Tài liệu Giám sát và nghiệm thu kết cấu bê tông cốt thép toàn khối bê tông khối lớn
Tóm tắt Tài liệu Giám sát và nghiệm thu kết cấu bê tông cốt thép toàn khối bê tông khối lớn: ...đầm lèn đảm bảo tính liền khối của kết cấu. Đối với kết cấu có chiều dày trên 20cm và bê tông khối lớn cần đặt cần đặt lưới thép (ô lưới 5-10mm) và có khuôn chắn. Mạch ngừng thi công theo chiều thẳng đứng hoặc theo chiều nghiêng cần cấu tạo bằng lưới thép, hoặc bằng các băng cách nước bằng c... quá trình thi công khoan lỗ, lắp dựng cốt thép, ống kiểm tra siêu âm, ống đặt sẵn để khoan lấy lõi đáy cọc (nếu có), cẩu lắp ống đổ bê tông và sàn công tác...Bề dày lớp cặn lắng đáy cọc không quá trị số sau: Cọc chống ≤ 5 cm; Cọc ma sát + chống ≤ 10 cm; 9.2.2 Kiểm tra dung dịch khoan bằng...hiệt độ ΔT của khối bê tông trong những ngày đầu đóng rắn: Đưa nhiệt trong khối bê tông ra ngoài; Bọc vật liệu cách nhiệt để giữ nhiệt khối đổ; Chia nhỏ khối đổ để thi công; Chống xung nhiệt khi tháo dỡ cốp pha; Chống mất nhiệt nhanh ở các gờ cạnh và góc kết cấu. Dưới đây là nội dung c...
hi công cáp có bám dính . Cáp có bám dính hay còn gọi là cáp trần dùng trong công nghệ căng sau được đặt trong các ống kim loại mềm trước khi đổ bê tông. Kích thước và vị trí ống đặt cốt thép hoặc cáp phải chọn lớn hơn đường kính cốt thép ƯLT và thuận tiện cho việc luồn cáp và việc bơm vữa sau khi kéo căng. Bản đế neo ở hai đầu phải đặt vuông góc với trục của đường ống. Cần bố trí các thép giá đỡ ống đảm bảo chắc chắn, neo vào cốt thép thường để không bị xê dịch trong quá trình đổ bê tông. Khoảng cách giữa các giá định vị không được lớn hơn 1m đối với ống thép trơn; không được lớn hơn 0,8m đối với ống gợn sóng và không quá 0,5m đối với ống cao su. Cần bố trí các ống thông hơi và thoát nước tại các vị trí đỉnh cao và ở đầu cuối của ống. Khoảng cách các lỗ bơm vữa không nên quá 30m đối với ống có gợn sóng và không quá 12m đối vơí các loại ống khác. Bố trí các đầu neo, các đầu kéo căng phải phù hợp với yêu cầu thiết kế. Trường hợp thiết kế không có yêu cầu cụ thể thì nhà thầu phải đề xuất trình tự căng cáp, nhưng phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Đối với cốt thép đặt trong ống kim loại có gợn sóng dạng cong và thẳng có chiều dài không quá 30m thì có thể áp dụng kéo một đầu. - Đối với cốt thép trong ống kim loại không có gợn sóng đặt cong hay đặt thẳng có chiều dài lớn hơn 24m thì phải thực hiện kéo căng hai đầu. - Khi cốt thép gồm nhiều bệ cáp được kéo một đầu thì nên bố trí các đầu kéo căng sang cả hai đầu. Trong mọi trường hợp không để các ống luồn cáp bị các tia lửa điện tác động. Công tác bơm vữa vào ống luồn cáp. Sau khi căng cáp phải kịp thời bơm vữa vào ống luồn cáp. Thời gian kể từ khi đặt cốt thép ƯLT vào ống đến khi kết thúc bơm vữa không được vượt quá 14 ngày. Nếu quá thời hạn nêu trên nhà thầu phải có biện pháp chống rỉ kịp thời cho cốt thép. Công tác bơm vữa chỉ được tiến hành sau khi được kiểm tra chất lượng theo những yêu cầu nhất định. Không được bơm vữa trong đIều kiện nhiệt độ môi trường thấp hơn 50C. Công tác kiểm tra vữa bơm tại hiện trường cần đảm bảo các yêu cầu sau: - Sự phù hợp của vữa bơm phải được thực hiện trước khi bơm ít nhất 24 giờ. - Trong mỗi ca bơm phải tiến hành kiểm tra độ nhớt của vữa ít nhất 3 lần. - Kiểm tra độ tách nước phải được thực hiện một lần trong mỗi ca bơm. Trước khi bơm vữa vào ống phải rửa sạch và làm ướt đường ống bằng nước sạch, đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng về nước cho vữa bê tông. Quá trình bơm cần được tiến hành từ dưới lên trên . Đối với ống đứng và ống xiên thì điểm bơm phải đặt ở vị trí thấp nhất của đường ống. áp lực bơm không được vượt quá 1,5 MPa, vận tốc bơm cần duy trì ở mức 6m/phút. Trong quá trình bơm phải mở các lỗ thoát khí và kiểm tra độ thông suốt của vữa chảy trong ống. Khi kiểm tra thấy trong ống đầy vữa mới được ngừng bơm. Nếu phát hiện những sai sót trong quá trình bơm thì phải tiến hành lấy vữa ra khỏi ống và lập lại tiến trình bơm. Công tác bịt đầu neo phải được tiến hành kịp thời sau khi kết thúc công tác bơm vữa bảo vệ cốt thép ƯLT. • Công nghệ thi công cáp không bám dính (cáp có vỏ bọc). Công nghệ căng sau dùng cho trường hợp cáp không bám dính ngoài các yêu cầu chung cho công nghệ căng sau còn cần tuân thủ các yêu cầu sau đây: Cốt thép trước khi đưa và sử dụng cần được kiểm tra từng sợi cáp nhằm đảm bảo tính nguyên vẹn của vỏ bọc. Cần loại bỏ những sợi cáp có vỏ bọc bị dập vỡ có hiện tượng mỡ đã chảy ra. Khi đặt cốt thép cần sử dụng các con kê bằng các thanh thép thường đường kính từ 6-8mm và được neo chắc vào các cốt thép thường. Khoảng cách các con kê không được vượt quá 1m hoặc 60 lần đương kính cốt thép ƯLT. Neo và các phụ kiện đầu cuối của cốt thép phải được bảo vệ chống rỉ, xâm thực của môI trường trong suốt quá trình trước và sau khi bịt đầu neo. Các biện pháp bảo vệ cốt thép, neo, các phụ kiện phải tuân thủ các yêu cầu của thiết kế nhất là khi thi công ở những địa đIểm chịu ảnh hưởng của môi trường xâm thực như nơi có độ ẩm cao thường xuyên, nơi sản xuất các hoá chất ăn mòn kim loại, vùng ven biển. Việc kiểm tra, giám sát chất lượng công tác đặt thép, căng thép, ghi chép số liệu và cắt thép, bịt đầu neo phải được tiến hành thật nghiêm chỉnh theo đúng các yêu cầu của thiết kế và các tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành. 3.4 Công tác an toàn và nghiệm thu. Các thiết bị dùng cho thi công bê tông ƯLT phải được kiểm tra và vận hành thử đảm bảo độ an toàn và độ chính xác cao trong suốt quá trình thi công. Công nhân vận hành thiết bị phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình và hướng dẫn kỹ thuật về công nghệ thi công bê tông ƯLT. Trong khi tiến hành kéo căng tuyệt đối không ai được đứng phía sau kích. Công nhân làm công tác cắt thép bằng máy mài tốc độ cao, trộn vữa, bịt đầu neo trong công nghệ căng sau tại công trình phải đeo dây an toàn và đeo kính bảo hiểm cũng như các yêu cầu khác về an toàn khi làm việc trên cao, khi sử dụng điện, khi sử dụng thiết bị nâng v.v Các phần việc về thi công bê tông ứng lực trước được nghiêm thu theo đúng các trình tự như đối với các kết cấu bê tông thường ngoài ra còn phải đảm bảo sự chính sác của các văn bản sau đây: - Các chứng chỉ hợp chuẩn về chất lượng của vật liệu (cốt thép, neo), về độ chính xác và độ tin cậy, độ an toàn của thiết bị - Các bản ghi kết quả căng thép có xác nhận của thiết kế. - Các bản vẽ hoàn công và biên bản xử lý kỹ thuật hoặc các sự cố nếu có tại hiện trường. 4. Bơm vữa 4.1 Chuẩn bị bơm vữa Dựa trên kết qủa duyệt kéo căng và cắt cáp, cắt các đoạn cáp thừa bên ngoài được cắt theo giá trị lớn hơn của hai lần đường kính cáp và 20mm. Trước khi bơm vữa 24h, đầu neo phải được đắp kín bằng vữa ximăng để tránh rò rỉ trong quá trình bơm. Phần lõm của đầu neo được lắp đầy bằng vữa của bêtông, tốt nhất là sử dụng loại vữa bêtông cùng mác như bê tông công trình. Nếu có yêu cầu, nước được bơm vào trong đường cáp và kiểm tra nước thoát ra ở tất cả các vòi bơm vữa. Trong trường hợp có bất cứ ống nào hơi bị tắc hoặc tắc hoàn toàn, cần làm sạch trước khi bơm vữa. 4.2 Quy trình trộn vữa Trộn vữa bằng máy bơm vữa , là loại máy khuấy tròn và có cánh. Kiểm tra tình trạng máy trộn trứơc khi sử dụng. Cho nước vào máy trộn tới mực yêu cầu. Khởi động máy bơm vữa và thêm vào phụ gia Sikament NN theo lượng đã định sẵn. Sau đó thêm ximăng vào từng bao một theo lượng định sẵn và trộn trong khoảng 2 phút. Thêm lượng phụ gia Sika Intraplast Z đã định sẵn vào và trộn khoảng 2 phút nữa cho tới khi hỗn hợp vữa đều rồi bơm vữa vào ống. Nếu cần có thể dùng lưới lọc trong chu trình bơm tuần hoàn để loại bỏ ximăng cục chưa tan có trong vữa. Các thí nghiệm vữa sẽ được thực hiện theo yêu cầu của kỹ sư. 4.3 Quy trình bơm vữa Vữa được bơm vào ống đầu vào trên thân neo của đầu kéo. Phải kiểm tra vữa tại các đầu ra cho đến khi vữa không còn bọt khí và thành phần của vữa đều giống như trong máy trộn trước khi đóng ống. Quá trình bơm vữa cho mỗi đường cáp nên được thực hiện liên tục. Nếu quá trình bị ngưng giữa chừng trên 2h, đường ống cần phải bơm nước rửa sạch trước khi tiếp tục bơm lại. Sau khi vữa đã thấy vữa chảy ra ở cuối đường cáp, ống bơm được đóng lại và duy trì áp lực xấp xỉ 0.7-Mpa hoặc 7-bar trong khoản 15 giây. Tất cả các vòi bơm vữa phải được cắt ra bằng bề mặt bêtông chuyển đi trong vòng 24h sau khi bơm vữa. Ghi lại quá trình bơm vữa trong báo cáo bơm vữa. 4.4 THỬ VỮA (Các công việc được đánh dầu ‘bởi NTC’ sẽ do nhà thầu chính thực hiện) 1 Độ sệt Kiểm tra độ sệt của vữa bằng phễu hình nón. Thời gian chảy được đo bằng đồng hồ bấm giờ. Thời gian được bấm ngay lúc vữa ngưng chảy. Việc đo đạc được thực hiện trực tiếp và trong khoảng thời gian 15 phút sau khi trộn vữa, thời gian để vữa chảy là từ 12-28 giây. Nếu bị lỗi, nghĩa là khi thời gian chảy của vữa dài hơn 28 giây, cho thêm nước vào. Thí nghiêm được tiến hành cho mỗi mẽ trộn. 2 Độ rỉ nước Công tác đo đạc được thực hiện để đo lường tính hiệu quả của các chất phụ gia. Kiểm tra độ rỉ nước bằng các hộp Plexiglas (đường kính 65mm, cao 440mm, độ chia đến 10ml). Hộp phải được đăt trên mặt phẳng. Đổ vữa vào hộp đến mức xấp xỉ 800mm rồi đọc con số chính xác. Giá trị này được ghi vào báo cáo thí nghiệm. Sau 3-24h, đo độ rỉ nước và báo cáo. Độ rỉ nước (%): h x1001Δ Độ rỉ nước không được phép vượt quá 2% sau 3h, không vượt quá 4% sau 4h. Nước sẽ đựơc hấp thụ hết sau 24 giờ. Nếu quá giá trị cho phép trên thì chất lượng vữa là không đạt yêu cầu, thay đổi công thức pha vữa và làm lại thí nghiệm. Quá trình kiểm tra này chỉ được thực hiện lần đầu cho sự pha chuẩn của thiết kế bơm vữa 3 Đo cường độ chịu nén của vữa. Cường độ chịu nén của vữa được đo khi thử lần đầu. Sau khi độ đầy vữa, đậy khuôn lại bằng tấm kim loại. Mỗi ca làm việc 8h lấy 2 tổ mẫu 6 viên. Sau 18-24h tháo mẫu ra khỏi khuôn và bảo quản mẫu trong môi trường ẩm hoặc ngâm trong nước. Độ nén được đo sau 7 và 28 ngày, mỗi lần thử 3 mẫu. Theo đúng tiêu chuẩn, độ nén của khối vữa sau 28 ngày tối thiểu là 30 Mpa. Thí nghiệm này được thực hiện mỗi ngày khi bơm vữa. E KẾT CẤU NHÀ CAO TẦNG GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG VÀ NGHIỆM THU. 1. Đặc điểm kết cấu nhà cao tầng. Đặc điểm nổi bật kết cấu chịu lực nhà cao tầng ở chỗ có khả năng chịu các tác động của tảỉ trọng ngang rất lớn. Bởi vậy định nghĩa về nhà cao tầng về phương diện chịu lực không chỉ phụ thuộc vào số tầng. Tiêu chuẩn mỗi nước có các định nghĩa khác nhau. Ví dụ theo các tiêu chuẩn tính toán kết cấu hiện hành trong nước thì những ngôi nhà có chiều cao từ 40m trở lên cần phải xét đến thành phần động của tải trọng gió. Như vậy nếu xét đến tải trọng động đất nữa thì nội lực sinh ra do tải trọng ngang sẽ chiếm tỷ lệ lớn trong các kết cấu chịu lực của ngôi nhà. Từ đó việc thiết kế các hệ kết cấu chịu lực cũng phải được tuân theo các quy tắc riêng khác biệt với thiết kế nhà thấp tầng. Khi số tầng tăng thì tải trọng thẳng đứng tăng nhanh trong các kết cấu chịu lực như cột, tường. Mặc dù bê tông là vật liệu có ưu việt nổi bật về khả năng chịu nén dọc trục, song dưới tác động của các loại tải trọng ngang sinh ra các mô uốn khá lớn trong cột, tường đến mức việc sử dụng kết cấu bê tông đôi khi không còn hợp lý nữa. Một trong các đặc đIểm quan trọng nữa là trong kết cấu nhà cao tầng thường bao gồm nhiều bộ phận chịu lực khác biệt nhau về độ cứng chống uốn và chống trượt (khung, tường, lõi, bản sàn). Các kết cấu này luôn phải được liên kết với nhau để tạo thành một hệ chịu lực thống nhất cùng chịu các tác động của các loại tải trọng đứng và tải trọng ngang. Bởi vậy trong tính toán, thiết kế cấu tạo các hệ chịu lực phải luôn dảm bảo tính liên tục và thống nhất của một hệ kết cấu được lựa chọn. Độ cứng, độ ổn định của ngôi nhà nói chung và của kết cấu nói riêng đòi hỏi không chỉ hệ kết cấu thân nhà mà cả phần đế nhà phải đảm bảo khả năng chống biến dạng, chuyển vị, chống lật, chống nghiêng của ngôi nhà theo các tiêu chuẩn nhất định. 2. Các hệ kết cấu và sơ đồ tính toán nhà cao tầng. Để có thể hiểu rõ tầm quan trọng về phương diện chịu lực của kết cấu ta hãy xem sét một số hệ thống kết cấu chịu lực thường gặp trong các giải pháp thiết kế nhà cao tầng. Căn cứ vào hình dạng, kích thước, vị trí và vai trò chịu lực của kết cấu được sử dụng trong công trình có thể có các hệ chịu lực sau đây: 4 Hệ khung; 5 Hệ tường (vách) ; 6 Hệ lõi ( hộp ); 7 Các hệ hỗn hợp: khung-vách, khung-lõi, khung-vách-lõi v. v được kết hợp từ cơ bản khung, tường, lõi. Việc lựa chọn hệ chịu lực thường phụ thuộc vào chiều cao, giải pháp kiến trúc và công nghệ xây dựng ngôi nhà. Một vài hệ chịu lực thông dụng được bố trí trên mặt bằng và mặt cắt ngôi nhà được thể hiện trên hình. Để tiện cho việc tính toán người ta thường đưa về 3 sơ đồ tương ứng với việc bố trí các bộ phận kết cấu khác nhau trong nhà cao tầng. 8 Sơ đồ khung: như mọi hệ khung nhiều tầng nhiều nhịp trong kết cấu bê tông đổ liền khối thường chỉ dùng hệ khung nút cứng. Trong thực tế ít gặp nhà có hệ khung thuần tuý vì hệ này có độ cứng uốn thấp so với các hệ khác. Hệ này chỉ thích hợp cho các ngôi nhà có chiều cao dưới 40 m. 9 Sơ đồ khung-giằng: trong hệ kết cấu này khung cột được sử dụng như bộ phận thứ yếu trong chịu tải trọng ngang. Tải trọng ngang chủ yếu do các kết cấu vách, lõi chịu. Sơ đồ tính toán này có thể áp dụng hầu hết các nhà cao tầng có chiều cao tương đối lớn (30-50 tầng). 10 Sơ đồ giằng: khi tính toán ngôi nhà với tải trọng ngang cho dù trong các kết cấu chịu lực khung, vách, song độ cứng uốn của các kết cấu này rất nhỏ so với độ cứng uốn của kết cấu một hệ thống các lõi (hộp) và có thể bỏ qua ta thường dùng sơ đồ giằng. Sơ đồ này thường được áp dụng có hiệu quả cho các ngôi nhà có chiều cao lớn. Trong các sơ đồ tinh toán nhà cao tầng (hình 3) các kết cấu sàn các tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền tải trọng ngang và phân phối nội lực trong các bộ phận kết cấu. Nó được xem là những thanh giằng ngang liên kết khớp hai đầu với các bộ phận kết cấu với giả thiết không bị biến dạng trong mặt phẳng nằm ngang. Các ngôi nhà cao tầng đã và đang được xây dựng tại Việt nam thường dùng sơ đồ khung giằng trong tính toán và thiết kế các hệ chịu lực. Tuỳ thuộc vào công nghệ xây dựng kết cấu phần thân người ta còn phân chia theo các sơ đồ kết cấu bê tông đổ toàn khối, lắp ghép và bán lắp ghép. Tuy nhiên với 3 sơ đồ tính toán nêu trên đều có thể sử dụng cho các hệ chịu lực được xây lắp theo các công nghệ khác nhau. Ngày nay với sự trợ giúp của các phần mềm tính toán các hệ kết cấu chuyên dụng trên máy vi tính ta có thể về lý thuyết có thể tính toán cho bất cứ hệ chịu lực nào. Tuy vậy sự phân chia rành rọt theo các sơ đồ tính toán vẫn còn cần thiết trong việc phân tích, đánh giá về khả năng chịu lực ,về sự làm việc thực của từng bộ phận cũng như cả hệ kết cấu chịu lực trong nhà cao tầng . 3. Giám sát và kiểm tra chất lượng phần thân. Thi công kết cấu bê tông cốt thép đổ liền khối phần thân ngoài các yêu cầu chung như các kết cấu bê tông thông thường còn cần tuân thủ các chỉ dẫn và yêu cầu trong TCXD 202-1997- Thi công phần thân nhà cao tầng. Công tác giám sát ,kiểm tra chất lượng và nghiệm thu các bước xây dựng nhà cao tầng nói chung và kết cấu phần thân nhà cao tầng nói riêng cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật có liên quan với yêu cầu đặc biệt về độ chính xác, các sai số cho phép đối với mọi bộ phận và mọi kết cấu chịu lực. Chất lượng bê tông và mác thiết kế bê tông cần phải tuân thủ đúng yêu cầu thiết kế, đảm bảo độ đồng nhất cao của bê tông trong cấu kiện, trong kết cấu trên mọi cao độ thiết kế. Mọi phương án kỹ thuật thi công phải luôn đảm bảo về cường độ và chuyển vị của các kết cấu dầm sàn không vượt quá 50% giới hạn độ võng cho phép cũng như không cho phép có vết nứt trong các kết cấu trước khi chịu tải trọng sử dụng. Đối với những kết cấu dầm và cong-xon có chiều cao tiết diện ≥ 700mm cần đặc biệt chú ý tới các mạch dừng thi công và các biện pháp chống co ngót trong quá trình bê tông đông cứng. Cần phải hạn chế việc sử dụng các loại phụ gia nhất là phụ gia đông cứng nhanh đối với các kết cấu chịu uốn và chịu kéo. Phải thường xuyên đIều chỉnh các biện pháp thi công bê tông theo chiều cao nhà, nhất là khi dùng bê tông bơm lên độ cao từ 30m trở lên. Phải điều chỉnh và kiểm tra độ sụt của vữa bê tông bơm theo chiều cao. Phải theo dõi, giám sát chặt chẽ việc lấy mẫu, thử mẫu bê tông lấy tại hiện trường. Khi phát hiện những khuyết tật trên bề mặt bê tông và có những dấu hiệu về giảm chất lượng bê tông cần phải tiến hành các biện pháp kiểm tra mác bê tông bằng các phương pháp thử nhanh tại hiện trường để kịp thời đánh giá hoặc khắc phục hậu quả nếu có. Những công việc này cần thiết phải được thông báo với tư vấn thiết kế. Khi đổ bê tông cùng một lúc khối lượng lớn bêtông (trên 200m3) hoặc khi diện tích mặt sàn trên 500m2 cần đặc biệt chú ý tới công tác bảo dưỡng sau khi đổ bê tông. Cần đặc biệt chú ý tới các vị trí xung yếu trong các kết cấu chịu lực như các nút khung, các điểm liên kết giữa dầm, sàn với tường, vách lõi cứng. Khi hàm lượng cốt thép trong các tiết diện kết cấu vượt quá 3% cần đặc biệt chú ý tới việc đặt cốt thép tại các nút khung tại các tiết diện có nối thép trong cột, nhất là ở những cột tầng dưới. Trường hợp số lượng cốt thép quá dày đặc gây khó khăn cho việc đổ bê tông nên kiến nghị với thiết kế thay đổi chủng loại bằng việc dùng thép có cường độ cao hơn để thay thế , thậm chí có thể thay bằng cốt thép cứng. 4. Giám sát và kiểm tra chất lượng phần đế nhà cao tầng. Trong xây dựng nhà cao tầng, nhằm đảm bảo khả năng chống lật, nhất là trong các trường hợp dùng các loại móng hộp, móng bè đặt trên nền đất, đá thiên nhiên, phần kết cấu từ cao độ 0,000 xuống đến đáy móng hay đáy đài móng cọc thường được mở rộng hơn so với diện tích mặt bằng phần thân nên được xem như phần đế nhà. Trong phạm vi đế nhà thường bao gồm những những khối thấp tầng hoặc các tầng hầm. Diện tích mặt bằng đế nhà thường lớn hơn mặt bằng khối cao tầng và trong thực tế thường được liên kết toàn khối với các kết cấu khối cao tầng không có các khe biến dạng hay khe lún. Ngoài các sàn, khung, vách, lõi, cột thuộc phạm vi đế nhà còn đặc biệt chú ý tới các kết cấu nền đế nhà và hệ thống tường vây dọc theo chu vi phần chìm dưới cao độ san nền của đế nhà. Cần chú ý tới những đặc điểm sau đây trong quá trình giám sát chất lượng kết cấu phần đế nhà : 11 yêu cầu chống thấm cao cho nền và tường tầng hầm , 12 với khối lượng lớn bê tông phần nền tầng hầm thường được thi công cùng với đế móng, hoặc đài cọc đòi hỏi phải phân chia thành nhiều đợt đổ bê tông bởi các mạch dừng thi công. Các mạch dừng phải được bổ trí hợp lý, tránh cắt ngang quá nhiều các tiết diện nguy hiểm của các kết cấu chịu lực như dầm, giằng móng, 13 các yêu cầu kỹ thuật và vật liệu dùng để chống thấm trong các tầng hầm và trong các mạch dừng thi công, 14 các yêu cầu kỹ thuật đối với các các kết cấu dùng cho các hệ thống kỹ thuật điện, nước, điều hoà không khí, phòng chống cháy nằm trong phạm vi kết cấu đế nhà, 15 hàm lượng cốt thép lớn trong các kết cấu chịu lực của đế nhà (cột , vách, lõi cứng); 16 chất lượng thi công, phương án bảo vệ hố đào ảnh hưởng đến chất lượng thi công các kết cấu đế nhà, - sự phức tạp trong việc nghiệm thu từng phần các công đoạn thi công tại các vị trí không thuận tiện dưới các độ sâu lớn khó kiểm tra , khó quan sát và đo đạc. Tại những vị trí này ngoài việc ghi chép các số liệu còn cần thiết ghi lại bằng hình ảnh hiện trạng kết cấu làm cơ sở cho việc nghiệm thu các phần khuất sau khi đã đổ bê tông, - tầm quan trọng của công tác kiểm tra độ thẳng đứng hoặc độ nghiêng nếu có của phần đế nhà để kịp thời điều chỉnh tim, trục kết cấu khi tiếp tục thi công phần thân. Đế nhà thường được thi công theo một trong các công đoạn riêng biệt trong toàn bộ ngôi nhất là được phân chia theo một gói thầu riêng thì việc việc lập các hồ sơ hoàn công và các văn bản nghiệm thu kỹ thuật phải được tiến hành kịp thời và chính xác. Việc đánh giá chất lượng của hệ thống kết cấu chịu lực phải được tiến hành đồng thời cho cả phần thân và đế nhà. Các số liệu quan trắc lún, nghiêng và biến dạng của công trình, hay của từng bộ phận kết cấu được tiến hành trong các giai đoạn thi công ngôi nhà thường là những cứ liệu quan trọng trong việc đánh giá chất lượng thi công, giám sát xây dựng công trình. Trong quá trình thi công các kết cấu đế nhà khi phát hiện những sai lệch về kích thước, tim trục, những khuyết tật trên bề mặt bê tông, những hiện tượng thấm trên mặt nền, bên trong tường tầng hầm phải kịp thời lập biên bản và đề nghị ngừng thi công để xử lý trước khi được tiếp tục thi công phần thân.
File đính kèm:
- tai_lieu_giam_sat_va_nghiem_thu_ket_cau_be_tong_cot_thep_toa.pdf