Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam - Phần 4

Tóm tắt Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam - Phần 4: ... Mên) có một viên thủ hiến lo việc cai tri.. Đến năm 1887 Pháp thiết lập phủ Toàn quyền để thống nhất việc cai trị toàn vùng (Đông Dương). Tại mỗi xứ, cắt đặt như sau: Thống Đốc Nam kỳ, Khâm Sứ Trung kỳ, Khâm Sứ Cao Mên, Thống Sứ Bắc kỳ, Thống Sứ Ai Laọ Các viên chức này đều phải theo lệnh c...hái Phiên để mưu việc khởi nghĩạ Kế hoạch bị bại lô.. Pháp đầy vua Duy Tân sang đảo Réunion. Các người tham dự vào kế hoạch khởi nghĩa đều bị Pháp giết hoặc bị đầỵ Sau đó, thực dân Pháp lập con vua Đồng Khánh (vị vua dễ sai bảo) lên ngôi năm 1916, lấy hiệu là Khải Đi.nh. Năm 1925, Khải Định ...ghĩa Thục) đã từng học trường võ bị Chấn Võ ở Nhật Bản, tham dự vào đoàn quân cách mạng Trung Hoạ Bị người Anh bắt ở Hương Cảng rồi giao cho Pháp, bị giam ở Thái Nguyên. Trong ngục ông tiếp tục cổ động ái quốc, được nhiều người nghe theo, trong đó có Trịnh Văn Cấn là một hạ sĩ quan cấp Đội (...

pdf22 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Các thời kỳ lịch sử Việt Nam - Phần 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nới rộng hơn. Nguyễn Văn Tường 
cùng Patenôtre ký hoà ước ngày 6 6 1884, gồm 19 khoản. Hoà ước này cũng như 
hoà ước 1883, nhưng giới hạn cai trị của triều đình Huế được nới rộng thêm từ 
Thanh Hoá tới Bình Thuận. 
Tại vùng biên giới Hoa Việt, quân Tàu vẫn chiếm đóng, quân Pháp tiến đánh 
nhưng bị thất trận ở Bắc Lệ và Lạng Sơn. Nước Pháp bèn đem hải quân đánh Phúc 
Châu và Đài Loan của Tàụ Trung Hoa phải ký hoà ước Thiên Tân năm 1885, nhận 
quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam và rút quân về Tàu. 
Xem vậy, việc bang giao giữa nước này với nước khác đều vì lợi, nhưng nước 
mạnh bao giờ cũng trưng việc nghĩa để che đậy ý gian, rồi kết quả mọi điều lợi 
đều về nước mạnh, chứ chẳng vì nghĩa chi cả. Thế mà triều đình Huế, cũng như 
nhiều người cứ u u, mê mê đi cầu cạnh người, không biết lo làm cho dân giầu, 
nước mạnh, thật là phường ích ký?, vị lợi chỉ biết chăm lo bản thân mà coi thường 
quốc gia dân tộc. 
Sau nhiều năm chiến tranh và qua 4 bản hoà ước 1862, 1874, 1883 và 1884 nước 
Pháp đã hoàn tất việc xâm lăng thực dân ở Việt Nam. Nam kỳ trở thành thuộc địa, 
Bắc kỳ là đất bị bảo hộ và Trung kỳ là nơi Pháp lập chế độ trú sứ, nhưng trên thực 
tế cả ba miền đều là thuộc địa của Pháp, nhà Nguyễn ở Huế không có quyền hành 
gì cả. 
Hoà ước 1884 xác định quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam đã thi hành tới ngày 9 
tháng 3 năm 1945. 
B. Thời kỳ Pháp Đô Hộ (1884 - 1945) 
1. Chính sách thực dân 
2. Công cuộc kháng pháp của dân Việt Nam 
1. Chính sách thực dân 
Theo hoà ước 1884, chế độ cai trị của Pháp được phân biệt tùy miền. Nam kỳ 
thuộc địa, Bắc kỳ bảo hộ, Trung kỳ trú sứ. Nhưng trên thực tế cả ba miền đều bị 
chung dưới ách đô hộ như nhaụ Mọi quyền hành đều nằm trong tay người Pháp. 
Sau khi chiếm Việt Nam và Ai Lao, Cao Mên, Pháp thiếp lập chế độ thuộc địa 
chặt chẽ. Lúc đầu mỗi xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Ai Lao, Cao Mên) có một 
viên thủ hiến lo việc cai tri.. Đến năm 1887 Pháp thiết lập phủ Toàn quyền để 
thống nhất việc cai trị toàn vùng (Đông Dương). Tại mỗi xứ, cắt đặt như sau: 
Thống Đốc Nam kỳ, Khâm Sứ Trung kỳ, Khâm Sứ Cao Mên, Thống Sứ Bắc kỳ, 
Thống Sứ Ai Laọ Các viên chức này đều phải theo lệnh của viên Toàn Quyền. 
Dân chúng Việt Nam bị đầy đoạ khốn cực, bị bóc lột tận cùng, phải chịu khổ nhục 
để phục vụ lớp quan đô hộ, phải chịu sưu cao thuế nặng để bọn này hưởng thụ và 
chi dùng vào việc chém giết dân Việt. Hơn thế nữa, thực dân Pháp dùng mọi cách 
để phá huỷ cơ cấu văn hoá Việt. 
2. Công Cuộc Kháng Pháp Của Dân tộc Việt Nam 
Ngay khi ba tỉnh miền đông Nam kỳ bị thất thủ, nghĩa quân miền Nam nổi lên 
đánh Pháp, nhưng thế lực còn yếu nên đều bị thất bạị Tuy vậy, trong suốt thời gian 
bị đô hộ, dân Việt trên toàn quốc liên tiếp khởi nghĩa đuổi Pháp, qua các phong 
trào Cần Vương, Văn Thân, Đông Du, Duy Tân và các đảng phái quốc gia. 
* Miền Nam 
- Trương Công Định (Trương Định) 1860 - 1864 
Trương Công Định chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ ở Gò Công, đánh theo lối du 
kých, gây nhiều thiệt hại cho quân đi.ch. Trận lớn nhất là trận Cần Giuộc. Về sau 
bị tên Huỳnh Công Tấn phản bội, chỉ điểm cho Pháp vây đánh ông ở Kiến Phước 
(Gò Công). Trận này ông bị đạn rồi tự tử, năm 1864. 
- Nguyễn Trung Trực 1860 - 1868 
Nguyễn Trung Trực kháng chiến ở Tân An, Rạch Giá, chiến thắng lớn trong trận 
đốt tầu Pháp ở vàm Nhật Tảo (Tân An) và trận đánh thành Kiên Giang (Rạch Giá), 
sau lập chiến khu ở đảo Phú Quốc. Tên Việt gian Huỳnh Công Tấn bày mưu bắt 
mẹ ông, ông phải bỏ khí giới để cứu me.. Ông bị Pháp chém ở Kiên Giang (27-10-
1868) 
- Phan Tòng 1869 - 1870. Khởi nghĩa ở Hóc Môn, Gò Vấp, Ba Tri. 
- Tri Huyện Thoại (Đỗ Trinh Thoại) 1861. Hoạt động ở vùng Mỹ Tho, Cao Lãnh, 
Cai Lậỵ 
- Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) 1860 - 1886. Lập chiến khu ở Đồng Tháp 
Mườị Cuối năm 1886, ông bị mắc bệnh chết. 
- Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân) 1862 - 1875. Kháng chiến ở Mỹ Tho và 
Tân An. 
- Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng 1874 - 1875. Khởi nghĩa ở Trà Vinh. 
- Lê Tấn Kế, Trần Bình 1874 - 1875. Khởi nghĩa ở Ba Đô.ng. 
- Phan Tôn, Phan Liêm (con Phan Thanh Giản). Khởi nghĩa ở Vĩnh Long, Sa Đéc, 
Trà Vinh và Bến Trẹ 
- Quản Hớn, Nguyễn Văn Bường 1885. Khởi nghĩa ở 18 Thôn Vườn Trầu, Bà 
Điểm, Hóc Môn thuộc Gia Đi.nh. 
- Phan Văn Đạt, Lê Cao Dõng khởi nghĩa ở miền Nam, bị Pháp bắt và bị giết. 
* Miền Trung 
- Vua Hàm Nghi lãnh Đạo Phong Trào Cần Vương 
Vua Kiến Phúc mất, hai phụ chánh Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lập vua 
Hàm Nghi (1884). Chính phủ Pháp đòi tham dự vào việc phế lập và đòi triều đình 
Huế phải để Pháp phong vương cho vua Hàm Nghị Khi đó khắp nơi đều có nghĩa 
quân nổi lên và triều đình thì dùng dằng chưa quyết định thi hành hoà ước 1884. 
Tướng Pháp De Courcy bèn đem quân vào Huế bắt triều đình phải chịu nhận bảo 
hộ ngaỵ Triều đình chống lạị Đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4 tháng 7 năm 1885 
quân Nam tấn công dinh Khâm Sứ và đồn quân Pháp ở Mang Cá. Ngày hôm sau 
quân Nam thất thủ, phải bỏ kýnh thành. Tôn Thất Thuyết đem vua Hàm Nghi ra 
Quảng Trị, tiếp tục đánh Pháp. Nguyễn Văn Tường về Huế đầu hàng rồi lập Đồng 
Khánh lên làm vua. 
Vua Hàm Nghi ở Quảng Trị phát hịch kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp rồi 
lui về Tân Sở và tính ra Bắc nhưng không thành. Sĩ phu trong nước hưởng ứng rất 
đông, nổi lên ở nhiều nơị Đồng Khánh ở Huế nhiều lần sai người đi mời vua Hàm 
Nghi và chiêu dụ các cựu thần, nhưng không ai chịu về hàng Pháp. 
Về sau Pháp mua chuộc được tên hầu cận vua Hàm Nghi là Trương Quang Ngọc, 
tên này bắt vua nộp cho Pháp (1888), nhà vua bị Pháp đầy sang Algérie, thuộc địa 
Pháp ở Châu Phi. 
- Phan Đình Phùng 
Hưởng ứng hịch Cần Vương, Phan Đình Phùng được vua Hàm Nghi trao quyền 
chỉ huy nghĩa binh (1886). Sau khi vua bị bắt, ông tiếp tục kháng chiến và chỉ huy 
Phong Trào Văn Thân, lập chiến khu ở Ngà 
- Hoàng Hoa Thám 
Khi kháng chiến chống Pháp, Hoàng Hoa Thám được triều đình phong làm Đề 
Đốc nên thường gọi là Đề Thám. Năm 1886, ông lập chiến khu ở Yên Thế, Bắc 
Giang. Kháng chiến ròng rã 25 năm gây tổn thất nặng nề cho quân Pháp. Dân 
chúng rất ngưỡng mộ, gọi ông là hùm thiêng Yên Thế. Nhiều lần thế lực suy yếu, 
ông phải trá hàng, vào những năm 1894 và 1897, để chỉnh đốn hàng ngũ rồi lại 
tiếp tục đánh Pháp. Năm 1908, ông mưu đánh úp Hà Nội nhưng bị thất bạị Về sau 
quân Pháp mua chuộc thủ hạ của ông là tên Lương Tam kỳ, lập kế ám sát ông 
(1913). 
- Vua Thành Thái và Vua Duy Tân chống Pháp 
Vua Đồng Khánh chết non (1888, lúc 25 tuổi), Pháp lập vua Thành Thái con vua 
Dục Đức, lúc đó mới 10 tuổị Lớn lên, nhà vua hiểu rõ tình trạng đất nước nên 
phản đối Pháp và tìm cách liên lạc với các nhà cách mạng Việt Nam ở hải ngoại 
như kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Vì thế vua Thành Thái bị Pháp bắt thoái vị và bị 
đầy sang đảo Réunion (Phi Châu) (1907). 
Pháp lập Hoàng Tử Vĩnh San, mới 8 tuổi lên ngôi lấy hiệu là Duy Tân. Năm 1912, 
vua Duy Tân yêu cầu nước Pháp thi hành đúng tinh thần bản hoà ước 1884, nhưng 
không có kết quả. 
Năm 1916, nhà vua lãnh đạo đảng Tân Việt, cùng với các nhà ái quốc Trần Cao 
Vân và Thái Phiên để mưu việc khởi nghĩạ Kế hoạch bị bại lô.. Pháp đầy vua Duy 
Tân sang đảo Réunion. Các người tham dự vào kế hoạch khởi nghĩa đều bị Pháp 
giết hoặc bị đầỵ 
Sau đó, thực dân Pháp lập con vua Đồng Khánh (vị vua dễ sai bảo) lên ngôi năm 
1916, lấy hiệu là Khải Đi.nh. Năm 1925, Khải Định mất, con là Vĩnh Thuỵ, đang 
học tại Pháp, được gọi về lên ngôi, lấy hiệu là Bảo Đạị Ông này không thiết tha tới 
việc nước, nên đã ký thêm Hiệp định ngày 25 11 1925 trao mọi quyền hành cho 
viên Khâm sứ Huế và cho Tôn Thất Hân làm phụ chánh để lo việc cúng tế, rồi lại 
qua Pháp. Năm 1932, Bảo Đại về Việt Nam, nhưng chỉ lo ăn chơi, không có quyền 
hành gì cả. Mọi việc trong nước đều do viên Toàn Quyền Pháp nắm giữ. 
* Phong Trào Đông Du 
Sau khi Phong trào Cần Vương tan rã, nhà ái quốc Phan Bội Châu, người Nghệ 
An, đứng ra kết nạp các nghĩa sĩ Cần Vương còn sót lại (1902). Ông đi khắp trong 
nước tìm đồng chí để thực hiện chương trình giải phóng quốc dân. Ông thành lập 
hội Duy Tân và tôn kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cháu đích tôn vua Gia Long, làm 
Hội Chủ. Để khích động đám sĩ phu trong nước, Phan Bội Châu viết "Lưu Cầu 
Huyết Lệ", rất được truyền tụng, có công dụng làm sống lại lòng yêu nước của dân 
chúng. Các đồng chí quan trọng đã cùng Phan Bội Châu bôn ba khắp trong nước 
cũng như ngoại quốc là Trịnh Hiền, Lê Võ, Đặng Thái Thân, Thái Nam Xương, 
Trịnh Công Kiều, Chu Thư Đồng, Tôn Thất Toại, Đặng Nguyên Cẩm, Ngô Đức 
Kế, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, 
Lương Ngọc Can v.v... 
Năm 1904, Nga Nhật chiến tranh kết liễụ Sự thắng lợi vẻ vang của Nhật gây xúc 
động mạnh mẽ trong tầng lớp sĩ phu và các nhà ái quốc Việt Nam. Nhờ đó, 
khuynh hướng Đông Du (sang Nhật) cầu học được nhiều người hưởng ứng. 
Năm 1095, Phan Bội Châu cùng Tăng Bạt Hổ và Đặng Tử Kính khởi hành đi 
Hồng Kông, Thượng Hải rồi sang Nhật. Tại Nhật cụ Phan tiếp xúc với học giả 
Trung Hoa Lương Khải Siêu, đang tị nạn tại Tokyọ Lương Khải Siêu giới thiệu cụ 
với các chính khách Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Bá tước Đại Ôi (đã hai lần 
làm Thủ tướng). Cụ Phan ngỏ ý cầu viện nhưng bị từ chối. 
Cường Để sang Nhật năm 1906. Chương trình du học Nhật Bản được Nguyễn Hải 
Thần tích cực giúp đỡ. Về sau han Bội Châu và Phan Chu Trinh bất đồng ý kýến 
về kế hoạch cứu quốc. Phan Bội Châu chủ trương bài Pháp, dành độc lập. Phan 
Chu Trinh chủ trương bài quân chủ, dựa vào Pháp để cầu học Thái Tây, ông bỏ về 
nước cổ xuý cho lập trường của mình. 
Năm 1910, Pháp điều đình với Nhật trục xuất các nhà cách mạng và du học sinh 
Việt Nam. Phan Bội Châu phải chạy sang Trung Hoa, rồi bôn ba nhiều nơi: Xiêm 
La, Nam Dương. Khi được tin cách mạng Trung Hoa thành công (1911) cụ lại 
sang Tàu hoạt đô.ng. Năm 1912, cụ giải tán Duy Tân Hội để lập Việt Nam Quang 
Phục Hội, chủ trương Dân Chủ Cộng hoà. Hội giúp đỡ du học sinh và hô hào cách 
ma.ng. Năm 1913, Pháp (Toàn Quyền Sarraut) mưu với Đô đốc Quảng Đông là 
Long Tế Quang bắt giam Phan Bội Châụ Cùng năm đó, ở trong nước Hội Đồng 
Đề Hình Pháp xử 14 án tử hình, trong đó Phan Bội Châu và Cường Để bị tử hình 
vắng mặt. Năm 1917, Long Tế Quang bị quân cách mạng Trung Hoa đánh thua, cụ 
Phan được thả ra. 
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) âm mưu bắt cóc Phan Bội Châu ở 
Thượng Hải (Trung Hoa) giao cho Pháp. Phan Bội Châu bị Pháp kết án chung 
thân khổ saị Đồng bào toàn quốc biểu tình đòi tự do cho cụ, Pháp nhượng bộ, bắt 
cụ Phan an trí ở Huế. Phan Bội Châu mất năm 1940. 
Phong Trào Duy Tân 
Biến cố Nhật thắng Tàu năm 1894 và Nhật thắng Nga năm 1904, đã làm các dân 
tộc Châu Á thức tỉnh. Ỏ Trung Hoa, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi hô hào cải 
cách Duy Tân. Ỏ Việt Nam, các chí sĩ hăng hái trong phong trào Duy Tân, đề cao 
dân quyền gồm có Phan Chu Trinh, Đặng Tử Kính, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc 
Kháng, Ngô Đức Kế. 
Năm 1906, Phan Chu Trinh sang Nhật, gặp Phan Bội Châu; Nhưng hai người bất 
đồng ý kýến. Phan Chu Trinh trở về hoạt động trong nước. Năm 1908, nhân vụ 
biểu tình yêu cầu giảm nhẹ sưu thuế của dân các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, 
Thừa Thiên, một số nhân sĩ Trung, Bắc kỳ bị bắt, trong đó có Phan Chu Trinh. Cụ 
bị đầy ra đảo Côn Lôn. 
Năm 1911, nhờ Hội Nhân Quyền Pháp can thiệp Phan Chu Trinh được thạ Cụ qua 
Pháp, làm nghề chụp ảnh. Năm 1922, Khải Định sang Pháp, cụ gởi thơ chỉ trích, 
năm 1925, cụ về nước. Năm sau, Phan Chu Trinh mất ở Sài Gòn. 
Một tổ chức có ảnh hưởng rất nhiều cho công cuộc duy tân là trường Đông Kinh 
Nghĩa Thục. Trường mở ở Hà Nội năm 1907, do các ông Nguyễn Quyền, Ngô 
Đức Kế, Lương Ngọc Can, Dương Bá Trạc,& #272;ào Nguyên Phổ, Phan Huy 
Thịnh, Hoàng Tăng Bí... đứng ra tổ chức. Trường dạy miễn phí cho các thanh niên 
nam nữ cả ba thứ chữ Việt, Pháp, Hán. Việt văn, khoa học, công nghệ thường thức 
được chú trọng đặc biệt. Trường cũng thường tổ chức các buổi diễn thuyết về văn 
hoá, khoa học ... Trường soạn sách giáo khoa và các bài hát khích động lòng yêu 
nước, phát không cho dân chúng. 
Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ hoạt động được 9 tháng thì bị Pháp bắt đóng cửa. 
* Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 
Nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (con cụ Lương Ngọc Can, người sáng lập 
Đông Kinh Nghĩa Thục) đã từng học trường võ bị Chấn Võ ở Nhật Bản, tham dự 
vào đoàn quân cách mạng Trung Hoạ Bị người Anh bắt ở Hương Cảng rồi giao 
cho Pháp, bị giam ở Thái Nguyên. Trong ngục ông tiếp tục cổ động ái quốc, được 
nhiều người nghe theo, trong đó có Trịnh Văn Cấn là một hạ sĩ quan cấp Đội 
(trung sĩ) thuộc đơn vị Khố Xanh của Pháp ở Thái Nguyên. Lương Ngọc Quyến 
và Trịnh Văn Cấn định kế hoạch khởI nghĩạ Đêm 31 tháng 8 năm 1917, Trịnh Văn 
Cấn nổi lên lấy danh nghĩa Quang Phục quân, mang 200 binh lấy thành Thái 
Nguyên. Trịnh Văn Cấn được phong làm Quang Phục quân Đại Đô Đốc. Quân 
Pháp phải đem đại binh từ Hà Nội lên đánh. Quang Phục quân giữ Thái Nguyên 
được 3 ngày thì phải rút vào rừng. Lương Ngọc Quyến, vì bị Pháp tra tấn làm liệt 
chân, không theo nghĩa quân được nên tự tử. 
Trịnh Văn Cấn ẩn nấp trong vùng Tam Đảo, Yên Thế tiếp tục đánh Pháp được vài 
tháng. Đến khi quân bị hao mòn, thế lực suy tàn, Trịnh Văn Cấn tự tử ở vùng núi 
Phú Tho.. 
* Việc Ném Tạc Đạn ở Sa Điện, Quảng Châu 
Năm 1923, viên toàn quyền Đông Dương là Martial Merlin trên đường từ Nhật trở 
lại Việt Nam, ghé tớI Sa Điện, Quảng Châu (Trung Quốc) để dự bữa tiệc do Pháp 
kiều ở đây khoản đãi tại khách sạn Victoriạ Đương khi ăn, tên này bị nhà ái quốc 
Phạm Hồng Thái ném tạc đạn, nhưng hắn thoát chết. Bị thất bại, Phạm Hồng Thái 
nhẩy xuống sông tự trầm. 
* Cuộc khởi nghĩa Yên Bái 
Phan Bội Châu bị bắt năm 1925 và Phan Chu Trinh chết năm 1926 đã gây ảnh 
hưởng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là tầng lớp thanh niên trí thức. 
Năm 1927, một đảng chính trị cách mạng đầu tiên ra đời do Nguyễn Thái Học 
lãnh đạo. Nguyễn Thái Học đã từng tranh đấu ôn hoà với Pháp nhưng không có 
kết quả, nên ông chủ trương dùng võ lực. Vì thế, Việt Nam Quốc Dân Đảng được 
thành lập, với mục đích giành độc lập cho đất nước. Năm 1930, Việt Nam Quốc 
Dân Đảng định kế hoạch khởi nghĩa chiếm lại Bắc kỳ. Nguyễn Thái Học ra lệnh 
tổng khởi nghĩa vào ngày 10 2 1930, nhưng lệnh không tới ký.p các địa phương, 
nên cuộc khởi nghĩa không đúng ngày đã hoạch đi.nh. 
Đêm ngày mồng 9 rạng ngày mồng 10 tháng 2 năm 1930, chi bộ Yên Báy khởi 
công đánh các trại lýnh Pháp, giết được nhiều đi.ch. Đến sáng ngày hôm sau, quân 
Pháp phản công ký.ch liệt, nghĩa quân bị tan rã. 
Đêm mồng 9 tháng 2, Nguyễn Khắc Nhu đánh Hưng Hoá và Lâm Thao bị Pháp 
phản công mạnh, quân cách mạng thua, Nguyễn Khắc Nhu tự tử. 
Đêm mồng 10 tháng 2, Đoàn Trần Nghiệp (Kí Con) chỉ huy đánh Hà Nộị 
Đào Văn Thế chỉ huy mặt trận Thái Bình chiếm được huyện Phủ Dực. 
Đêm 15 rạng ngày 16 tháng 2, Trần Quang Diệu chỉ huy mặt trận Hải Dương 
chiếm huyện Vĩnh Bảọ 
Nguyễn Thái Học chỉ huy đánh đồn Phả Lại. 
Pháp dùng toàn lực không quân và bộ binh phản công, ném bom tiêu diệt làng Cổ 
Am nơi có nhiều quân cách ma.ng. Ỏ khắp nơi, nghĩa quân đều bị thất bạị Nguyễn 
Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Hải Dương) ngày 20 tháng 2. Ngày 17 tháng 6 năm 
1930, Nguyễn Thái Học và 12 nhà cách mạng Việt Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp 
chém tại Yên Bái. 
* Cuộc Khởi Nghĩa Lạng Sơn 
Trong đại chiến thứ hai (1939 1945) Pháp đầu hàng Đức. Nhật cùng phe với Đức, 
đánh chiếm Trung Hoa rồi tràn qua biên giới Việt Hoa ngày 22 8 1940. Nhân cơ 
hội đó, Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm chỉ huy đoàn quân Việt Nam Phục 
Quốc Hội nổi lên đánh quân Pháp ở Lạng Sơn và vùng lân cận. 
Nhưng về sau có sự thoả hiệp giữa Nhật và Pháp, quân phục quốc bị Nhật bỏ rơi, 
nên đã bị Pháp đánh thua. Trần Trung Lập bị bắt, Đoàn Kiểm Điểm tử trận. 
* Các Đảng Phái, Tổ Chức Chính Trị Khác 
Ngoài các tổ chức kháng Pháp kể trên, người Việt còn thành lập nhiều đảng phái, 
tổ chức chính trị khác để tranh đấụ 
- 1923, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long lập đảng Lập Hiến với chủ trương 
ôn hoà và bảo thủ. 
- 1930, Phạm Quỳnh tranh đấu ôn hoà. Kết quả, được Pháp mời làm thượng thự 
- 1925, Lê Văn Huân lập đảng Phục Việt, sau đổi tên là Tân Việt Cách Mạng 
Đảng. Hoạt động tích cực chống Pháp, bị Pháp và Cộng Sản tiêu diệt. 
- 1927, Nguyễn An Ninh tổ chức đảng bí mật ở Hóc môn có khuynh hướng Cộng 
Sản, bị Pháp bắt đầy ra Côn Lôn. 
- 1932, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch lập đảng, theo khuynh hướng Đệ Tứ Quốc 
Tế (Cộng Sản Đệ Tứ) hoạt động ở Sài Gòn. 
- 1937, Nguyễn Văn Thinh thành lập phong trào Dân Chủ ở Nam kỳ. 
- Lý Đông A thành lập đảng Đại Việt Duy Dân, có lý thuyết vững chắc nhưng tầm 
mức hoạt động hạn hẹp. 
- 1940, Nguyễn Tường Tam thành lập Đại Việt Dân Chính, (sau đổi tên là Đại 
Việt Quốc Xã) dựa vào thế lực Nhật Bản để chống Pháp, nhưng sau bị Nhật bỏ rơị 
Pháp thẳng tay đàn áp, một số đảng viên bị bắt, Nguyễn Tường Tam trốn sang Tàụ 
- 1941, Trương Tử Anh thành lập đảng Đại Việt Quốc Dân. Bị Pháp đàn áp, đảng 
bị suy sụp. 
- 1943 1944, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Vũ Đình Di lập Việt Nam Ái Quốc 
Đảng. 
- Vũ Đình Hoè, Dương Đức Hiền lập Dân Chủ Đảng. 
- 1945, Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiếu thành lập Đại Việt 
Quốc Gia Lyên Minh (gồm Việt nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Xã và các 
đảng phái quốc gia khác). 
Hầu hết đảng phái quốc gia không có nguyên lý hành động độc lập. Nhất là sinh 
hoạt chính trị chỉ lẩn quẩn ở trong tầng lớp xa rời quần chúng. 
Vào thời Việt Pháp chiến tranh, thói thường các nhà cách mạng Việt Nam mỗi khi 
bị truy lùng thường trốn sang Trung Hoa, nương náu ở vùng Hoa Nam giáp giới 
với nước Việt, như Quảng Châu, Nam Ninh, Vân Nam ... Trong thời gian Đại 
Chiến thứ hai, ở vùng này có người của các đảng: Phục Quốc, Việt Nam Quốc 
Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Dân, Đại Việt Duy Dân v.v. cùng 
các lãnh tụ có uy tín như: Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Lý Đông A ... Lúc 
đó chính phủ Trung Hoa có ý dung túng những nhà cách mạng Việt Nam vì muốn 
lợi dụng họ vào việc đối phó với Pháp về vấn đề quyền lợi ở Việt Nam. Người 
cầm quyền ở Quảng Đông là Trương Phát Khuê và Tiêu Văn được lệnh tập họp 
các nhà cách mạng Việt Nam vào một mặt trận duy nhất. 
Tháng 10 năm 1942 họp đại hội ở Lyễu Châu (Đông Dương Cộng Sản Đảng 
không được mời). Đại diện các đảng cách mạng đồng ý cùng gia nhập vào một 
mặt trận gọi là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Nguyễn Hải Thần được cử 
làm Chủ ti.ch. Nhưng vì bất đồng ý kýến, không thành lập nổi Ban Quản Trị 
Trung Ương. 
Tháng 3 năm 1944, đại hội lần thứ hai được thiết lập ở Liễu Châụ Lần này đại hội 
thoả thuận lập chính phủ Cộng Hoà Việt Nam Lâm Thờị Trương Bội Công được 
cử làm Chủ tịch và các uỷ viên gồm có Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Tùng 
Sơn, Nghiêm Kế Tổ, Bồ Xuân Luật, Hồ Chí Minh. Chủ trương đánh Phát xít Nhật 
và Thực dân Pháp để thâu hồi độc lập cho Việt Nam. 
Chính phủ lâm thời còn đang dùng dằng bàn kế hoạch, chưa quyết định hành động 
thì Hồ Chí Minh đã lợi dụng chiêu bài quốc gia đó tức tốc về Việt Nam vận động 
cướp chính quyền Trần Trọng Kim ngày 25 tháng 8 năm 1945. 
XXIV. Nhật tranh quyền đô hộ với Pháp ở Việt Nam 
Năm 1940, Pháp đầu hàng Đức, phải nhận để Nhật lập căn cứ chống Mỹ ở Việt 
Nam. 
Năm 1945, phe Trục Đức Nhật Ý yếu thế, Pháp ngầm chuẩn bị đánh đuổi Nhật 
khỏi Việt Nam. 
Ngày 9 3 1945 Nhật vội tấn công lật Pháp để giành quyền cai trị ở Việt Nam. 
Ngày 11 3 1945 vua Bảo Đại tuyên bố huỷ bỏ hoà ước Việt Pháp 1884, cuộc đô hộ 
của thực dân Pháp chấm dứt. 
Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, nhưng mọi quyền hành đều do Nhật nắm 
giữ. Nhật và Pháp cộng tác trong kế hoạch tiêu huỷ thực phẩm, gây nạn đói khủng 
khiếp ở Việt Nam vào tháng 3 năm 1945. Khoảng 2 triệu người bị chết đói. 
Tháng 8 năm 1945, Mỹ thả bom nguyên tử ở Nagasaki và Hiroshimạ Nhật đầu 
hàng ngày 15 - 8 - 1945. Nước Việt Nam bị quốc tế phân đôi, trao quyền cho Anh 
quản trị ở miền Nam và cho Trung Hoa ở miền Bắc. 
Từ ngày ấy, nước Việt bị rơi vào nạn chiến tranh giành giật giữa các thế lực đế 
quốc. 

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_cac_thoi_ky_lich_su_viet_nam.pdf