Tài liệu Nhiếp ảnh số - Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ

Tóm tắt Tài liệu Nhiếp ảnh số - Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ: ...cần phải biết trong mọi trường hợp là: - Nghiêng máy sẽ tự động làm cho các đường thẳng đứng trong ảnh bị hội tụ. - Sự hội tụ đó có thể tránh được bằng cách dùng một số phụ tùng hoặc một số biện pháp đặc biêt. + Muốn cho các đường thẳng đứng của đối tượng song song với nhau trên ảnh, điều kiện...ế này ít có chố cho những loại máy kiểu "Point & Shoot" (mặc dù đôi khi có những tấm ảnh chân dung nổi tiếng được tạo nên từ loại máy này). Như thế phương tiện đo sáng của bạn sẽ là thiết bị đo sáng gắn sẵn trong máy và loại ống kính zoom tiêu chuẩn kiểu 28-80mm cũng sẽ là thông dụng. May mắn ... màu trắng khi in ảnh. Có bác nào chụp tượng phật chẳng hạn. Hay cởi bỏ cái áo đen khỏi người , ta có thể đo thay thế cho những vùng tối xẫm cần lấy. Hay chúng ta có thể đo bụi cây ở gần để lấy màu xanh cho những cây ở xa. Việc đo này sẽ cụ thể theo hướng dẫn của tùng loại máy ảnh. Và cũng l...

pdf365 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 154 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Nhiếp ảnh số - Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xạ hai màu đen và trắng. 
Ví dụ, khi ta nhắm vào một viên than đen xì có độ phản xạ ánh sáng là 4% thì máy ảnh chỉ hiểu rằng lượng ánh sáng phản xạ từ viên than đó đi tới ống 
kính là tương đương 18% nguồn sáng gốc đang chiếu vào vật thể, chứ không phải 4%. Kết quả là máy ảnh ước lượng thiếu sáng, nên ra lệnh mở khẩu độ 
sáng lớn, và ảnh của viên than trở nên không đen. 
Có nhiều cách để chủ động bảo máy ảnh điều chỉnh đúng khẩu độ sáng và một trong những cách đơn giản và hay sử dụng là dùng Grey Card. 
Grey Card là một tấm có màu xám phản chiếu đúng 18% ánh sáng đập vào nó. Cách dùng đơn giản, chỉ việc đưa tấm xám này ra trước ống kính sao cho 
phủ toàn bộ khung ngắm và phải đảm bảo nguồn sáng chiếu vào nó có cường độ và hướng giống với nguồn sáng đang chiếu vào cảnh/vật ta định chụp 
ảnh. Khi đã ổn định rồi thì ta đặt cố định khẩu độ sáng. Tất nhiên nhiều máy ảnh (point and shoot camera) không có chức năng cho phép ta đặt riêng 
khẩu độ sáng mong muốn, mà chỉ hạn chế ở mức đặt exposure và focus cùng lúc, tức là ta sẽ phải dùng một tông xám 18% ở khoảng cách bằng khoảng 
cách đến vật thể cần chụp cũng như ở hướng và cường độ sáng tương tự nguồn sáng thật. 
Tất nhiên, không có Grey Card thì ta vẫn có thể chỉnh khẩu độ sáng chính xác tương đối dựa vào một khu vực có tông màu trung tính so với toàn bộ các 
tông màu trong khung cảnh cần chụp. 
Tác giả tiết lộ rằng, màu xanh của cỏ phản chiếu gần 18% ánh sáng chiếu vào nó, do vậy có thể dùng để chỉnh khẩu độ sáng. Lưu ý kiếm khu vực cỏ 
nằm giống hướng và cường độ nguồn sáng chiếu vào cảnh vật định chụp. 
Ngoài ra tác giả còn linh hoạt dùng màu da của lưng bàn tay để chỉnh khẩu độ sáng tương đối (theo kinh nghiệm ước lượng). 
Và nếu trong điều kiện trời quang, mây tạnh, ánh sáng tran hoà khắp khung cảnh thì chỉ việc áp dụng luật nhiếp ảnh "Sunny f16 Rule". 
Theo mình biết thì ở thị trường hiện nay có bán cả loại kính lọc khi lắp vào ống kính của ta sẽ cho phép chỉnh khẩu độ sáng giống như khi dùng Grey 
Card, và kiêm luôn cả chỉnh White Balance giống như khi dùng White Card. 
Cá nhân mình thấy trước mắt cứ theo cái hiểu này, thử tìm các khu vực có tông màu trung tính để chỉnh khẩu độ sáng, chứ chưa cần mua Grey Card vội. 
Nếu không thành công thì nghĩ đến việc mua bán cũng chưa muộn. 
Nghệ thuật và sự dung tục 
Thoky: 
Em có một câu hỏi nhờ các bác chỉ giáo : Làm thế nào để có được tính nghệ thuật và loại bỏ được sự trần trụi-đời thường-tục .... ra khỏi một tấm 
ảnh ? 
Hi Thoky, 
Câu trả lời đúng như câu hỏi: 
Đơn giản là cậu cần nhìn sự vật đúng như nó tồn tại, bằng điểm nhìn của chính sự vật và không áp đặt sự trần tục của con người vào cho 
chúng. 
Đây là quan điểm lớn về nghệ thuật của Pi & Ma. 
Cám ơn các bác. Tuy nhiên em chưa tỏ tường ở điểm này : trước hết là phải loại bỏ sự dung tục ra khỏi tư tưởng của nguời chụp, nhưng làm thế nào để 
những người xung quanh (người xem ảnh) cũng hiểu và đồng cảm được ý định của người chụp ? Hay chính xác là làm thế nào để người chụp có được sự 
cảm nhận có tính phổ biến ? khi mà năng lực thẩm mỹ, kỹ thuật và kinh nghiệm của em đều ở mức zero ? 
Hi Thoky 
Suy nghĩ rất nhiều về ý tưởng của bạn, thôi thì góp ý từ từ vậy nhé. Để thuyết phục được người xem có cùng tư tưởng suy nghĩ với người chụp thật 
không dễ. Mỗi người mỗi khác mà lị (thế mới có sự tranh cãi của ban giám khảo khi chấm điểm các ảnh dự thí chứ??). Chúng ta làm điều đó bằng nhiều 
cách thí dụ như: bề ngoài của chủ thể, bố cục, góc cạnh, ánh sáng..., kỹ thuật dùng máy, kỹ thuật phòng tối...Cuối cùng có được là một tấm ảnh có cái 
thần của nó, chuyển tải tư tưởng từ người chụp sang người xem. 
Nhiều cách quá bây giờ bàn trước về kỹ thuật phòng tối - mà với máy kỹ thuật số chính là phân mềm sửa ảnh. Các hiệu ứng, chỉnh sửa màu sắc cũng tạo 
cho người xem một cảm giác thoát khỏi sự trần tục. Thử nhé: 
Và đây nữa: 
Bạn nghĩ sao? 
Xin chào, cho mình góp vài ý kiến nhé, nếu chỗ nào chưa chuẩn thì mọi người bổ sung và chỉnh dùm. 
Hệ số nhân tiêu cự 
Hệ số nhân tiêu cự (crop factor) 
Thực ra dịch là hệ số nhân tiêu cự cũng không hoàn toàn chính xác, rất dễ gây hiểu lầm. Nếu cứ để đúng theo nghĩa đen của nó (dịch word by word) là 
hệ số "cắt cúp" thì vẫn chính xác hơn. Nhưng quan trọng là cần hiểu rõ bản chất vấn đề. 
Lấy theo ví dụ của bạn Nostar: 
Khi tăng tiêu cự thực sự từ 100mm lên 150mm (optical zoom) thì sẽ có 2 hệ quả xảy ra: 
(i) Góc thu hình (angle view) sẽ hẹp lại, 
(ii) Kích thước ẢNH trên film (sensor) sẽ lớn hơn. 
Cụ thể là kích thước ảnh sẽ lớn hơn 1.5 lần, và góc thu hình cũng hẹp lại 1.5 lần. (Thực ra sự phụ thuộc giữa angle view và focal length không hoàn toàn 
tuyến tính như tỷ lệ giữa kích thước ảnh và focal length. Nhưng trong phạm vi middle range thì có thể coi gần như tuyến tính. Sự phi tuyến thể hiện rõ 
hơn ở wide). Nhưng tạm thời trong trường hợp này, ta có thể "đơn giản hoá" nó là tuyến tính cho dễ hiểu vấn đề. 
Như vậy là khi thay đổi focal length, chúng ta nhận được đồng thời hai hệ quả (i) và (ii). Ngược lại, nếu chúng ta thấy xuất hiện (i) và (ii) thì có nghĩa là 
focal length đã thay đổi THỰC SỰ. 
Quay trở lại với máy DSLR với crop factor 1.5x. 
Q:Con số 1.5 ở đâu ra? 
A: Một bản film (full frame film) có kích thước 24mm x 36mm, độ dài đường chéo của bản film sẽ là: 43.266mm 
Kích thước sensor máy Nikon Dx là 15.7mm x 23.7mm, độ dài đường chéo của sensor sẽ là : 28.428mm 
1.5 = 43.266 / 28.428 
Tại sao lại lấy tỷ lệ đường chéo của film and/or sensor làm crop factor. Lý do chính là góc tạo bởi giữa hai đỉnh chéo nhau của film (sensor) với tâm hệ 
thấu kính chính là angle view! 
Như vậy, với một sensor có kích thước 15.7mm x 23.7mm, hay nói cách khác có crop factor là 1.5, ảnh chụp với một tiêu cự nào đó (vd 100mm) sẽ có 
angle view hẹp hơn 1.5 lần so với ảnh chụp cũng với chính tiêu cự đó (vẫn 100mm) trên full frame ! Tức là ở đây chúng ta đã có hệ quả (i). 
Q: Vẫn sensor này, vẫn focal này (100mm), liệu chúng ta có hệ quả thứ hai (ii) không? 
A: KHÔNG ! Vì vị trí đặt film và sensor là hoàn toàn như nhau, tức là kích thước của subject trên film or sensor là như nhau. 
Tóm lại, việc dùng tiêu cự 100mm trên DSLR có crop factor 1.5x sẽ cho chúng ta hai hệ quả sau: 
(i) Góc thu hình (angle view) sẽ hẹp lại tương đương 1.5 lần so với full frame. Tức là tương đương việc dùng 150mm trên full frame; 
(ii ') kích thước ảnh ko thay đổi so với full frame. Tức là kích thước ảnh sẽ nhỏ hơn kích thước ảnh cho bởi 150mm trên full frame. 
Kết luận: 100mm trên DSLR có crop factor 1.5x không cho chúng ta một bức ảnh THỰC SỰ tương tự như chụp ở tiêu cự 150mm trên full frame. Ta chỉ 
được một nửa, ở đây là yếu tố angle view. Đây chính là điều mà mọi người hay lầm lẫn khi tự nhủ rằng với máy DSLR 1.x, bị thiệt thòi khi dùng wide 
lens, nhưng được lợi khi dùng tele lens. Việc thu nhỏ kích thước sensor đều làm cho góc thu hình bị hẹp lại mà cũng chẳng làm tăng kích thước ảnh trên 
MỌI TIÊU CỰ của lens. Điều này thể hiện rõ nhất cái nghĩa của thuật ngữ CROP FACTOR, thực chất nó chỉ là một sự cắt cúp khuôn hình nhỏ lại mà 
thôi. 
Expansion: 
Q:Vậy tại sao một số nơi vẫn dùng thuật ngữ "focal length multiplier" ? 
A: Bản chất của vấn đề như mình đã trình bày ở trên. Và trong một số trường hợp kích thước ảnh, chất lượng hình ảnh không quan trọng thì hai thuật 
ngữ này có thể được hiểu một cách đồng nhất. 
Q: Những trường hợp đó là những trường hợp nào? 
A: Ngay tại đây thôi, ví dụ như post ảnh lên chia sẻ với mọi người trên HNC. 
Giả sử ảnh post lên HNC chỉ chấp nhận kích thước tối đa 600x400 (pixel). Với cùng một subject, NTL chụp bằng Nikon Dx (1.5x) ở focal 100mm, 
Nostar chụp bằng 1Ds Mk II (full frame) ở 150mm. Cả hai bức hình khi xem trên PC sẽ hoàn toàn giống nhau về khuôn hình (angle view), phối cảnh. 
(Tất nhiên cả hai bạn đều chụp cùng 1 distance, bỏ qua độ nét, màu sắc, blah blah nhé... ) Tuy nhiên, kích thước hai bức hình (số lượng pixel) sẽ khác 
nhau nhiều đấy. Nhưng giờ đây, để post được hai tấm hình đó lên HNC, cả hai đều phải resize xuống 600x400, kích thước ảnh lúc này sẽ hoàn toàn như 
nhau, đạt được hệ quả (ii) rồi. Và lúc này thì 100mm + Nikon Dx có thể tự hào hình của mình y hệt như 150mm + D1sMk II. 
Tóm lại, nếu ta không tận dụng triệt để cái kích thước sensor (film) trong việc phóng ảnh, ngược lại còn resize đi nữa thì có thể rung đùi mà tận hưởng 
cái "multiple focal length" kia. Còn nếu muốn phóng ảnh to, hoặc crop một phần nhỏ bức ảnh mà vẫn đảm bảo chất lượng thì full frame vẫn ưu việt hơn, 
DSLR 1.x crop factor vẫn bị thiệt thòi ở mọi tiêu cự. 
Nhân điều này mình cũng muốn lý giải thêm cái thắc mắc thứ hai của Nostar trong vấn đề này. 
Bạn hỏi tiêu cự 100mm trong máy số 1.5x không giống như máy film ở 150mm là không giống ở chỗ nào? 
Mình cũng đã từng thử ngắm 2 trường hợp qua viewfinder và thấy rằng: 
- Khuôn hình nhìn trong hai máy đều như nhau. Tất nhiên chỉ mang tính chất tương đối thôi, vì con số 1.5 x kia có phần lẻ thập phân đằng sau dài dằng 
dặc. Hơn nữa, không phải trên lens nào cũng đánh dấu cả tiêu cự 100 lẫn 150mm. 
- Điều khác nhau duy nhất là hình ngắm trong viewfinder máy DSLR sẽ nhỏ hơn là ngắm trong SLR film. Điều này là hoàn toàn hiển nhiên vì phần 
quang học của DSLR's viewfinder phải correct lại cho tỷ lệ với crop factor. 
Ảnh đen trắng trong thời đại số 
Nếu xét theo các thống kê kinh tế thì thể loại ảnh đen trắng cổ điển chụp phim đang mất dần thị trường. Thế nhưng trong số những người đam mê nhiếp 
ảnh vẫn còn rất nhiều đam mê với thể loại ảnh này. Tuy nhiên vào thời điểm hôm nay để chụp ảnh đen trắng bằng phim ta cần phải có một Labo riêng. 
"Muốn ăn phải lăn vào bếp" mà lại, thêm nữa để nấu ăn ngon liệu ta có thể thoả mãn với chiếc lò vi sóng? Tạp chí nhiếp ảnh RP #151 giới thiệu với 
chúng ta 10 lý do để trung thành với ảnh phim đen trắng của Philippe Bachelier và Jean-Christophe Béchet, NTL xin được lược dịch lại cùng các bạn. 
1. Khoái cảm của tiếp xúc 
Từ khi nhiếp ảnh từ bỏ việc lưu ảnh trên kính thì chụp ảnh đen trắng luôn gắn liền với phim và giấy ảnh, điều này có nghĩa là những thao tác của tiếp 
xúc. Chính yếu tố kỹ thuật này đã tạo thành thói quen, một cách nhìn nhận và chụp ảnh. Khi ta lắp phim vào máy ảnh là lúc ta tiếp xúc trực tiếp với vật 
thể sẽ trở thành phim âm bản sau này. Tất cả những gì đã chụp, thành công hay thất bại, đều được ghi lại trên phim theo một trật tự nhất định. Dĩ nhiên 
tất cả những thứ này đều không thể nhìn thấy, vẫn là tiềm ẩn một khi cuộn phim chưa được tráng rửa. Thế nhưng hình ảnh đã thật sự tồn tại một cách 
hoàn toàn vật lý trong những lớp nhũ tương. Tiếp theo công đoạn tráng phim, ta đã có thể nhìn ngắm những hình ảnh trong suốt trên một bàn soi phim 
chuyên dụng. Như thế những cảm xúc đầu tiên trào tới: ta nhận ra hay thấp thỏm hy vọng một hình ảnh thành công để đem đi in ảnh. Nhưng ta cũng có 
thể hoàn toàn để những âm bản này vào lưu trữ, thậm chí không in cả ảnh mục lục, cho tới ngày ta có hứng thú muốn nhìn thấy chúng hiện trên giấy. 
Với phim cổ điển, một cuộn phim được tráng rửa với những "nghi lễ" trong ánh đèn đỏ của Labo, người thao tác thật sự một mình...Thao tác rọi ảnh áp 
đặt ta phải tách rời với thế giới bên ngoài: bàn tay tạo nên ánh sáng trên tấm giấy ảnh rất nhạy sáng rồi tiếp theo là những xử lý mang tính hóa học...Ta 
cảm nhận được sự khoái cảm của việc đụng chạm vào những trang thiết bị được dùng để tạo nên hình ảnh. Cũng như vậy, các thao tác hiệu chỉnh tông 
xám, chi tiết...trên từng phần của hình ảnh, ta có cảm giác như trong một khoảnh khắc của không gian đã trở thành một nhà luyện kim của thời xa xưa... 
2. Thiết bị nhiếp ảnh không bao giờ lỗi mốt 
Trong ảnh phim đen trắng, những mẹo chụp ảnh luôn có hiệu quả. Ta có thể hoàn toàn chụp ảnh "theo phong cách của ai đó" với một thân máy SLR "cổ 
điển" hay với một chiếc Leica, một ống kính 50mm và một cuộn phim Tri-X nếu như ta có được cảm hứng từ HCB, chụp ảnh phong cảnh với ống kính 
góc rộng kiểu Sieff, những tấm ảnh chân dung với Rolleiflex như Irving Penn hoặc những tấm ảnh panorama kiểu Koudelka. Tất cả truyền thống của 
ảnh đen trắng ở đằng sau chúng ta, hãy tận hưởng những kinh nghiệm quý báu đó để tự thỏa mãn hay lấy cảm hứng chụp ảnh. 
Ta không hề phải đối mặt với những rủi ro của việc tương thích khi sử dụng ống kính, thân máy lỗi mốt bởi một dSLR khác có nhiều pixels hơn...Cũng 
sẽ không còn là cần thiết việc thường xuyên theo dõi thông tin "update" trên internet. Như vậy, nhiếp ảnh gia đen trắng có thể nghiên cứu sâu hơn về kỹ 
thuật và trụ vững với nó. Những căn bản được nắm chắc rồi thì ta chỉ cần tập trung vào riêng sáng tạo... 
3. Từ khổ 24x36 tới 4x5... 
Nhiếp ảnh đen trắng rất đa dạng trong chủng loại phim, về độ nhạy cũng như định dạng. Nếu như ta nói rằng một chiếc dSLR 6 Mpix cho ảnh có chất 
lượng nói chung tương đương với một chiếc SLR lắp phim 24x36 ISO 100 thì chiếc máy ảnh "Moyen- Format", với giá khá đại chúng, lại cho kết quả 
đẹp hơn nhiều. Giá của một cuộn phim 120 vào khoảng 2,5 - 3,5€ và các thao tác tráng, in ảnh cũng không có gì đặc biệt hơn loại phim 135. Và như thế 
thì tại sao ta lại không nghiêng về chất lượng hình ảnh khó có thể so sánh nổi với dòng máy "Moyen-Format". Hiện tại, mua một chiếc máy 20x25cm 
mác Edward Weston "second-hand" chỉ khoảng 1 500€, và để trang bị một labo in ảnh "planches-contact" cũng rất đơn giản. 
Với mỗi một "format" ta có một chất lượng ảnh rất đặc trưng. Ta vẫn hay thường nói là có thể chấp nhận độ phân giải thấp vì sẽ đứng ngắm tấm ảnh từ 
xa, tối thiểu là tại một khoảng cách tương đương với đường chéo của ảnh. Nhưng một trong những khoái cảm của ảnh phim là có thể ngắm nhìn các tấm 
ảnh khổ lớn thật gần để thích thú với những chi tiết hay các "motif" của hạt ảnh mà nếu đứng xa ta chỉ có thể nhìn rất chung chung mà thôi. Đó chính là 
lý do khiến ta dùng máy ảnh "Moyen-Format", "Grand-Format" hay loại phim như "Technical Pan". 
4. Tất cả mọi độ nhạy 
Từ độ nhạy siêu chính xác của Technical tới hạt ảnh của Delta 3200 hay Tmax 3200, chúng ta có một sự lựa chọn rất rộng. Ta có thể nhẩm tính được tối 
thiểu là 20 loại phim "tiêu chuẩn". Và mỗi loại phim có một chất riêng không thể nào bắt chước với một gam mầu xám của chính nó. So với kỹ thuật số 
thì phim cổ điển hoàn toàn chiếm ưu thế với độ nhạy lớn hơn ISO 400. Tại ISO 800, ISO 1600 hay ISO 3200, lúc chụp ảnh trong nhà, khi một cú đèn 
flash làm hỏng hết ánh sáng không gian, thì phim đen trắng vẫn là không thể nào sánh được. 
5. Đầu tư cho Labo rẻ 
Khi ta đọc lại những gì được viết trong quyển "La Photo" của Sieff hoặc trong "La Photopgraphie" của Boubat, những tác phầm được tái bản nhiều lần 
từ 30 năm nay, ta có thể nhận thấy rằng những lời khuyên và kinh nghiệm quý báu không hề mất đi giá trị của chúng. Một chiếc máy phóng "Durst" của 
những năm 60, 70 luôn cho phép phóng những tấm ảnh đẹp. Thị trường thiết bị nhiếp ảnh cũ ngày càng phong phú cho phép ta mua được những thứ tốt 
và rẻ. Và nếu như bạn quyết định đầu tư vào thiết bị mới toanh thì chắc chắn trong vòng 10 năm sẽ chẳng phải lo lắng gì về kỹ thuật cả. 
Điều quan tâm duy nhất là tìm được một diện tích đủ rộng để lắp đặt Labo. Với chi phí khoảng giá tiền một chiếc dSLR loại nghiệp dư, mà giá trị của nó 
sẽ mất đi -50% trong vòng 6 tháng, bạn hoàn toàn có thể trang bị một Labo "Pro" cho thể loại 24x36 hay 6x7... 
6. Phóng ảnh ở mọi kích thước 
Đây là một tiêu chuẩn mà nhiều người quên khi lựa chọn kỹ thuật số: ta bị hạn chế với khổ giấy của máy in, A4, trong 90% các nhu cầu sử dụng thông 
dụng. 
Trái lại trong Labo ta có thể phóng ảnh 30x40 cm cũng như 24x30 hay 40x50, 50x60 mà chỉ cần sắp xếp lại một chút. Gam giấy phóng ảnh vẫn còn rất 
phong phú từ số lượng cho tới các tông giấy khác nhau. Nếu như bạn muốn làm một triển lãm ảnh thì hoàn toàn có thể in ảnh tại gia. Với kỹ thuật số, ta 
bắt buộc phải mang ảnh tới các Labo Pro với giá cắt cổ hay tạm hài lòng với chất lượng phóng ảnh "đại chúng" của các Lab bình dân. 
Và ta cũng không nên quên rằng với phim, ta sẽ có được tấm ảnh chung cuộc chất lượng cao và giá rẻ hơn là tự phóng lấy với máy in. Cuối cùng thì ảnh 
phóng từ phim không bị hiện tượng "métamérisme" - thay đổi tông mầu tuỳ theo nguồn sáng như với ảnh in bằng inkjet. 
7. Chất hạt trên ảnh 
Ảnh từ phim mang một dấu ấn đặc trưng: hạt ảnh. Nó chính là ADN của phim, hiện thân của cấu trúc phim - rất không đều. Cho dù hạt phim có hiện rõ 
hay không trên ảnh thì chúng vẫn là một phần của thế giới phim. 
Một số người tìm cách tránh, một số khác lại đi tìm hạt phim thể hiện trên ảnh. Khi ta muốn hạn chế hạt phim thì có thể dùng các phim có độ nhạy thấp, 
như Technical Pan ISO 100, Acros, Delta hay Tmax. Chuyển sang dùng MF hay "chambre" cũng cho phép tạo nên những hình ảnh mà hạt phim là 
không nhìn thấy hay rất mịn. Ngược lại, khi ta muốn thể hiện sự nổi hạt trên ảnh thì chỉ cần dùng các phim có độ nhạy ISO tối thiểu từ 400 hay thậm chí 
dùng ISO 1000 (Fuji Neopan, Ilford Delta và Kodak Tmax). 
Mỗi một loại phim có một cấu trúc hạt điển hình của nó, như thế ta chỉ cần lựa chọn loại phim thích hợp với chủ đề mà mình định thể hiện mà thôi. 
Thiết bị tráng phim cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới độ hạt của phim. Cặp Tri-X/Rodinal rất nổi tiếng về chất lượng ảnh hạt. 
Trong kỹ thuật số, mọi lao tâm khổ tứ của nhiếp ảnh giá đều bị khống chế bởi khả năng thể hiện của thiết bị in như kích thước của giọt mực chẳng hạn. 
Bố cục - hội họa và nhiếp ảnh? 
Để trả lời cho câu hỏi về sự khác nhau giữa bố cục một bức tranh và khuôn hình của một tấm ảnh sẽ tốn rất nhiều giấy mực, hay nói một cách hiện 
đại hơn là sẽ mất rất nhiều giờ internet và hao mòn bàn phím. 
Chặng đường để đi tới kết luận cuối cùng còn dài hay thậm chí ta không thể có một kết luận rõ ràng. Câu hỏi đặt ra rất lý thú và chúng ta hãy cùng nhau 
giải đáp. 
Có người nói "Đỉnh cao của Nhiếp Ảnh là Hội hoạ", câu nói này đúng trong giới hạn thể hiện của nghệ thuật muốn mang lại cảm xúc cho người xem. 
Nhưng đứng về mặt kỹ thuật đơn thuần thì giữa Hội hoạ và Nhiếp ảnh có tồn tại nhiều sự khác biệt. 
Sự chuẩn bị mang tính hiển nhiên của một hoạ sĩ trước khi thể hiện ý tưởng của mình là lựa chọn vật liệu với một bề mặt thích hợp (Toan, lụa, giấy...) 
cũng như một khung tranh với kích thước hoàn toàn đặc biệt. Chính trong khung tranh này người hoạ sĩ sẽ thể hiện cảm xúc của mình. Người hoạ sĩ chịu 
trách nhiệm về khuôn khổ của khung vẽ, giống như nhà nhiếp ảnh lựa chọn cuộn phim để thể hiện những gì mình nhìn thấy, cảm nhận được bằng tâm 
hồn mình. Với một nhiếp ảnh gia thì khuôn hình hoàn toàn là biểu hiện mang tính vật lý thông qua khuôn ngắm của máy ảnh - một khái niệm mang tính 
mặc định trước. Còn với hoạ sĩ thì khung tranh chỉ đơn thuần là ý niệm, là sự sáng tạo của hình ảnh. 
Vậy sự khác biệt nằm ở đâu trong bố cục? 
1. Ta không thể chọn lựa một khuôn khổ tranh mang tính tiêu chuẩn cho hội hoạ 
2. Để cho hội hoạ và nhiếp ảnh gần lại nhau thì có lẽ nên lựa chọn một khung vẽ có tỉ lệ gần với tỉ lệ của kích thuớc khuôn ngắm của máy ảnh? 
3.Một bức tranh có thể không thể hiện một điều gì đó thật cụ thể nhưng một bức ảnh thì không thể là siêu tưởng. 
4.Trong một khung vẽ có thể chứa đựng nhiều khung vẽ khác nhau, chồng chéo trên mặt phẳng, một bức ảnh thường giống như một khung cửa sổ hay 
cửa đi mà ta vẫn quen gọi là khuôn hình. 
5. Cuối cùng thì trong nhiếp ảnh bạn có thể lựa chọn bất cứ điều gì mình muốn thể hiện nhưng không thể làm thay đổi vật thể tồn tại, trong Hội hoạ bạn 
có thể sắp đặt và tổ chức bố cục các yếu tố hình thức theo trí tưởng tượng phong phú của mình. 
Vậy đó, ngay từ trong khái niệm căn bản thì bố cục của Hội hoạ và Nhiếp ảnh đã rất khác nhau rồi. 
Nhưng chúng lại vẫn mang những đặc tính chung của nghệ thuật. 
Điều bí mật nằm ở đâu? 
.... 
Thông tin về sách 
Tên sách: Nhiếp ảnh số căn bản 
Nguồn: HaNoiCorner.com, Photovn.com, TTVNOL.com 
Tác giả: Nguoithanglong (HNC), Lekima (Photovn) và các bạn khác 
----- 
Tập hợp bởi Dentist (TTVNOL) 
Hà Nội - Mùa Thu - 2006 

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_nhiep_anh_so_su_khac_biet_giua_may_anh_so_va_may_an.pdf
Ebook liên quan