Solutions for the stabilization of lagoonal inlets in the coastal zone of Central Vietnam
Tóm tắt Solutions for the stabilization of lagoonal inlets in the coastal zone of Central Vietnam: ...(đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, Thừa Thiên-Huế). Cửa dài 600 m, rộng 350 m, sâu 2–11 m; nằm giữa hai hệ cồn cát, luồng ép dần về phía tây bắc. Cửa chưa lần nào bị lấp hẳn nhưng thường dịch chuyển đột ngột vị trí theo chu kỳ dài trên đoạn bờ dài 7 km [3]. Cửa hiện ổn định nhờ công trình chỉnh...00 ch/500 cv. Nạo vét định kỳ luồng cửa kết hợp quản lý lưu vực. 12 An Hải Ô Loan, Tuy An, Phú Yên Xây kè mỏ chắn cát hai phía cửa An, kết hợp khu neo trú cấp địa phương và bảo vệ danh thắng. 13 Thủy Triều Thủy Triều, Cam Ranh, Khánh Hòa Nạo vét luồng cửa, kè bờ chống cát trà...à lưu ý bảo tồn đa dạng sinh học. Ưu tiên nạo vét đáy các đầm Lăng Cô, An Khê, Ô Loan và Thủy Triều; Kết hợp nạo vét đáy đầm với nạo vét luồng tàu và cầu tầu tại các đầm phá có cảng biển Tam Giang-Cầu Hai, Trường Giang và Thị Nại; Kết hợp với nạo vét đáy đầm cho mục đích luồng, bến và kh...
g; nạo vét khôi phục một số khu vực đáy đầm. 14 Ninh Chữ Nại, Ninh Hải, Ninh Thuận Nâng cấp khu neo trú cho tàu đến 1.000 cv. Kéo dài kè hai phía đến độ sâu 6,5 m, bảo vệ bờ biển, tạo dòng thoát lũ, nạo vét đáy đầm. Cải tạo mương kênh ven đầm. Xây kè chỉnh trị luồng cửa Giải pháp phải đảm bảo được ít nhất 3 mục đích: Chắn cát, thoát lũ và trao đổi nước giữa đầm phá với biển, áp dụng cho 8 cửa: Thuận An và Tư Hiền (Tam Giang-Cầu Hai), cửa đầm An Khê, cửa Sa Huỳnh (Nước Mặn), cửa Hà Ra (Trà Ổ), cửa Đề Gi (Nước Ngọt), cửa An Hải (Ô Loan), cửa Ninh Chữ (Nại). Lựa chọn vị trí: Luôn đặt vị trí kè ngăn cát tại nơi luồng trực diện và ngắn nhất nối đầm phá với biển. Nếu các cửa Tư Hiền (Cầu Hai) đặt ở vị trí Lộc Thủy, cửa đầm Ô Loan đặt ở vị trí Lễ Thịnh, hay cửa đầm Trà Ổ đặt ở làng Phú Thứ, thì nước từ đầm phá chảy ra biển phải qua một kênh hẹp chạy vòng nhiều km, tốc dòng chảy giảm, sa bồi tăng, nên khả năng cửa bị sa bồi rất cao; khi gặp lũ lớn, dòng lũ sẽ phá mở cồn cát tại Vinh Hiền (Tư Hiền), Hà Ra (Trà Ổ) hay An Hải (Ô Loan) và kè ở vị trí chỉnh trị sẽ bị vô hiệu hóa. Xác định tuyến kè chắn cát: Thực tế cho thấy, tất cả các kè chắn cát một phía và phía kia lợi dụng mũi nhô đá gốc (hình 5) đều không hiệu quả, thậm chí còn sa bồi hơn trước, như ở các cửa Sa Huỳnh, Tam Quan và Đề Gi [14]. Các mũi nhô có vai trò nhất định cản dòng bồi tích dọc bờ từ phía bắc xuống, nhưng khi đã có kè ở phía nam cửa, vai trò ấy không còn mấy giá trị. Kè phía nam trở thành bẫy tích tụ cát cho dòng dọc bờ từ cả hai phía theo hai mùa gió. Do tốc độ dòng lũ ra giảm mạnh, đồng thời vẫn chịu di chuyển ngang của bùn cát từ ngoài biển vào theo một số hướng sóng thích hợp trong năm, khu luồng mới chỉnh trị trở thành Các giải pháp ổn định cửa đầm phá ven biển 9 túi bẫy hứng bồi tích và càng bị sa bồi nặng nề hơn trước. Ngoài ra, độ sâu mũi kè thường chỉ đến độ sâu 3–4 m, nằm trong phạm vi hoạt động mạnh của đới sóng đổ nhào, bồi tích chưa được phân tán ra xa khỏi vùng cửa, như trường hợp cửa Ninh Chữ (hình 6), dù đã có kè kép ở cả hai phía luồng. Để đảm bảo tàu có công suất 1.000 cv có thể vào khu neo đậu Ninh Chữ thì cần thiết phải nạo vét duy trì độ sâu đáy luồng là 4,4 m. Theo kết quả tính toán của chúng tôi, với độ cao sóng lựa chọn 4–5 m có suất đảm bảo 11,3%, ứng với độ sâu sóng đổ lần cuối (H = 1,45 h) 5,8–7,25 m, trung bình 6,5 m. Độ sâu này cách mũi kè hiện tại khoảng 900–1.000 m. Hình 5. Kè chắn cát phía Nam cửa Đề Gi Hình 6. Kè chắn cát hai bên cửa Ninh Chữ Để phù hợp với đặc điểm động lực hình thái và xu thế biến động cửa, khi xây kè chắn cát, cần phải lưu ý các điểm sau: 1- Phải xây kè chắn cát ở cả hai phía để ổn định cửa (hình 6); 2- Độ sâu mũi kè thích hợp bằng khoảng 1,5 lần độ cao sóng thiết kế; 3- Tùy theo khu vực và cấp độ công trình cụ thể, sóng thiết kế có độ cao 4–5,5 m có suất đảm bảo 10–13% theo hoàn kỳ 100 năm3; 4- Tương ứng, độ sâu mũi kè phù hợp khoảng 6–8 m để hạn chế cơ bản sa bồi mũi luồng, nạo vét định kỳ là cần thiết và có tính hỗ trợ; 5- Khi mũi kè vượt độ sâu 8 m, sa bồi sẽ giảm nhiều, nhưng chi phí lớn, với độ sâu nhỏ hơn 6 m, khả năng sa bồi cao và phải nạo vét định kỳ. Đánh giá dự báo vai trò của các tuyến kè chắn cát ở khu vực cửa Ninh Chữ (Đầm Nại) cho thấy khi kéo dài thêm mỗi bên 165 m so với hiện tại, thì trao đổi nước giữa đầm và biển thay đổi hầu như không đáng kể. Tuy nhiên một tác động tích cực khác là làm giảm nhẹ dòng bùn cát từ biển vào đầm Nại trong điều kiện bình thường và tăng dòng bùn cát khi có lũ từ đầm ra phía ngoài. Đặc biệt ở khu vực kênh dẫn vào đầm Nại (lạch Tri Thủy), khi các tuyến kè biển kéo dài thêm, dòng bùn cát dọc bờ đi vào cửa đầm gây bồi lấp sẽ giảm đáng kể: Từ 637,3 m 3 /ngày xuống còn 376,4 m3/ngày (giảm 40,9%). Khi có lũ, dòng bùn cát sau khi kéo dài kè cũng giảm mạnh từ 534,6 m3/ngày xuống còn 272,2 m 3 /ngày (giảm 49,1%). Như vậy, việc kéo dài các tuyến kè biển không làm thay đổi nhiều động thái di chuyển của dòng bùn cát phía trong đầm Nại, nhưng làm giảm đáng kể dòng bùn cát từ biển gây bồi lấp cửa đầm, qua đó làm tăng khả năng trao đổi nước, hạn chế bồi lắng ở khu vực cửa và đáy đầm [9]. Xác định khả năng thoát lũ và trao đổi nước qua cửa: Để đảm bảo an toàn cho tàu thuyền ra vào cảng, bến cá và neo trú tránh bão, việc thiết kế kè và luồng phải tuân theo quy trình của Bộ Giao thông Vận tải4. Tuy nhiên, việc ổn định cửa và tạo luồng tầu cần phải hài hòa với các lợi ích khác như đảm bảo trao đổi nước để duy trì, phục hồi hệ sinh thái và thoát lũ. Kè ngăn cát hai phía luồng càng kéo dài, khả năng trao đổi nước và thoát lũ càng kém, vì 3Nghiên cứu thiết lập các luận cứ khoa học làm cơ sở ban đầu cho việc cải tạo cửa Đề Gi. Đề tài cấp tỉnh Bình Định (Trương Đình Hiển và nnk., 2002). 4Quy trình thiết kế kênh biển do Bộ GTVT ban hành kèm theo quyết định số 115-QĐ/KT4 ngày 12/1/1976. Trần Đức Thạnh, Vũ Duy Vĩnh 10 vậy nạo vét bổ sung định kỳ là một giải pháp cân bằng và hài hòa các lợi ích ổn định cửa. Để đảm bảo trao đổi nước, ổn định sinh thái và giảm thiểu ô nhiễm, hệ số trao đổi nước F (số ngày cần để thay đổi hoàn toàn nước đầm phá) không vượt quá 25% sau khi xây dựng kè. Đầm Thị Nại hiện tại có hệ số F từ 2 (mùa khô) đến 2,9 (mùa mưa), không nên quá 2,5 vào mùa mưa và 3,6 vào mùa khô. Đầm Nại hiện có hệ số F từ 2,5 (mùa khô) đến 2,7 (mùa mưa), không nên quá 3,1 vào mùa khô và không quá 3,4 vào mùa mưa. Để tính khả năng thoát lũ, cần xác định vai trò phân lũ của cửa trong tổng thể khu vực mà thiết kế lưu lượng thoát lũ, ví dụ với đầm Nại lưu lượng thiết kế Q10% = 1.000 m 3 /s [15]. Các cửa đầm phá có vai trò quan trọng cho thoát lũ [11], cần phải tính đến khi thiết kế kè chắn cát, ví dụ, lưu lượng thoát lũ Q5% đã được đề xuất cho kè kép chắn cát cửa Tam Quan 5 . Nạo vét luồng lạch và đáy đầm phá Nạo vét luồng cửa kết hợp với phòng chống xói lở bờ biển áp dụng cho 6 cửa: Cửa đầm Lăng Cô, các cửa Tam Hải và An Hòa (Trường Giang), Thị Nại, Cù Mông và Thủy Triều. Do những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, thực tế các cửa này chưa bao giờ bị bồi lấp hẳn và thường có độ sâu ổn định, một số cửa có độ sâu lớn. Cũng do yêu cầu sử dụng, để duy trì ổn định hiện trạng, các cửa này chỉ cần nạo vét định kỳ hoặc không định kỳ, kết hợp với giải pháp chống xói lở bờ biển gần cửa ngoài đầm phá. Các đầm phá có xu hướng bồi cạn nhanh. Theo kết quả phân tích đồng vị phóng xạ 210 Pb and 137 Cs, tốc độ lắng đọng trầm tích đáy đầm phá trong gần một thế kỷ qua khoảng 0,2–0,6 cm/năm với Tam Giang-Cầu Hai và khoảng 0,1–0,3 cm/năm đối với các đầm Lăng Cô, Trường Giang, Nước Mặn, Đề Gi, Thị Nại, Ô Loan và Nại [17]. Theo kết quả phân tích đồng vị phóng xạ 210Pb và 226 Ra, tốc độ lắng đọng ở đầm phá Tam Giang-Cầu Hai trung bình 0,21 cm/năm trong 5Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ để khắc phục hiện tượng bồi lấp cửa ra vào khu neo trú bão của tàu thuyền - áp dụng cho cửa Tam Quan, Bình Định. Đề tài độc lập cấp Nhà nước (Đỗ Minh Đức và nnk., 2015). khoảng thời gian 1871–2013, ở đầm Thị Nại là 0,36 cm/năm trong 1856–2013 và ở đầm Nại 1,25 cm/năm trong 1896–2013. Tại đầm Nại, tốc độ này tăng hơn hai lần từ 0,84 cm/năm trong khoảng 1896–1960 lên 1,77 cm/năm khoảng 1991–2013 [18]. Số liệu này khá phù hợp với kết quả theo mô hình tính toán [19]. Để tăng thể tích nước đầm phá, làm tăng tốc độ dòng chảy qua cửa, cần nạo vét khôi phục luồng lạch và hạ thấp đáy đầm, dù chi phí khá lớn. Việc nạo vét chú ý kế thừa các yếu tố địa hình tự nhiên, phù hợp với đặc điểm thủy thạch động lực và lưu ý bảo tồn đa dạng sinh học. Ưu tiên nạo vét đáy các đầm Lăng Cô, An Khê, Ô Loan và Thủy Triều; Kết hợp nạo vét đáy đầm với nạo vét luồng tàu và cầu tầu tại các đầm phá có cảng biển Tam Giang-Cầu Hai, Trường Giang và Thị Nại; Kết hợp với nạo vét đáy đầm cho mục đích luồng, bến và khu neo trú tránh bão cho tàu thuyền cá ở các đầm phá Tamg Giang-Cầu Hai, Nước Mặn, Trà Ổ, Đề Gi, Cù Mông và Nại. Việc thiết kế và thực hiện nạo vét cần tuân theo chuẩn ngành 22TCN 241:1998 và công trình chỉnh trị luồng chạy tàu sông (mục VII: Chỉnh trị luồng vùng cửa sông chịu ảnh hưởng của thuỷ triều), kèm theo Quyết định số 184/QĐ-KHKT ngày 6/2/1998 của Bộ GTVT. Các kết quả tính toán dự báo bằng mô hình cho khu vực đầm Nại cho thấy khi tiến hành nạo vét thêm 0,8 m cho toàn bộ lòng đầm và khu vực cửa đầm thì lượng nước trao đổi giữa vùng lòng đầm và bên ngoài trong điều kiện bình thường chỉ còn khoảng 32% (hiện tại 41%). Nếu tính đến cả ảnh hưởng của lũ thì trao đổi nước tăng lên khoảng 34% (hiện tại 44%). Nguyên nhân của sự suy giảm lượng nước trao đổi này chủ yếu do sự tăng lên của thể tích nước trong đầm (do tăng độ sâu) lớn hơn sự tăng lên của lượng nước vào ra do dao động mực nước. Tuy nhiên, sự tăng lên của thể tích nước đầm sẽ làm các chất gây ô nhiễm do được pha loãng ra hơn, giảm nguy cơ gây ô nhiễm nước của đầm [9]. Đối với khu vực đầm Nại do dòng bùn cát ở vùng ven biển phía ngoài (cửa Ninh Chữ) chủ yếu di chuyển dọc bờ từ phía bắc xuống nên các kết quả tính toán phân tích cho thấy trường hợp nạo vét khu vực cửa đầm kết hợp với kéo dài tuyến đê phía bắc Các giải pháp ổn định cửa đầm phá ven biển 11 sẽ cho các kết quả tích cực hơn rất nhiều so với nạo vét kết hợp với kéo dài hai bên đê và các kịch bản tính toán khác (chỉ kéo dài đê hoặc nạo vét). Vì vậy, nếu tính đến một giải pháp công trình để giải quyết vấn đề hạn chế bồi lắng lòng đầm và bồi lấp khu vực cửa đầm phía ngoài thì kéo dài đê phía bắc kết hợp với nạo vét khu vực cửa đầm là lựa chọn tốt nhất [9]. Phòng chống xói lở để ổn định bờ biển phía ngoài đầm phá Vật liệu xói lở được giải phóng được vận chuyển đến gây bồi cạn, thậm chí bồi lấp cửa đầm phá nằm gần. Bờ biển phía ngoài các đầm phá ven biển miền Trung nhiều nơi đang bị xói lở bờ biển ở các mức độ khác nhau [20]. Vì vậy, tăng cường chống xói lở bờ biển để bảo vệ các khu dân cư và công trình dân sinh cũng là một giải pháp quan trọng góp phần ổn định cửa. Để bảo vệ bờ và bãi biển phía ngoài đầm phá có thể áp dụng nhóm giải pháp công trình cứng: Xây dựng công trình bảo vệ bờ trực tiếp như tường kè chống sóng áp bờ, các mũi nhô nhân tạo phá sóng, đê chắn sóng cách bờ. Nhóm giải pháp công trình phù hợp nhất là xây kè mỏ hàn hoặc kè chữ T nuôi bãi, nhằm chống xói lở cho bãi, hạn chế cát giải phóng từ xói lở được vận chuyển dọc bờ tới bồi lấp cửa đầm phá, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu và dâng cao mực nước biển. Ổn định bờ đầm phá và bề mặt vùng cát ven đầm phá Hoàn thiện hệ thống đê, kè và đập chống sạt lở bờ và trôi cát vào đầm phá, gồm các giải pháp công trình hỗ trợ trên và ven bờ đầm phá. Đó là các công trình nhằm duy trì, cải thiện thể tích vực nước (độ sâu và diện tích), chất lượng môi trường nước và trầm tích; phòng chống thu hẹp thủy diện, ngăn ngừa nông cạn đáy và cản trở hoàn lưu nước, thoát nước. Các giải pháp này cần được kết hợp đa lợi ích với các hoạt động cấp thoát nước, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối, giao thông cảng bến, du lịch... Có thể độc lập nạo vét tạo luồng lạch, hạ thấp mặt đáy đầm, phục hồi đất ngập nước... Quá trình sạt lở bờ đầm phá và cát trôi, cát chảy từ các cồn đụn bao quanh đã đưa một lượng lớn trầm tích xuống bồi nông đáy đầm phá. Tổng tải lượng bùn cát đưa vào hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai khoảng 1070 nghìn tấn/năm, trong đó từ dòng chảy sông 620 nghìn tấn/năm và chảy trôi từ các cồn đụn xung quanh khoảng 450 nghìn tấn/năm. Lượng bồi tích lưu giữ lại trong đầm phá là 322 ngàn tấn/năm gây nông cạn đáy đầm, chủ yếu là vật liệu hạt thô cung cấp từ cát chảy trôi nguồn cồn đụn [3]. Vì vậy, rất cần xây dựng các kè chắn cát trôi, cát lấn để chống cát bay, cát chảy từ cồn đụn xuống đầm phá. Điều tiết nước trên lưu vực vào đầm phá Các công trình phục vụ ngăn mặn và cấp, thoát nước: Khi ổn định cửa và tăng cường trao đổi đầm phá-biển, độ muối trong đầm phá ở mức cao, nhất là về mùa khô có thể gây hại cho nông nghiệp và cấp nước ngọt. Vì vậy, cần xây mới hoặc nâng cấp các đập ngăn mặn (ví dụ: đập Thảo Long-sông Hương, đập Cửa Lác-sông Ô Lâu, đập Hòa Tân-sông Châu Trúc...), gia cố hệ thống đê bao ven đầm phá để chống thẩm mặn các vùng lúa... Hệ thống đê ao nuôi, ruộng muối cần được quy hoạch phù hợp với hệ thống kênh mương cấp và tiêu nước ngọt, nước mặn và được kiên cố hóa để chống rửa trôi, sạt lở đất đưa xuống đầm phá. Điều tiết hồ đập và dòng chảy trên lưu vực: Dòng chảy tự nhiên từ trên lưu vực qua cửa ra biển có vai trò quan trọng trong việc duy trì cửa, chống xâm thực của nước biển. Các công trình cấp và thoát nước, đặc biệt là các hồ chứa trên lưu vực đã và đang can thiệp vào dòng chảy tự nhiên và gây nhiều biến động lớn cho đầm phá ven biển [21]. Vì vậy cần điều tiết dòng chảy từ lưu vực vào đầm phá đủ lớn, ví dụ, có thể khơi dòng chảy sông Phú Cam đổ vào đầm Cầu Hai để duy trì dòng chảy lũ qua cửa Tư Hiền và góp phần ổn định cửa này [3]. KẾT LUẬN Các cửa đầm phá ven bờ miền Trung gồm 3 nhóm: Nhóm không ổn định gồm 4 cửa: Tư Hiền (đầm Tam Giang-Cầu Hai), cửa đầm An Khê, Hà Ra (đầm Ô Loan) và An Hải (đầm Trường Giang); Nhóm kém ổn định gồm 4 cửa: Tam Hải (đầm Trường Giang), Sa Huỳnh (đầm Nước Mặn), cửa đầm Đề Gi và Ninh Chữ (đầm Nại); Nhóm tương đối ổn định gồm 6 cửa: Thuận An (đầm phá Tam Giang-Cầu Hai), cửa đầm Lăng Cô, An Hoà (đầm Trường Giang), cửa đầm Thị Nại, cửa đầm Cù Mông và cửa đầm Thủy Triều. Trần Đức Thạnh, Vũ Duy Vĩnh 12 Các công trình ổn định cửa đầm phá cần đảm bảo đa mục tiêu và đa lợi ích, nhằm ổn định dân sinh, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai; đặt trong khuôn khổ quản lý tổng hợp vùng bờ; duy trì và phục hồi các hệ sinh thái đầm phá và góp phần ứng phó với BĐKH. Chúng cần được kết hợp với các công trình khác để giảm chi phí và tăng lợi ích, ví dụ kết hợp với phát triển các cảng biển, bến cá và khu neo đậu tránh trú gió bão. Căn cứ vào các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, các giải pháp ổn định cửa đã được đề xuất gồm 5 nhóm: Xây kè chỉnh trị luồng cửa; nạo vét luồng lạch và đáy đầm phá; phòng chống xói lở để ổn định bờ biển phía ngoài đầm phá; ổn định bờ đầm phá và bề mặt vùng cát ven đầm phá; điều tiết nước trên lưu vực vào đầm phá. Kè chắn cát trong hầu hết các trường hợp phải được xây dựng ở cả hai phía cửa. Tùy theo điều kiện tự nhiên và mức độ tác động nhân sinh, giải pháp ưu tiên cần được lựa chọn cho từng đầm phá, trong đó có tính đến cả việc kết hợp đồng thời nhiều giải pháp khác nhau. Lời cảm ơn: Tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn đề tài cấp Nhà nước KC.08.25/11–15: “Nghiên cứu giải pháp phục hồi hệ sinh thái đầm, hồ ven biển đã bị suy thoái ở khu vực miền Trung” đã cho phép sử dụng số liệu để hoàn thành bài báo này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Đức Thạnh, Nguyễn Chu Hồi, Trần Đình Lân, Nguyễn Hữu Cử, 1996. Tiềm năng sử dụng và những vấn đề quản lí đầm phá ven bờ miền Trung Việt Nam. Tạp chí Hoạt động Khoa học, (9), 4–6 . [2] Nguyễn Hữu Cử, 1999. Tổng quan tình hình nghiên cứu tài nguyên và môi trường đầm phá ven bờ Miền Trung Việt Nam. Tập IV. Tài nguyên và Môi trường biển. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Tr. 126–142. [3] Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân, Nguyễn Hữu Cử và Đinh Văn Huy, 2010. Tiến hoá và động lực hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai. Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ. Hà Nội. 225 tr. [4] Trần Đức Thạnh, 1997. Tác động môi trường của việc lấp cửa, chuyển cửa ở hệ đầm phá Tam Giang- Cầu Hai. Tập IV. Tài nguyên và môi trường biển. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội. Tr. 185–197. [5] Trần Văn Bình, Tống Phước Hoàng Sơn, Nguyễn Đình Dần, Phạm Bá trung, 2015. Ứng dụng công nghệ viễn thám và GIS nghiên cứu quá trình dịch chuyển đường bờ và đóng, mở cửa đầm Ô Loan (Phú Yên) giai đoạn 1965–2014. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 15(3), 242–249. [6] Trần Đức Thạnh, Nguyễn Chu Hồi, Nguyễn Hữu Cử, 2000. Biến động cửa hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai và hậu quả môi trường, sinh thái. Tr.31-46. Tạp chí thông tin Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên-Huế. Tr. 31–46. [7] Guliani S., Bellucci, L. G., Capodaglio, G., Cu, N. H., Thanh, T. D., Fragnani, M., Piazza, R., Sprovieri, M., 2007. Sediment contamination in Central Vietnam coastal lagoons: a disscussion. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 7(Supplement 1), 140–159. [8] Nguyễn Văn Quân (chủ biên), 2016. Mức độ suy thoái và giải pháp phục hồi một số hệ sinh thái đầm phá ven biển miền Trung. Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. Hà Nội. 380 tr. [9] Vũ Duy Vĩnh, 2017. Đánh giá ảnh hưởng của một số giải pháp công trình đến trao đổi nước và vận chuyển bùn cát khu vực đầm Nại (Ninh Thuận). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 17(4), 373–385. [10] Tran Thanh Tung, 2011. Morphodynamics of seasonally closed coastal inlets at the central coast of Vietnam. Master of Science in Coastal Engineering. UNESCO-IHE, Delft geboren te Hanoi, Vietnam. 192 p. [11] Tran Duc Thanh, Dien, T. V., Chien, D. D., 2002. Inlet Change in Tam Giang-Cau Hai Lagoon and Coastal Flood. Collection of Marine Reaserach Works. Science & Technique Publishing House, Hanoi, 12, 119–128. [12] Đặng Trung Thuận, Nguyễn Cao Huần, Trương Quang Hải, Vũ Trung Tạng, 2000. Nghiên cứu vùng đất ngập nước vùng đầm Trà Ổ nhằm khôi phục nguồn lợi thủy sản và phát triển bền vững vùng đầm. Nxb. Nông nghiệp. Hà Nội. 308 tr. Các giải pháp ổn định cửa đầm phá ven biển 13 [13] TrầnVăn Bình, Lê Đình Mầu, 2012. Quá trình xói lở-bồi tụ và hiện trạng đóng- mở cửa tại khu vực đầm Ô Loan (Phú Yên). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 12(3), 24–33. [14] Phạm Bá Trung, Lê Đình Mầu, Lê Phước Trình, 2010. Vấn đề bồi lấp các cửa biển Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Tam Quan và Đề Gi (Bình Định) do tác động của các kè mỏ hàn. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 10(2), 1–13. [15] Đặng Hoài Nhơn, Nguyễn Thị Kim Anh, Nguyễn Hữu Cử, Nguyễn Mạnh Thắng, Bùi Văn Vượng, 2009. Một số đặc trưng môi trường trầm tích đầm Lăng Cô, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tập XIV. Tài nguyên và Môi trường biển. Nxb. Khoa học tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. Tr. 115–124. [16] Vũ Duy Vĩnh, Nguyễn Văn Quân, 2015. Đặc điểm thủy động lực và khả năng trao đổi nước khu vực đầm Nại (Ninh Thuận)- kết quả từ mô hình Delft3D. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 15(3), 250–256. [17] Albertazzi, S., Bellucci, L. G., Frignani, M., Giuliani, S., Romano, S., and Cu, N. H., 2007. 210 Pb and 137 Cs in sediment of Central Vietnam coastal lagoons: Tentative assessment of accumulation rate. Vietnam Journal of Marine Science and Technology, 7(Supplement 1), 73–81. [18] Đặng Hoài Nhơn, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Đình Khang, Bùi Văn Vượng, Nguyễn Văn Quân, Phạm Sơn Hải, 2015. Lắng đọng trầm tích trong các đầm phá: Tam Giang-Cầu Hai, Thị Nại và Nại ở ven bờ Miền trung Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQG Ha Nội, 31(3), 15–25. [19] Vũ Duy Vĩnh, Đỗ Thị Thu Hương, Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Ngọc Tiến, 2016. Đặc điểm vận chuyển bùn cát và nguyên nhân gây bồi lắng khu vực đầm Nại (Ninh Thuận). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, 16(3), 283–296 [20] Nguyễn Văn Cư, Phạm Huy Tiến, 2003. Sạt lở bờ biển miền Trung Việt Nam. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 200 tr. [21] Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh, 2009. Ảnh hưởng của các hồ chứa đến tài nguyên và môi trường đầm phá ven biển miền Trung Việt Nam. Tập XIV. Tài nguyên và Môi trường biển. Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. Tr. 159–170.
File đính kèm:
- solutions_for_the_stabilization_of_lagoonal_inlets_in_the_co.pdf