. Norton. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 82 

File đính kèm:

  • pdfquan_he_trung_my_tu_nam_1949_den_nay.pdf