Sử dụng sơ đồ trong dạy học tập đọc ở tiểu học

Tóm tắt Sử dụng sơ đồ trong dạy học tập đọc ở tiểu học: ...cách sử dụng4 2.2.1. Sơ đồ cành cây (sơ đồ cây sự kiện) là dạng sơ đồ được GV thường dùng nhất và cho là dễ dùng nhất (x.bảng 4 và biểu đồ,bảng 5). Từ trung tâm là thẻ từ chứa cụm từ biểu thị chủ đề của bài đọc, vẽ cách nhánh có các thẻ từ biểu thị các tiểu chủ đề của các đoạn, phần. H...chỉ đi theo một tuyến duy nhất, nên hai kiểu sơ đồ này có “độ phổ” không như sơ đồ mạng sự kiện, bản đồ tư duy, vòng tròn trung tâm, sơ đồ Venne, bản đồ câu chuyện Nếu dùng 2 kiểu sơ đồ này, GV cần xác định xem truyện có thảo mãn yêu cầu như vừa nêu hay không. 2.1.7. Bản đồ câu chuyện ...iệu quả và tính hấp dẫn của từng kiểu sơ đồ được biểu thị qua bảng & biểu 6 dưới đây. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 _____________________________________________________________________________________________________________ 51 Bảng & biểu đồ 6. Ý kiến của GV, HS, SV về...

pdf12 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 404 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Sử dụng sơ đồ trong dạy học tập đọc ở tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ục biểu thị chủ 
đề, các “cành” biểu thị nội dung chi tiết. 
Loại sơ đồ này có thể dùng cho các bài 
đọc thiên về miêu tả. Ví dụ sơ đồ cho bài 
“Mùa nước nổi” (TV2, t.25): 
2.1.2. Sơ đồ vòng tròn trung tâm là loại 
sơ đồ mà trung tâm của nó là vòng tròn 
chứa đựng từ ngữ biểu thị chủ đề của 
đoạn, bài. Xung quanh nó là các thẻ từ 
biểu đạt các tiểu chủ đề. Loại sơ đồ này 
phù hợp với các bài đọc thiên về miêu tả. 
Để tăng tính hấp dẫn, có thể nối từ trung 
tâm tới các thẻ từ bằng những đường 
cong hoặc xiên theo kiểu tia mặt trời. Các 
bài Tập đọc, như Hoa ngọc lan, Đầm sen 
(TV1, t.2); Quà của bố (TV2, t.2), Hội 
vật (TV3, t.2),v.v. đều có thể sử dụng 
kiểu sơ đồ này. Chẳng hạn, bài Quà của 
bố có thể tạo 2 vòng tròn trung tâm, mỗi 
vòng tròn trung tâm biểu thị một ý chính 
của bài.Vd: quà của bố khi đi câu về: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
46 
Nếu bài đọc có kết cấu như bài Quà 
của bố, ta cũng có thể sử dụng sơ đồ 
Venn6 để so sánh những món quà khi bố 
đi câu về với những món quà khi bố đi 
cắt tóc về. Chẳng hạn, ta lấy “quà của 
bố” làm trung tâm, cụm từ “quà của bố” 
nằm ở phần giao nhau, phần khác biệt sẽ 
ở những phần vòng tròn còn lại. Vd: 
2.1.3. Bản đồ tư duy là loại sơ đồ được 
trình bày gồm chủ đề đặt ở trung tâm và 
các tiểu chủ đề- các nhánh ý tưởng (các 
nhánh bộ phận) – tỏa ra xung quanh. 
Các nhánh bộ phận sẽ chia thành những 
nhánh nhỏ hơn cho đến hết. Các đường 
kẻ càng gần trung tâm càng cần tô đậm 
(theo nguyên lí thị giác,nên dùng các 
đường kẻ cong thay cho các đường 
thẳng; bởi vì các đường cong được tổ 
chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý 
của mắt nhiều hơn [4]). Ngoài ra nên bố 
trí thông tin xoay đều quanh hình ảnh 
trung tâm. 
Bản đồ tư duy rất thích hợp cho 
việc hướng dẫn HS tìm ý và phát triển ý 
trong dạy học phân môn Tập làm văn. 
Với việc dạy đọc hiểu, ở bước củng cố 
nội dung bài đọc, GV cũng có thể sử 
dụng bản đồ tư duy làm phương tiện dạy 
học hiệu quả. Chẳng hạn, có thể dùng bản 
đồ tư duy cho bài Mùa nước nổi như sau: 
Xét cho cùng, về bản chất, bản đồ 
tư duy, sơ đồ cành cây, sơ đồ vòng tròn 
trung tâm không khác nhau trong cách 
thức biểu thị; chỉ khác nhau ở hình thức 
trình bày. 3 kiểu sơ đồ này, nhất là bản 
đồ tư duy có tác dụng rất lớn trong việc 
giúp ghi nhớ và giúp phát triển ý tưởng. 
Song các kiểu sơ đồ này, nhất là sơ đồ tư 
duy và sơ đồ cành cây không thuận lợi 
trong việc tóm tắt những bài đọc có tính 
tiến trình và tiến trình đó được tác giả sử 
dụng làm một phương tiện để biểu thị 
một nội dung hàm ẩn của bài đọc, như 
bài Đất Cà Mau (TV5, t.1). Nếu dùng 
bản đồ tư duy sẽ khó giúp HS thấy được 
hàm ẩn thiên nhiên khắc nghiệt là nền để 
giúp tác giả khắc họa hình ảnh con người 
Cà Mau thông minh, giàu nghị lực. 
Nhưng nếu dùng sơ đồ Venn hoặc sơ đồ 
vòng tròn trung tâm tạo thành 2 mảng đối 
ứng và so sánh có thể sẽ mang lại hiệu 
quả hơn so với bản đồ tư duy (do hạn chế 
của bản đồ tư duy với kiểu bài này như 
vừa nêu). 
2.1.4. Sơ đồ mạng sự kiện thích hợp với 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
47 
những bài đọc có tính tự sự hoặc bài đọc 
có tính tiến trình. Các bài tập đọc như 
Một trí khôn hơn trăm trí khôn (TV2, t1); 
Người liên lạc nhỏ, Hũ bạc của người 
cha (TV3, t.1); thậm chí các bài đọc 
trong TV1, t.2 như Mưu chú sẻ, Mời 
vào đều có thể sử dụng kiểu sơ đồ này. 
Dựa vào cốt truyện vào các sự kiện 
và tình tiết được đề cập, GV có thể 
hướng dẫn HS tóm tắt bài đọc một cách 
dễ dàng và hứng thú.Ví dụ, với truyện 
Ngựa, thỏ và cọp: “Nhà nọ có con ngựa 
già. Ông chủ không nỡ đuổi nó ra đường 
bèn nghĩ kế để nó tự bỏ đi. Một hôm, ông 
ta bảo: “Ngựa à, nếu mày bắt về đây cho 
ta một con cọp, ta sẽ giữ mày lại”. Ngựa 
già buộc phải vào rừng, nó lập cập vừa 
đi vừa khóc. Trên đường đi, ngựa già gặp 
thỏ. Sau khi nghe ngựa kể rõ nguồn cơn, 
thỏ hứa giúp ngựa mang cọp về cho chủ. 
Thỏ đến nhà cọp, thầm thì: “Có con 
ngựa già gần chết nằm bên đường. Em 
buộc chân nó và chân bác, ta mang về 
nhé?”. Cọp nghe bùi tai, bèn nhận lời. 
Thỏ liền dẫn cọp đến chỗ ngựa. Nó vờ 
vịt, buộc luôn cả bốn chân cọp. Ngựa 
chồm dậy, kéo cọp về nhà. Ông chủ phục 
lăn. Từ đó, ngựa được giữ trong nhà”, ta 
có thể dùng sơ đồ mạng sự kiện để tóm 
tắt như sau: 
2.1.5. Sơ đồ đường tròn. Như tên gọi của nó dạng sơ đồ này phù hợp với những bài 
Tập đọc có các sự kiện, các tình tiết diễn ra theo dạng tiến trình khép kín, như truyện 
Ngựa, thỏ và cọp, hoặc truyện Hũ bạc của người cha. Khi vẽ loại sơ đồ này, cần có dấu 
hiệu biểu thị điểm xuất phát và đích đến. Chẳng hạn, với bài đọc Ngựa, thỏ và cọp, ta 
có thể vẽ như sau: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
48 
2.1.6. Sơ đồ đường thẳng phù hợp với những truyện có nhân vật chính chỉ “đi theo” 
một tuyến duy nhất, như truyện Người liên lạc nhỏ, Người mẹ (TV3, t.1). Chẳng hạn, 
có thể tóm tắt và biểu diễn theo dạng sơ đồ đường thẳng cho truyện Người mẹ như sau: 
Nhìn chung, do sơ đồ đường tròn với 
yêu cầu các tình tiết diễn ra theo tiến trình 
khép kín và sơ đồ đường thẳng với yêu cầu 
nhân vật chính chỉ đi theo một tuyến duy 
nhất, nên hai kiểu sơ đồ này có “độ phổ” 
không như sơ đồ mạng sự kiện, bản đồ tư 
duy, vòng tròn trung tâm, sơ đồ Venne, 
bản đồ câu chuyện Nếu dùng 2 kiểu sơ 
đồ này, GV cần xác định xem truyện có 
thảo mãn yêu cầu như vừa nêu hay không. 
2.1.7. Bản đồ câu chuyện (plot diagram) 
thường dùng cho các bài đọc dạng truyện 
kể [5]. Ngoài ra, kiểu sơ đồ này cũng có 
thể sử dụng cho bài miêu tả có tính tiến 
trình, như bài Hội vật (TV3, t.2), Hội thổi 
cơm thi ở Đồng Vân (TV5, t.2) hoặc bài 
Mời vào (TV1, t.2), v.v.. Nếu dùng kiểu 
sơ đồ này, GV cần hướng dẫn HS xác 
định nhân vật, thời gian, nơi chốn và 
hành động của nhân vật trong bối cảnh 
không gian, thời gian đã xác định; hoặc 
xác định đối tượng miêu tả trong tiến 
trình tiến triển của nó. Và loại sơ đồ này 
cần sắp xếp theo trình tự diễn tiến của 
câu chuyện. Chẳng hạn, qua hệ thống câu 
hỏi của SGK, GV hướng dẫn HS lập bản 
đồ câu chuyện cho truyện Người mẹ như 
sau: 
2.1.8. Sơ đồ mạng từ ngữ biểu thị hoạt 
động và đặc điểm của nhân vật. Dạng sơ 
đồ này phù hợp với văn bản đọc ở dạng 
truyện hoặc văn bản miêu tả đặc điểm 
của đối tượng. GV có thể tạo hứng thú 
cho HS bằng cách cho HS tìm hình ảnh 
hoặc vẽ phác họa về nhân vật và viết 
cáctừ ngữ biểu thị hành động, tính cách 
của nhân vật theo hệ thống logic ngữ 
nghĩa của bài đọc. 
Vd: Có thể minh họa sơ đồ mạng từ 
ngữ cho truyện đọc Vì sao thờn bơn méo 
miệng như sau: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
49 
2.2. Một vài điểm cần lưu ý khi sử 
dụng sơ đồ trong dạy học đọc hiểu 
(1) Về chọn từ khóa 
a. Khi tìm từ khóa biểu thị chủ đề 
của bài đọc nên chú ý tựa đề vì phần 
nhiều các bài Tập đọc trong SGK TH đều 
có tựa đề đặt theo kiểu nêu khái quát nội 
dung của văn bản, như Bàn tay mẹ, Chim 
chích bông, Quà của bố, Phong cảnh đền 
Hùng, Làng mạc ngày mùa 
b. Khi tìm từ khóa của biểu thị các 
tiểu chủ đề, cần chú ý câu mở đoạn/bài, 
kết đoạn/bài; chú ý các động từ, tính từ 
biểu thị hoạt động, đặc điểm quá trình 
của sự vật, sự việc được nói tới (xem ví 
dụ minh họa cho các kiểu sơ đồ đã nêu). 
(2) Về cách thức và quy trình 
a. Việc sơ đồ hóa nội dung bài đọc 
cần được tiến hành cùng với tiến trình 
dạy đọc, không nên để đến bước củng cố 
mới thực hiện sơ đồ hóa và hướng dẫn 
HS cách thức sơ đồ hóa. 
b. Cần và nên để HS tham gia quá 
trình sơ đồ hóa tóm tắt nội dung bài đọc. 
c. GV và HS vẽ phác thảo (nếu vẽ 
được) hoặc chọn sẵn các hình ảnh minh 
họa cho các nhân vật trong bài đọc. 
d. Tùy theo nội dung và cách trình 
bày của bài đọc để lựa chọn kiểu sơ đồ 
phù hợp. Chẳng hạn truyện Người mẹ có 
thể tóm tắt và biểu diễn theo sơ đồ sự 
kiện nhưng không thể theo sơ đồ đường 
tròn. Với truyện Ngựa, thỏ và hổ hoặc 
Một trí khôn hơn trăm trí khôn, Hũ bạc 
người cha ta có thể sử dụng bản đồ câu 
chuyện để tóm tắt, nhưng không thể dùng 
kiểu sơ đồ đường thẳng như truyện 
Người mẹ. Mỗi một văn bản Tập đọc, tùy 
thuộc vào nội dung văn bản, sự kiện và 
diễn tiến của các sự kiện được miêu tả, 
GV có thể lựa chọn kiểu sơ đồ phù hợp. 
2.3. Đánh giá của giáo viên, học sinh, 
sinh viên về các loại sơ đồ 
Việc tìm hiểu ý kiến của GV, HS và 
SV (x.1.2.2) được chúng tôi tiến hành 
bằng cách đưa câu hỏi và hướng dẫn đề 
nghị họ đánh giá về các nội dung (“bạn 
đã sử dụng”, “chưa từng sử dụng”; tính 
dễ sử dụng và tính hấp dẫn được tính 
theo thang điểm 1–10; trong bảng hỏi 
không có phần giới thiệu các loại sơ đồ 
với mục đích để tìm hiểu xem bao nhiêu 
GV, SV biết hoặc có nghe về loại sơ đồ 
được đề cập). 
Bảng 4.Việc sử dụng sơ đồ của giáo viên và sinh viên 
 Đã sử dụng Chưa sử dụng Không có ý kiến 
Cành cây GV 63,2 0,8 36,0 SV 53,7 14,2 32,1 
Vòng tròn 
trung tâm 
GV 8,7 6,6 84,7 
SV 38,8 27,5 33,7 
Bản đồ 
tư duy 
GV 18,6 16,1 65,3 
SV 26,9 37,2 35,9 
Đường tròn GV 8,1 6,7 85,2 SV 9,7 48,1 42,2 
Mạng 
sự kiện 
GV 9,6 7,9 82,5 
SV 15,3 42,8 41,9 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
50 
Đường thẳng GV 43,5 3,2 53,3 
SV 30,2 29,1 40,7 
Bản đồ 
câu chuyện 
GV 10,5 7,2 82,3 
SV 52,8 25,1 22,1 
Mạng từ ngữ GV 20,3 8,2 71,5 SV 5,7 76,1 18,2 
Bảng 4 cho thấy phần lớn GV đã bỏ 
trống ô “sử dụng hay chưa”, nhất là với 
các kiểu sơ đồ vòng tròn trung tâm, bản 
đồ tư duy, đường tròn, bản đồ câu 
chuyện và mạng từ ngữ. Tìm hiểu về 
nguyên do của hiện tượng trên, chúng tôi 
nhận được các câu trả lời, như “vì dạy 
lớp 1”, “không rõ về sơ đồ được hỏi”, 
“mới lạ quá, chưa được biết”, v.v.. Con 
số này rất đáng lưu tâm khi thực tế những 
năm vừa qua, “bản đồ tư duy” là khái 
niệm thường xuyên được bàn tới trong 
đổi mới giảng dạy ở TH, và GV được tập 
huấn chuyên đề về sử dụng bản đồ tư duy 
trong dạy học. Số liệu trên tương thích 
với số liệu về điểm GV đánh giá cho tính 
dễ sử dụng, GV đã đánh giá tính tiện 
dụng của sơ đồ vừa nêu trên thấp hơn hẳn 
(x. Bảng & biểu đồ 5). SV thì khác, số 
SV chưa sử dụng nhiều so với GV, 
nhưng số SV không có ý kiến thì ít hơn 
hẳn. Thêm vào đó, phần cho điểm của SV 
cho mỗi loại sơ đồ đều có vẻ hợp lí hơn? 
Nghi vấn này không phải là không có cơ 
sở. Chẳng hạn số điểm GV cho sơ đồ 
đường thẳng: 8,6; sơ đồ đường tròn: 5,5 
điểm; hoặc sơ đồ vòng tròn trung tâm: 
5,1 và sơ đồ cành cây 8,7 điểm; trong khi 
2 nhóm sơ đồ vừa nêu đều có chung yêu 
cầu và cách thức thể hiện cũng như độ 
phổ của chúng (x. mục 2.1.). 
Bảng& biểu đồ 5. Ý kiến GV & SV về tính dễ sử dụng 
của các loại sơ đồ (tính theo thang điểm 10) 
Những số liệu vừa nêu cũng không mâu thuẫn với những số liệu về tính hiệu quả 
và tính hấp dẫn của từng kiểu sơ đồ được biểu thị qua bảng & biểu 6 dưới đây. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
51 
Bảng & biểu đồ 6. Ý kiến của GV, HS, SV 
 về tính hiệu quả và tính hấp dẫn (tính theo thang điểm 10) 
Kết quả thống kê cho thấy Bản đồ 
tư duy, Mạng sự kiện, Bản đồ câu chuyện 
là những kiểu sơ đồ được SV đánh giá 
cao về tính hiệu quả và tính hấp dẫn, 
nhưng GV thì ngược lại; hoặc đánh giá 
cho sơ đồ đường thẳng: GV: 8,1; SV: 6,5. 
Còn những sơ đồ quen thuộc như sơ đồ 
cành cây, sơ đồ đường tròn được đánh 
giá tương đương. Những số liệu ở bảng-
biểu 5 và số liệu ở bảng biểu 5 cho phép 
ta có thể nhận xét: SV được tiếp cận 
nhiều sơ đồ dùng cho việc củng cố bài 
đọc hơn so với GV. 
Ngoài ra, bảng biểu 6 còn cung cấp 
số liệu khá lí thú. Đó là GV cho điểm về 
tính hiệu quả và tính hấp dẫn của các loại 
sơ đồ không chênh lệch đáng kể so với 
HS nhưng chênh lệch khá nhiều so với 
điểm đánh giá của SV. Những số liệu 
trên cũng có thể giúp hình dung có không 
ít GV chưa hiểu đầy đủ về ý nghĩa và tính 
hiệu quả của mỗi loại sơ đồ và điều này 
ảnh hưởng trực tiếp tới HS. Mặt khác, 
những số liệu trên cũng thống nhất với 
kết quả thu được qua phần trả lời ngắn ở 
bảng hỏi cũng như qua trao đổi trực tiếp: 
nhiều GV chưa biết sử dụng các kiểu sơ 
đồ như Bản đồ tư duy, Mạng sự kiện, Bản 
đồ câu chuyện; trong khi nhiều SV đã 
được thực hành các kiểu sơ đồ trên. 
3. Một vài ý kiến rút ra qua thử 
nghiệm sơ đồ trong dạy học Tập đọc 
Trong học kì 2, năm học 2014 – 
2015, chúng tôi đã cùng một nhóm GV 
thử nghiệm các loại sơ đồ trên trong dạy 
Tập đọc cho HS khối 1, 2, và 5. Sau đây 
là ý kiến của GV qua thử nghiệm7: 
 Việc sử dụng sơ đồ trong dạy 
học đọc hiểu là cần thiết bởi tính hữu ích 
và tính khả thi của nó. 
 Nếu cho HS cùng tham gia vào 
quá trình tóm tắt bằng sơ đồ, HS sẽ hứng 
thú hơn. Tuy nhiên ban đầu khá tốn thời 
gian và công sức, do cả thầy và trò chưa 
quen, do thói quen của cách dạy “bám sát 
sách hướng dẫn – không sử dụng sơ đồ”. 
Nếu sử dụng sơ đồ tóm tắt, HS và 
cả GV đều được rèn luyện thao tác tìm từ 
khóa, và từ sơ đồ tóm tắt nêu nội dung 
bài và rút ra thông tin hàm ngôn. 
HS chỉ hứng thú với những sơ đồ 
có thêm hình ảnh minh họa ngộ nghĩnh, 
màu sắc tươi sáng. 
Sơ đồ Bản đồ câu chuyện được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
52 
chọn nhiều hơn so với sơ đồ cây sự kiện, 
sơ đồ vòng tròn trung tâm, và sơ đồ mạng 
từ ngữ. Nếu sử dụng sơ đồ mạng từ ngữ 
thì cần dùng kèm hình ảnh minh họa. 
 Khi dạy học Tập đọc cho HS lớp 
1, phần Luyện tập tổng hợp (sau phần 
Học vần), vẫn có thể sử dụng sơ đồ một 
cách hiệu quả. (Nhận định này phù hợp 
với nghiên cứu sử dụng sơ đồ, bảng biểu 
trong dạy trẻ mầm non của McDermott 
công bố năm 2012 [8] và thực tế dạy học 
ở một số trường quốc tế hiện nay tại 
TPHCM. Đó là bản đồ tư duy, sơ đồ 
Venn, bản đồ câu chuyện được sử dụng 
cho cả trẻ mầm non. 
4. Một vài bàn luận thêm về vấn đề 
sử dụng sơ đồ trong dạy học đọc hiểu 
4.1. Có thể nói với ưu thế của cách biểu 
thị bằng đường nét kết hợp từ ngữ, hình 
ảnh, màu sắc, sơ đồ dùng để khái quát 
hóa nội dung bài đọc gây hứng thú và 
góp phần nâng cao chất lượng đọc hiểu. 
4.2. Việc dùng sơ đồ không chỉ là các 
thao tác sơ đồ hóa thuần túy mà còn là sự 
tích hợp của các hoạt động rèn kĩ năng 
hiểu nghĩa từ ngữ trong văn bản đọc; kĩ 
năng nhận diện sự kiện, tình tiết; kĩ năng 
nắm các ý và sắp xếp thành dàn ý; kĩ 
năng xác định các ý chính và tóm tắt; kĩ 
năng xác định chủ đề; kĩ năng suy luận 
để nắm ý của đoạn, bài. 
4.3. Sơ đồ là một trong những phương 
tiện tiện ích, còn sơ đồ hóa là một trong 
những biện pháp hữu hiệu có thể giúp 
GV hướng dẫn HS nắm chắc nội dung 
bài đọc đồng thời rèn luyện các thao tác 
tư duy, rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho 
HS. Khi dạy Tập đọc, GV cần tìm hiểu 
để biết sử dụng các loại sơ đồ trước và 
sau khi đọc hiểu. [11] 
Ngoài ra, tuy chỉ bàn đến vấn đề sử 
dụng sơ đồ trong dạy đọc hiểu nhưng 
những ý kiến của GV giải thích cho việc 
“không sử dụng sơ đồ mặc dù thấy sơ đồ 
rất hữu ích” là “do tuân thủ sách GV”, 
“cán bộ kiểm tra đánh giá giờ dạy thường 
lấy sách GV làm cơ sở” khiến chúng ta 
có thể nghĩ tới việc vẫn rất cần giúp GV 
và các cấp quản lí thay đổi quan niệm 
“SGK là pháp lệnh”, “GV phải tuân thủ 
theo từng bước hướng dẫn của sách GV” 
để thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng. 
Không lệ thuộc SGK, làm chủ chương 
trình kế hoạch dạy học là những yêu cầu 
mà GV cần đạt đến để có thể đáp ứng sự 
đổi thay của giáo dục sau 2015. 
Lời cảm ơn: Tác giả bài viết trân trọng gửi lời cảm ơn tới ThS Nguyễn Thị Yên Hà, 
Điều phối viên Giáo dục của tổ chức Tầm nhìn Thế giới tại Việt Nam bởi những góp ý sắc 
sảo cùng việc tạo điều kiện cho tác giả hướng dẫn 40 giáo viên tiểu học huyện Hải Lăng, 
tỉnh Quảng Trị thử nghiệm các kiểu sơ đồ trong dạy đọc hiểu vào tháng 11-2014. Tác giả 
cũng xin được cảm ơn TS Vũ Thị Ân và ThS Nguyễn Lương Hải Như về những góp ý cùng 
những chia sẻ tài liệu để bài viết có chất lượng hơn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
53 
1 Những SV này đều đã qua 2 kì thực tập sư phạm (tổng cộng 22 tuần) tại trường TH. 
2 Số liệu trên cũng gợi suy đoán GV chưa đủ “dũng cảm” để nói sự thật về việc sử dụng sơ đồ của chính họ, 
cái cảm giác sợ bị đánh giá ít nhiều ảnh hưởng tới câu trả lời của họ; mặc dù người khảo sát đã cam đoan chỉ 
dùng trong nghiên cứu và giữ bí mật về người cung cấp thông tin. 
3 Biểu điểm chấm phần đọc trong bài kiểm tra định kì: đọc đúng 6 điểm; đọc hiểu 4 điểm; trong đọc hiểu 
gồm hiểu nội dung bài đọc 2 điểm, hiểu từ ngữ ngữ pháp có trong bài đọc: 2 điểm. 
4 Các sơ đồ trong bài viết này vừa là kết quả thu thập từ sáng kiến kinh nghiệm của GV vừa là kết quả tìm 
hiểu của tác giả và đã triển khai qua một vài đợt tập huấn chuyên đề “Dạy đọc hiểu cho HS TH” trong năm 
học 2014 – 2015. 
5 Để tiện cho việc trình bày, tên sách giáo khoa (SGK) và tập sách sẽ được viết tắt, vd: “TV2, t.1” sẽ dùng để 
chỉ SGK Tiếng Việt lớp 2, tập 1. 
6 Sơ đồ Venn còn gọi “sơ đồ tập hợp” là một loại sơ đồ dùng biểu thị các mối quan hệ logic có thể có giữa 
một số lượng hữu hạn các tập hợp. Sơ đồ Vennkhông chỉ được sử dụng để dạy lí thuyết tập hợp sơ cấp, cũng 
như minh họa mối quan hệ tập hợp đơn giản trong xác suất, logic học, thống kê, mà còn được sử dụng trong 
nghiên cứu, giảng dạy về ngôn ngữ học, sinh học. Sơ đồ Venn cổ điển với ba vòng tròn được John Venn, một 
nhà triết học và toán học người Anh, xác lập năm 1881 [10]. 
7 Số liệu ở tất cả các bảng biểu, như đã nêu ở 1.2.2., không lấy từ nhóm thử nghiệm các kiểu sơ đồ trong dạy 
học đọc hiểu và nhóm tập huấn ở Quảng Trị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Hòa Bình, Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy học tiếng Việt – 
nhìn từ tiểu học, Nxb Giáo dục Việt Nam. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 
1,2,3,4,5, Văn bản số 9832/BGD&ĐT-GDTH ngày 01/9/2006. 
3. Đỗ Thị Châu (2007), Sơ đồ hóa tài liệu dạy học như là một công cụ chủ yếu trong 
dạy học, Tạp chí Giáo dục, kì 1 số 153. 
4. Nguyễn Hồng Hưng (2013) Nguyên lí Design thị giác, Nxb Đại học Quốc gia 
TPHCM. 
5. Chang, P., (2015), Teaching and learning with graphic organizers, Download at 
english.tyhs.edu.tw/epaper/epaper15/teach_share.pdf. Truy cập ngày 20-5-2015. 
6. Docimo, K.. Plot diagrams and narrative arcs, download at 
www.storyboardthat.com/articles/education/plot-diagram. Truy cập ngày 20-5-2015. 
7. Birbili, M. (2006), “Mapping Knowledge: Concept Maps in Early Childhood 
Education”, Early Childhood Research & Practice (ECRP) 8 (2), 2006. 
8. McDermott, M. J. (2012), Using graphic organizers in preschool, Teaching young 
children 5(5), pp.29-31. 
9. Tony Buzan (2009), Bản đồ tư duy trong công việc, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 
10. Walbert, D. (2006), Higher order thinking with Venn diagrams. Conference of the 
North Caronila Association for Educational Communications and Technology, 
download at  Truy cập ngày 10-4-2015. 
11. Waxlerr, A. (2005), Three easy ways to increase reading comprehension, In How to 
improve reading, download at 
ways-increase-reading-comprehension/. Truy cập ngày 10-4-2015. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 29-4-2015; ngày phản biện đánh giá: 15-5-2015; 
ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_so_do_trong_day_hoc_tap_doc_o_tieu_hoc.pdf
Ebook liên quan