Tài liệu Lịch sử kiến trúc - Các thành phần thẳng đứng

Tóm tắt Tài liệu Lịch sử kiến trúc - Các thành phần thẳng đứng: ... 3. Bên trong tòa nhà một mặt bằng tự do có thể được dùng. 4. Không gian nội thất có thể được xác định bằng các tường không chịu lực, sự xếp đặt của chúng có thể là tuy ý tùy theo chương trình của tòa nhà. { Các phác thảo minh họa cho “5 điểm của kiến trúc mới” của Le Corbusier { Tòa nhà của...H CHỮ “L” { Một cấu trúc các mp tạo thành hình chữ “L” xác định một trường không gian dọc theo đường chéo từ góc của nó trở ra. Trong khi trường này được xác định và được bao bọc rõ ràng tại góc của hình, nó bị biến mất nhanh chóng khi nó dịch chuyển ra khỏi góc của mình. { Trường hướng nội...{ Tòa nhà Khoa Lịch sử tại Cambridge sử dụng một khối bảy tầng, dạng “L” để bao bọc (về cả mặt biểu tượng và công năng) một thư viện lớn, có chiếu sáng từ trên mái- khôngian quan trọng nhất của tòa nhà { Không gian bên ngòai của Xưởng thiết kế kiến trúc ở Helsinki: { một nhà hát có nền ...

pdf70 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 132 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Lịch sử kiến trúc - Các thành phần thẳng đứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỊCH SỬ 
KIẾN TRÚC - 
CÁC THÀNH 
PHẦN 
THẲNG 
ĐỨNG 
CÁC THÀNH PHẦN THẲNG 
ĐỨNG
Các hình thức thẳng
đứng thường tích cực
trong trường thị giác của
chúng ta hơn các thành
phần nằm ngang và vì
vậy chúng là các công cụ
hữu hiệu xác định khối
tích của một không gian
và cung cấp cảm giác
được bao bọc mạnh mẽ
cho bên trong nó
Các thành phần thẳng đứng
cũng phục vụ như các thành
phần nâng đỡ sàn, mái nhà. 
Chúng kiểm sóat tính liên tục
thị giác và không gian giữa
nội thất của công trình và
ngọai thất. Các thành phần
thẳng đứng hoạt động như
bộ lọc không khí, ánh sáng, 
tiếng ồn, thông qua không
gian nội thất của tòa nhà.
XÁC ĐỊNH 
KHÔNG GIAN 
VỚI CÁC 
THÀNH PHẦN 
THẢNG ĐỨNG
XÁC ĐỊNH KHÔNG GIAN VỚI CÁC 
THÀNH PHẦN THẢNG ĐỨNG
1. Các thành phần thẳng đứng tuyến tính có thể xác định
các cạnh đứng của một khối tích. 
2. Một mặt thẳng đứng sẽ kết tụ không gian mà nó quay 
mặt lại
3. Một dạng không gian cấu tạo dạng “L” sản sinh ra một
trường không gian từ góc của nó hướng ra đường chéo
4. Các bề mặt song song xác định một thể tích không
gian giữa chúng. Không gian đó hướng về các bề mặt
mở của cấu trúc.
5. Một dang cấu hình không gian chử “U” xác định một
khối tích hướng về phía bề mặt mở của cấu hình.
6. Bốn mặt phẳng (thẳng đứng) bao bọc một không gian
hướng nội và kết tụ trường không gian quanh bề mặt
bao. 
CÁC THÀNH PHẦN THẲNG ĐỨNG TUYẾN 
TÍNH
{ Một thành phần thẳng
đứng như là một cột thiết
lập một điểm trên bình
diện nền và biến nó
thành nhìn thấy được
trong không gian. 
{ Đứng một mình một cột
vô hướng ngoại trừ
đường dẫn tới nó. 
{ Khi đặt trong một khối tích, một cột sẽ kết tụ không
gian xung quanh nó và tương tác với tường bao. 
{ Một cột có thể gắn vào tường. 
{ Có thể củng cố góc của một không gian
{ Đứng độc lập cột có thể xác định các vùng của
không gian trong phòng.
{ Khi được đặt ở tâm của một căn phòng, cột sẽ
khằng định bản thân nó như là tâm của không
gian và cân băng các vùng không gian. 
{ Khi rời khỏi tâm nó sẽ xác định các vùng theo
tầng bậc (hierarchical zones) của không gian, 
khác nhau về kích thước hình thức và vị trí
{ Không có không gian nào có thể được thiết lập mà
không có sự xác định các cạnh và góc. Các thành phần
tuyến tính phục vụ mục đích này
{ Nó còn xác định tính liên tục thị giác và không gian với
môi trường xung quanh. 
{ Hai cột xác định một bề mặt, một màng trong suốt
được tạo thành bởi độ căng thi giác giữa chúng. 
{ Ba cột họăc nhiều hơn có thể xác định các góc của
một không gian. 
{ Các cạnh của một không gian có thể được củng cố bằng
bình diện nền của nó hoặc bằng các dầm giữa các cột
hoặc với một mặt phẳng mái. Các cạnh xác định khối tích
có thể được tăng cường bằng việc lặp lại các cột dọc
theo chu vi của nó. 
{ Các thành phần thẳng đứng có thể được dùng để ngắt
đoạn một trục, đánh dấu trung tâm của không gian đô thị
Quảng trường thánh Peter. Rome. KTS Bernini
{ Quảng trường Piazza Del Campo. Siena
{ Thành phần thẳng đứng cung cấp một điểm tụ cho một
không gian đô thị dọc theo cạnh của nó. 
{ Các tháp hồi
giáo được sử
dụng để đánh
dấu các góc của
một khôi tích và
thiết lập trường
không gian. 
{ Taj Mahal, Ấn độ. Hoàng Đế Shan Jahan
CỘT TRONG KHÔNG GIAN
{ Bốn cột có thể được dùng để xác định không gian bên
trong một phòng hoặc để kết hợp các góc của nó. 
{ Ở biệt thự Sea Ranch, bốn cột dọc theo một
sàn được hạ thấp và một trần xác định một
không gian alcove thân mật bên trong một
không gian lớn
{ Một hàng các cột có thể xác định các cạnh của một không
gian trong khi cho phép tính liên tục thị giác và không
gian tiếp tục tồn tại giữa không gian và môi trường bao
quanh. 
{ Hàng cột này có thể đựơc kết hợp để nâng đỡ một bề mặt
tường, phối hợp hình thức bề mặt, nhịp điệu và tỷ lệ của
bề mặt đó.
{ Một mạng lưới cột bên trong một phòng
lớn không chỉ đỡ sàn hoặc mái mà còn
kết hợp khối tích của nó mà không can 
thiệp vào hình thức chung của mái. 
{ Cloister và Salle des Chevalier trong
Merveille của thành Mont S. Michel
CỘT TRONG KHÔNG GIAN
{ Vào năm 1926 Le Corbusier đề cập đến “5 điểm
của kiến trúc mới”. Đề cập đên việc sử dụng cột
BTCT để đỡ sàn, và mái. Cho phép tạo ra những
khả năng mới trong việc xác định không gian
công trình.
1. Sàn btct có thể cấu tạo như công-xon (cantilever) bên ngòai
các cột và tạo ra những mặt đứng tự do của tòa nhà
2. Nó cho phép một màng ánh sáng của các tường lọc và cửa
sổ làm việc.
3. Bên trong tòa nhà một mặt bằng tự do có thể được dùng.
4. Không gian nội thất có thể được xác định bằng các tường
không chịu lực, sự xếp đặt của chúng có thể là tuy ý tùy theo
chương trình của tòa nhà.
{ Các phác thảo minh họa cho “5 điểm của kiến trúc mới” của
Le Corbusier 
{ Tòa nhà của Hiệp Hội Xay Xát: Ahmedabad, Ấn
Độ 1954 Le Cu
{ Một nhà ở Nhật Bản điển hình sử dụng hệ cột
theo modul.
MẶT PHẲNG THẮNG ĐỨNG
{ Một mặt phẳng thẳng đứng
đơn độc trong không gian
thì có phẩm chất khác hẳn
các cột đứng độc lập.
{ Nó có thể chỉ như một phần
của bề mặt lớn và dài hơn, 
cắt ngang và phân chia
không gian.
{ Một bề mặt có hai “mặt” và
thiết lập các cạnh của hai
thể tích tách biệt nhau của
không gian. 
{ Hai mặt của một bề mặt có thể tương đương và đối
diện với các không gian tương tự. Hoặc chúng có thể
được phân biệt trong hình thức, màu sắc, chất cảm để
đáp ứng với điều kiện không gian khác nhau. Một bề
mặt vì vây có thể có “hai mặt đứng” hoặc một mặt
“đứng” và một mặt “sau”
{ Một bề mặt chỉ có thể thiết lập một cạnh của trường
không gian. Để xác định một khối tích một bề mặt phải
tương tác với các thành phần khác của hình thức. 
{ Chiều cao của một mặt phẳng tương đối so với chiều
cao và tầm mắt của chúng ta là một yếu tố rất quan
trọng ảnh hưởng khả năng mô tả không gian của mặt
phẳng
{ Ở độ cao khỏang 0,6m một mặt phẳng chỉ xác định
cạnh của một trường, nhưng lại cung cấp ít hoặc hòan
tòan không có cả m giác bao bọc cho trường. 
{ Ở độ cao ngang hông nó bắt đầu tạo cho một
cảm giác bao bọc trong khi cho phép một sự liên
tục thị giác với môi trường xung quanh. 
{ Chi chiều cao của mặt phẳng thẳng đứng đạt đến ngang tầm mắt
nó bắt đầu phân chia không gian này với không gian khác. 
{ Trên tầm mắt của chúng ta, mp ngắt đọan tính liên tục không gian
và thị giác giữa hai trường và cung cấp một cảm gíac bao bọc chắc
chắn. 
{ Màu sắc, chất cảm, và kiểu bề mặt của mp sẽ
ảnh hưởng đến sự cảm nhận của chúng ta về lực
thị giác, tỷ lệ, và kích thước.
{ Khi liên hệ với một khối tích xác định, một mp có thể
được kết hợp để trở thành mặt chính của không gian
và cho nó một hứơng đặc biệt.
{ Nó có thể trở thành mặt đứng của không gian và xác
định mp của lối vào.
{ Nó có thể là một thành phần độc lập bên trong một
không gian, phân chia không gian đó thành hai phần
tách rời nhưng vẫn có quan hệ với nhau
Agostino: Rome, Giacomo
da Retrasanta
Những hình vẽ sau đây
minh hoa việc sử dụng mp 
thẳng đứng để xác định:
{ Một mặt đứng cuả một công
trình
{ Một cổng chào
{ Các vùng trong một không
gian
Khải Hòan môn Septimius
Severus: Rome
Nhà kính: New Canaan 
bàng Connecticut
Philip Johnson
Gian Đức, Triển lãm Quốc tế tại Barcelona, 1929 
Mies Van der Rohe
{ Ví dụ về bố cục các mặt phẳng thẳng đứng xác
định một lọat các không gian giao thoa nhau. 
Căn hộ sinh viên: 
Selwyn College, 
Cambridge, Anh 1959, 
James Stirling và
James Gowan
CÁC MẶT PHẲNG TẠO THÀNH HÌNH 
CHỮ “L”
{ Một cấu trúc các mp tạo thành hình chữ “L” xác định
một trường không gian dọc theo đường chéo từ góc
của nó trở ra. Trong khi trường này được xác định và
được bao bọc rõ ràng tại góc của hình, nó bị biến mất
nhanh chóng khi nó dịch chuyển ra khỏi góc của mình. 
{ Trường hướng nội tại góc, và hướng ngoại dọc theo
các cạnh ngòai của nó. 
{ Trong khi hai cạnh của trường được xác định rõ
ràng bở hai mp của cấu hình L, các cạnh của nó
vẫn còn mơ hồ trừ khi nó đứợc bổ sung thêm
bằng các thành phần thẳng đứng khác hoặc được
nhấn mạnh bằng các mặt nền hoặc bình diện trần
{ Nếu một khỏang trống được tạo ra tại góc của
cấu hình, trường không gian đã có sẽ bị yếu đi. 
Hai mặt phẳng sẽ bị tách biệt khỏi nhau, và một
mặt phẳng sẽ bị trượt ra và bị thống trị về mặt thị
giác bởi mặt phẳng kia
{ Nếu không có mặt phẳng nào kéo dài tới góc, 
trường không gian sẽ trở nên năng động hơn và tự
tổ chức bản thân nó dọc theo đường chéo của cấu
hình.
CÁC MẶT BẰNG DẠNG CHỮ “L”
{ Một cánh tay có thể là một hình thức tuyến tính
kết hợp góc vào bên trong đường biên của nó, 
trong khi đó cánh tay kia được coi như một
thành phần phụ với nó. Hoặc góc có thể coi như
một thành phần độc lập nói hai hình thức tuyến
tính với nhau.
{ Một tòa nhà có thể có dạng “L” để thiết loập một
góc bên trong nó, bao bọc một vùng không gian
bên ngòai mà không gian nội thất của nó có liên
hệ, hoặc che chở một phần của không gian bên
ngoài khỏi các điều kiện không mong muốn 
{ Một cấu hình dạng “L” khá ổn định và có
thể đứng một mình trong không gian. Vì nó
là không gian mở nó là thành phần xác
định không gian khá mềm dẻo. 
{ Cấu hình không
gian “L” có thể
được dùng trong
sự kết hợp với
nhau, hoặc với
các thành phần
khác của hình
thức để xác định
một sự phong
phú của các
không gian. 
{ Các khía cạnh che
chắn của dạng chư “L”
được minh họa rõ
trong ví dụ dưới đây:
Các nông dân Nhật
trồng thông thành
những bụi cây dày
dạng “L”, để che chắn
nhà họ và khu đất
khỏi gió mùa đông và
các cơn bão tuyết
{ Cấu hình dạng chữ “L” gồm
các phòng bao quanh một
không gian sống bên ngòai. 
Một cánh bao gồm một
nhóm các không gian ở, 
trong khi cánh kia gồm các
không gian riêng tư. Các
không gian dịch vụ và kỹ
thuật thường ở vị trí góc, 
hoặc nó buộc vào dọc theo
mặt sau của một trong hai
cạnh. 
{ Lợi ích của dạng câu trúc
chữ “L” là nó cung cấp
một không gian bên ngòai
riêng tư, được che chắn
bởi hình thức công trình, 
và trong đó không gian
nội thất có thể trực tiếp
liên hệ. 
{ Trong Kingo Housing 
Estate, một mức độ tập
trung cao đạt được với
dạng chữ L, mỗi ngôi nhà
có được một không gian
riêng tư của minh.Kingo Housing Estate, gần Elsinore
Đan Mạch, 1958-63
Jorn Utzon
{ Nhà Rosenbaum, 
Florence, 
Alabama
1939
Frank Lloyd 
Wright
{ Tương tự như ví dụ trước
với nhà ở, những công
trình có mặt bằng dạng
chữ L sử dụng hình thức
L như các thành phần để
che chắn hoặc bao bọc. 
{ Tòa nhà Khoa Lịch sử tại
Cambridge sử dụng một
khối bảy tầng, dạng “L”
để bao bọc (về cả mặt
biểu tượng và công năng) 
một thư viện lớn, có
chiếu sáng từ trên mái-
khôngian quan trọng
nhất của tòa nhà
{ Không gian bên ngòai
của Xưởng thiết kế kiến
trúc ở Helsinki:
{ một nhà hát có nền dốc
bậc để giảng bài và dành
cho các họat động xã
hội.
{ Nó không phải là một
không gian thụ động mà
được xác định bởi tòa
nhà bao bọc nó. Hơn thê, 
nó là một hình thức tích
cực, nó tạo nên một sức
căng lên các thành phần
bao bộc nó.Xưởng kiến trúc: Helsinki 1955-56
Alvar Alto
{ Các tường dạng “L” tách biệt
các đơn vị của mặt bằng nhà
có bốn hình vuông kết hợp
{ Nhà Suntop (Bốn đơn vị ở)
Ardmore Pénnylvania 1939
Frank Lloyd Wright
Sơ đồ: Tháp ST. Mark, Thành
phố New York,
Frank Lloyd Wright
{ Gian triển lãm tại Berlin, 
1931
Mies Van der Rohe
CÁC MẶT PHẲNG SONG SONG
{ Một tập hợp các mặt phẳng thẳng đứng song song xác đinh
trường không gian giữa chúng. 
{ Đàu mở của trường được thiết lập bởi các rìa thẳng đứng
của mặt phẳng, tạo ra một phẩm chất có hướng rõ rệt cho
khôn gian. 
{ Không gian có tính hướng ngọai vì các mp song song 
không hình thành các góc
{ Sự xác định trường không gian dọc theo cạnh mở
của cấu hình có thể được củng cố băng cách xử lý
bề mặt nền hoặc bổ sung các thành phần mái
(trần) vào bố cục
{ Trường không gian có thể được kéo dài về mặt
thị giác bằng cách kéo dài mặt nền ngòai cạnh
mở của cấu hình. 
{ Đến lượt nó trường không gian này có thể được
xác định bởi một mp thẳng đứng mà chiều rộng
và chiều cao của nó bằng với chiều rộng và cao
của trường kg đã có.
{ Nếu một trong những mp song song được
phân biệt khỏi mp còn lại về hình thức, màu
sắc, chất cảm, một trục thứ cấp, vuông góc
với dòng không gian sẽ đựơc thiết lập trong bố
cục này. 
{ Độ mở trong một mp cũng sẽ giới thiệu một
trục thứ cấp cho bố cục và điều chỉnh chất
lượng hướng không gian. 
{ Một lọat các thành phần trong kiến trúc có thể coi như
các mp song song. Chúng có thể là các tường trong của
một tòa nhà, các tường ngòai hoặc các mặt đứng của
hai tòa nhà gần nhau, một hàng cột, hai hàng cây hoặc
các bụi cây của một hình thức địa hình
{ Hình ảnh của các mp thẳng đứng thường được kết
hợp với kết cấu tường chịu lực, trong đó sàn và
mái vượt trên hai hoặc nhiều tường chịu lực
{ Chất lượng định
hướng và dòng chảy
của không gian được
xác định bởi các bề
mặt song song được
thể hiện trong không
gian giao thông của
các thành phố, trên
đường phố và các đại
lộ. 
Galleria Vittorio Emanuelle II
Milan, Italy
{ Những không gian
tuyến tính có thể được
xác định bởi các mặt
đứng của công trình
quay mặt ra chúng. 
Cũng như các bề mặt
khác như cây, hoặc
các hàng cột. 
Đường phố ở Alberobello, Italy
{ Champ de 
Mars, Paris
{ Đường chuyển động trong một công trình, 
sảnh, galleries và hành lang cung biểu hiện
bản chất của không gian được xác định bởi
các mp song song.
Nhà ở Old Westbury: New York, 1969-71, Richard Meier
{ Các mp song song xác định lưu tuyeesn có
thể đặc họăc mờ đẻ tạo sự riêng tư cho
không gian dọc theo đường dịch chuyển
của chúng. 
Các mp cũng có thể được xác định bởi một hàng
cột, để đường đi mở trên một hoặc hai phía của nó
trở thành thành phần của không gian mà nó đi qua
{ Các mp cũng có thể được xác định bởi một
hàng cột, đẻ đường đi trở thành thành phần
của không gian mà nó đi qua
{ Các tường song 
song của cấu trúc
tường chịu lực có
thể là lực lượng
chính đằng sau
hình thức và tổ
chức của công
trình. 
Nhà Sarabha: Ahmedabad, Ấn độ 1955, Le Corbusier
{ Kiểu lặp lại của chúng co thể được hiệu chỉnh bằng cách
làm cho khác biệt về chiều dài và giới thiệu các khỏang
trống bên trong các mp để thích hợp với các yêu cầu
kích thước của các không gian lớn. 
{ CÁc khoảng trống này cũng có thể xác định cac lưu
tuyến và thiết lập quan hệ thị giác vuông góc với mp 
tường
Nhà Sarabha: Ahmedabad, Ấn độ 1955, Le Corbusier
{ Cung Arnheim : 
Hà Lan 1966
Aldo Van Eyck
{ Các tường chịu lực song song thường được dùng trong
nhà ở cho nhiều gia đinh. Chúng không đảm bảo khả
năng chịu lực sàn và mái mà còn tách biệt các đơn vị ở
khỏi nhau về mặt âm thành và chống cháy.
Mặt cắt minh họa sơ đò thích hợp vói các đọ dốc khác nhau
Dự án làng: James Stirling (Nhóm X) 1955
{ Các tường song song chịu lực đặc
biệt thích hợp cho nhà phố, nhà liên
kế nơi mỗi ngôi nhà có hai mặt
hướng ra ngòai không gian.

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_lich_su_kien_truc_cac_thanh_phan_thang_dung.pdf