Tài liệu Tâm lý học giao tiếp - Trần Tuấn Lộ
Tóm tắt Tài liệu Tâm lý học giao tiếp - Trần Tuấn Lộ: ...Người mua, dù biết rằng người bán cần mình, cũng không vì thế mà thiêu lịch sự với người bán. 10 – SỰ GIAO TIẾP GIỮA NGƯỜI NỔI TIẾNG VÀ NGƯỜI HÂM MỘ Ở NHỮNG NƠI CÔNG CỘNG: Trong lĩnh vực ca nhạc, thể thao, điện ảnh, v.v...có những người nổi tiếng tài năng (những ngôi sao) và có hàng trăm, hàn... chủ thể có thể làm cho chủ thể thấy được, thấy hết và hiểu đúng, hoặc không thấy được, không thấy hết và không hiểu đúng những hiện tượng tâm lý, xã hội ở con người mà mình giao tiếp. b. Nhu cầu và sự lựa chọn nhận thức của chủ thể làm cho chủ thể nhanh chóng hướng sự chú ý của mình vào nhữn...đi đâu đấy?Anh từ Hà Nội vào đây hôm nào?Độ rày anh đang làm gì?Anh có khỏe không?Chị và các cháu ở nhà có khỏe không? Mà đã hỏi thì cũng phải nghe câu trả lời, không nên hỏi cho có lệ, thuần tuý xã giao, hình thức, hỏi rồi quay sang nói chuyện với người khác hay bỏ đi ngay. 1.3 - Xưng hô như ...
nh đã nói hay viết, để mà nhận định và đánh giá về nhân cách của người đó. Một sự nhận định và đánh giá như thế rất có thể sai lầm. Mà phải căn cứ vào việc làm của người đó, việc làm thực chứ không phải việc làm "đóng kịch", "đánh lừa", "đánh lạc hướng". 2-NÓI CHUYỆN VÀ TRANH LUẬN Nói chuyện là để thông tin trao đổi kinh nghiệm cho nhau hoặc tìm hiểu, chia sẻ, thông cảm nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, mơ ước, cảm xúc, tình cảm của nhau, để biết động cơ mục đích, nội dung và cách thức hành động hay hoạt động của nhau. Có thể nói chuyện bằng lời, mặt đối mặt, hay qua điện thoại. Cũng có thể nói chuyện với nhau bằng cách viết thư và gửi thư cho nhau. Đó là chưa kể cách nói chuyện với nhau bằng cử chỉ, điệu bộ của những người câm. Một cuộc nói chuyện được coi là có chất lượng và có hiệu quả cao khi nào người nói đạt được mục đích của mình là người nghe hiểu mình, đồng tình với mình, quan hệ tình cảm hay quan hệ làm ăn, công tác giữa hai người vẫn được duy trì, củng cố. Một cuộc nói chuyện tâm tình để giải bày tâm sự và một cuộc nói chuyện làm ăn để bàn bạc về cách thực hiện một công việc nào đó là rất khác nhau. Khác với nói chuyện tâm tình, trong đó người nói giải bày tâm sự là chính, còn người nghe để thông cảm, để chia sẻ thông cảm là chính, sự bàn bạc đòi hỏi hai bên phải đi đến một sự kết luận mà hai bên đều nhất trí. Nếu giải bày tâm sự thì muốn nói thế nào thì nói, tuỳ theo cảm xúc, tâm trạng của mình, nói dài hay nói ngắn đều được cả. Nhưng nếu bàn bạc với nhau thì phải để cho nhau nói được hết ý kiến của mình, do đó, mỗi lần nói thì mỗi bên phải nói sao cho chính xác, cho rõ ràng, cho mạch lạc và nhất là ngắn gọn chừng nào tốt chừng ấy. Một cuộc nói chuyện nhằm thuyết phục người khác là một cuộc nói chuyện nhằm mục đích làm cho người nghe tán thành ý kiến của mình, tin rằng những điều mình nói là đúng sự thật, là có lý. Thuyết phục cũng còn nhằm mục đích làm cho người nghe hiểu rằng ý kiến của họ, việc đã làm, đang làm, hay sẽ làm của họ là không đúng, là sai lầm, do đó thay đổi ý kiến hoặc không làm cái việc đó nữa. Để có thể thuyết phục người nghe, người nói phải nói một cách có căn cứ thực tế và lý luận ("Nói có sách, mách có chứng"), phải có lý và có tình, tất nhiên là phải tỏ ra khiêm tốn, biết điều, phải tỏ ra hiểu đúng và thông cảm với cách suy nghĩ và với ý định của người nghe ở những chỗ nào, đồng thời vạch ra những chỗ không đúng, sai lầm, vô lý, không thực tế, không phù hợp với luật pháp và đạo lý trong cách suy nghĩ và trong việc làm của người nghe. Phép lịch sự và tính khoa học của việc nói chuyện nhằm mục đích thuyết phục khi giao tiếp đòi hỏi chúng ta nên và không nên thực hiện những điều sau đây: NÊN KHÔNG NÊN 1) Nói ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc. 1) Nói dài lê thê, nói lung tung, điều này điều kia, chuyện này, chuyện kia k h ô n g ăn nhập gì với nhau. 2) Dùng từ ngữ chính xác người nghe hiểu đúng ý mình. 2) Dùng từ ngữ không đúng, người nghe hiểu sai ý mình. 3) Thái độ nói nghiêm túc, chân thành, khiêm tốn, kính trọng người nghe 3) Thái độ nói tỏ vẻ nửa đùa nửa thực, ba hoa, coi thường người nghe. 4) Nói có căn cứ thực tế, có lý và có tình, chứng tỏ mình là người từng trải có nhiều kinh nghiệm, có nghiên cứu. 4) Nói vô căn cứ, không có lý lẽ gì cả và không có ý thức chiếu cố đến lợi ích và tình cảm của con người, có vẻ thiếu kinh nghiệm và thiếu hiểu biết. 5) Bình tĩnh và chân thành lắng nghe ý kiến thắc mắc hoặc phản bác của người nghe mình rồi trả lời lại. 5) Không để cho người nghe phát biểu ý kiến thắc mắc hay phản bác, tỏ vẻ mất bình tĩnh và tự ái, lờ đi không đề cập đến hoặc không trả lời những điều mà người nghe thắc mắc, phản bác. Một cuộc tranh luận là một cuộc nói chuyện đặt biệt nhằm mục đích tìm cho ra chân lý bằng cách mỗi bên ra sức tìm kiếm, vạch ra và chứng minh sự sai lầm trong những luận điểm, những sự kiện, những số liệu và trong phương pháp nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu của bên kia, đồng thời tìm cách chứng minh rằng những điều mình nói, mình viết là đúng, những điều bên kia phê phán mình là sai.Một cuộc tranh luận có chất lượng và có hiệu quả cao khi nào mỗi bên tranh luận thấy và thừa nhận sự sai lầm hoặc thiếu sót của mình, thấy và công nhận sự đúng đắng hoặc đầy đủ của bên kia, hoặc là chứng minh và bảo vệ được sự đúng đắn trong các luận điểm, sự kiện và số liệu do mình đưa ra và chứng minh được sự sai lầm trong sự phê phán của bên kia Có nhiều loại tranh luận: tranh luận về khoa học và kỹ thuật, tranh luận về chính trị (đường lối, về chủ trương, chính sách và biện pháp), tranh luận về thẩm mỹ, tranh luận về kinh doanh ... Nhưng dù thuộc loại nào, việc tranh luận cũng phải tuân thủ các nguyên tắc sau: a) Tôn trọng đối phương: tôn trọng ý kiến của người khác (dù ý kiến đó khác với ta, thậm chí trái ngược với ta) bằng cách bình tĩnh lắng nghe, không cắt ngang ý kiến của đối phương, không phát biểu ý kiến phản bác, chê bai, nhạo báng ý kiến của đối phương ngay trong khi đối phương đang trình bày ý kiến của mình. b) Phải bình tĩnh, điềm đạm, ôn tồn, chứng minh lẽ phải của mình, chớ có nổi nóng lên, hung hăng, lên giọng, vung tay, đập bàn,... c) Cố gắng tìm thấy phần đúng, phần có lý trong ý kiến của đối phương và thừa nhận nó có lý một cách công khai và phải công khai thừa nhận cái sai trong ý kiến của mình mà đối phương đã vạch ra. d) Cả hai bên đều bình đẳng trước chân lý và đều tôn trọng về sự bình đẳng đó. Do đó, tranh luận thẳng thắn, không nể nang, không vì tuổi tác, chức vụ, cấp bậc mà nể nang không dám phê phán sự sai lầm hoặc áp đặt ý kiến của mình lên người khác. 3-LẮNG NGHE Hoạt động ngôn ngữ trong giao tiếp (nói, viết) gắn liền với sự lắng nghe người đang nói với mình. a) Lắng nghe là sự chú ý thính giác để nắm bắt, hiểu đúng và cảm thông được hết những điều mà người khác đang nói với mình. b) Lắng nghe gắn liền với sự chú ý thị giác, nghĩa là trong khi tai mình nghe người ta nói thì mắt mình cũng phải nhìn thẳng vào mắt người đang nói để phát hiện, khám phá thêm những cảm xúc, những thái độ biểu lộ trong đôi mắt của người đang nói, kể cả để biết được người đó đang nói thật lòng mình hay chỉ là để tỏ ra mình lịch sự, hay nói dối. c) Lắng nghe cũng có khi cần được biểu lộ bằng bộ mặt diễn cảm hoặc bằng những cái gật đầu chứng tỏ người nghe đã hiểu, đã cảm thông, đã tâm đắc hoặc có sự sửng sốt, ngạc nhiên về những điều được nghe. d) Lắng nghe không có nghĩa là không nói gì với người đang nói, mà nên thỉnh thoảng có sự phản hồi bằng lời nói của người nghe khi cần thiết, bằng một câu hỏi hoặc bằng một lời nói về cảm nghĩ để chứng tỏ mình có suy nghĩ về những điều được nghe và để người nói thêm phần hào hứng, tự tin, ... Tất nhiên đừng phản hồi theo kiểu cắt ngang mà phải chờ đến khi người ta nói hết điều đang nói. Tóm lại, lắng nghe là điều kiện phải có để có thể hiểu đúng và hiểu hết những điều được nghe.Hơn thế nữa, việc lắng nghe là thái độ tôn trọng người nói. 4-NÓI QUA ĐIỆN THẠI Khi có việc gấp và có thể trình bày một cách ngắn gọn, hoặc khi có một cái tin cần báo ngay hoặc cần xin ý kiến trả lời ngay cho một câu hỏi thì có thể dùng điện thoại để nói. Phép lịch sự trong việc dùng điện thoại để nói thể hiện ở mấy điểm sau đây: a) Phải tự giới thiệu mình là ai và xin phép được nói chuyện với ai ở đầu dây bên kia. b) Nếu người ở đầu dây bên kia không phải là người mình cần nói chuyện thì phải xin người ta làm ơn báo cho người mình muốn gặp để người đó đến đầu dây nói chuyện với mình. c) Phải có sự chào hỏi vài câu đã, sau đó mới nêu công việc, nêu vấn đề trao đổi ý kiến (trừ trường hợp báo một tin dữ, gấp thì có thể nói ngay, khỏi phải chào hỏi mất thì giờ quí báu). d) Nói điệu thoại ở cơ quan thì chỉ nói to vừa phải, để khỏi gây trở ngại cho mấy người ngồi gần chỗ để mấy điện thoại. Nếu là công việc thì cứ sử dụng máy trong thời gian cần thiết, nhưng nếu là việc riêng tư của mình thì nên nói ngắn gọn, nhanh chóng rồi trả lại cho cơ quan, đừng để cho cơ quan phải chờ vì sự riêng tư của mình. e) Nói xong, có chào hoặc chúc sức khỏe, không để dập máy để cắt đứt câu chuyện một cách đột ngột trong khi người đầu dây bên kia đang nói hoặc còn muốn nói. Nếu ngừng thì nên khéo léo cáo lỗi vì một lý do nào đó. f) Không nên gọi điện thoại nhà riêng của người mà mình cần nói chuyện vào những giờ bất tiện: giữa đêm khuya, sáng sớm chưa ngủ đậy, các giờ ăn trưa, ăn tối. Nếu cần thì cứ gọi nhưng có xin lỗi. 5-VIẾT THƯ Viết thư cho nhau là việc cần thiết khi cần thông tin trao đổi ý kiến, trao đổi tình cảm, hoặc bàn bạc công việc mà không đến với nhau được (nhất là vì ở xa) và không tiện nói qua điện thoại hoặc không có điện thoại. Mặc dù, qua thư từ, chúng ta chỉ nói được với nhau bằng lời (qua chữ viết) mà không diễn tả được thêm bằng cử chỉ, điệu bộ và bằng sự nhìn được vào mặt nhau để giao lưu tình cảm và cảm xúc bằng đôi mắt và bằng cả cái miệng của mình, nhưng việc viết thư lại có cái thế mạnh riêng, so với việc nói chuyện mặt đối mặt, ở chỗ mình có thể tìm được những từ ngữ đúng hơn hay hơn để viết lên giấy; nội dung vấn đề được trình bày có hệ thống, có thứ tự được sau một cách hợp lý và nói chung văn viết bao giờ cũng trong sáng, hợp lý, lưu loát, gọn gàng và diễn cảm hơn văn nói. Có hai loại thư: thư công tác và thư chuyện riêng. Thư công tác cần viết ngắn, rõ ràng, chính xác, không bóng gió và không nên thổ lộ tình cảm riêng tư hoặc nêu những sự việc không liên quan đến chủ đề công tác. Còn thư riêng thì tự do, thoải mái, nhất là trong việc nêu ra những ý nghĩ và tình cảm của mình cũng như mọi việc của bản thân, của gia đình, của địa phương ... mà mình cần nói với người sẽ nhận thư mình. Phép lịch sự trong việc viết và gởi thư cho người khác đòi hỏi chúng ta phải lưu ý việc dùng giấy kiểu gì để viết, phải viết với những lời lẽ như thế nào cho phù hợp với đối tượng, chữ viết phải đẹp và phải rõ như thế nào (hay có thể viết ngoáy), cái phong bì phải như thế nào, dán con tem và đề tên họ, địa chỉ người nhận lên phong bì như thế nào cho đẹp, thể hiện sự tôn trọng của ta đối với người nhận thư. Có người gởi thư công tác không phải bằng cách viết mà bằng cách đánh máy (vì cần lưu một bản)... còn như cho bạn, thư cho người yêu thì nên viết để thể hiện tình cảm và sự công phu của mình nhiều hơn. Đó là chưa kể ngày xưa có người lịch sự đến mức gởi thư cho người yêu của mình bằng thứ giấy mỏng, có màu hồng, xanh, hay tím phơn phớt và có ướp nước hoa để thư khi mở ra đọc có mùi hương thoang thoảng, dễ chịu, nhẹ nhàng, kín đáo! CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1) Ngôn ngữ có vai trò quan trọng như thế nào trong giao tiếp? 2) Nói chuyện nghĩa là gì và phép lịch sự khi nói chuyện với người khác là như thế nào? 3) Tranh luận nghĩa là gì và phép lịch sự khi tranh luận với người khác là như thế nào? 4) Lắng nghe trong khi giao tiếp nghĩa là gì?Sư lắng nghe quan trọng như thế nào trong giao tiếp? 5) Nói qua điện thoại như thế nào là lịch sự? 6) Viết thư như thế nào là lịch sự? Created by AM Word2CHM TÂM LÝ HỌC GIAO TIẾP 1. BỘ MẶT 1.1 Xét về mặt cấu trúc, bộ mặt là một tổng thể gồm có đầu tóc, vầng trán, đôi lông mày, hai con mắt, mũi, hai má, miệng, cằm và hai tai. 1.2. Xét về mặt thẩm mỹ, bộ mặt là bộ phận quan trọng nhất tạo nên vẻ đẹp độc đáo và đặc trưng của mỗi cá nhân. Vẻ đẹp đó không chỉ đẹp về mặt sinh học, về mặt ngoại hình mà còn đẹp về mặt nội tâm do đôi mắt và cái miệng có khả năng diễn cảm, biểu lộ thái độ tốt đẹp của con người trong giao tiếp. Ngay cả trong trường hợp sinh đôi, hai người có thể có cơ thể và bộ mặt giống nhau như đúc, nhưng vẻ đẹp nội tâm của mỗi người vẫn biểu lộ khác nhau trên bộ mặt giống nhau đó. Tất nhiên cũng có những người có bộ mặt không đẹp, thậm chí có thể nói là xấu (xấu bẩm sinh hoặc xấu do bị tai nạn), nhưng trong một mức độ nào đó, vẻ đẹp của tâm hồn, sự thông minh của trí tuệ cũng có thể ánh lên trong đôi mắt hoặc trên nụ cười. Bài 11: BỘ MẶT, CỬ ĐỘNG, CỬ CHỈ VÀ HÀNH ĐỘNG TRONG GIAO TIẾP Và cũng là tất nhiên, vẻ đẹp vốn có của bộ mặt mỗi người có thể bị mất đi trong chốc lát nếu người đó nổi cơn thịnh nộ! 1.3. Xét về mặt giao tiếp, bộ mặt là bộ phận quan trọng nhất của cơ thể người, do nó có đôi mắt và cái miệng có thể biểu lộ cảm xúc, tình cảm, thái độ và ý muốn của chủ thể đối với khách thể. Đó là chưa kể sự tham gia phụ hoạ của vầng trán và đôi lông mày, của mũi và của má. Đôi mắt biểu lộ xúc cảm, tình cảm, thái độ và ý muốn của con người qua các trạng thái khác nhau của nó. Ví dụ: - Mắt mở to (ngạc nhiên, sợ hãi) - Trợn thắt (tức giận, đe doạ) - Mắt lim dim (đang thường thức, có khoái cảm) - Mắt nhắm khẽ (nghe nhạc, suy nghĩ, thưởng thức khoái cảm) - Mắt nhắm nghiền (không thích, cảm thấy khó chịu, từ chối) - Mắt nhìn xa xăm, mơ màng (nhớ ai, nghĩ về một cái gì đó ở xa, trong kỳ ức) - Mắt liếc (đưa tình hoặc nhìn trộm) - Mắt nhìn vui sướng, âu yếm, kính trọng, tin tưởng, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, chán chường, chế diễu, khinh bỉ, tức giận,..v.v - Mắt khóc (nước mắt rưng rưng, nước mắt rơi lả chả) Cái miệng cũng biểu lộ rất rõ những xúc cảm, tình cảm, thái độ và ý muốn của chủ thể: - Miệng mím (tỏ vẻ cương quyết, cố gắng) - Miệng mở to (há hốc: kinh ngạc, sợ hãi) - Miệng cười: cười mãn, cười lặng lẽ, cười khúc khích, cười khanh khách, cười ha hả, cười hô hố.... - Cắn môi (hàm răng trên cắn nhẹ môi dưới: xúc cảm, khó nói) - Bĩu môi (chế diễu, chê bai, khinh bỉ) Vùng trán và đôi lông mày có thể nhíu lại (nhăn trán, cau mày) biểu lộ trạng thái suy nghĩ căng thẳng hay bực bội, khó chịu của con người. Mũi có thể nhăn lại hoặc phổng lên khi người ta cảm thấy tởm lợm hoặc khoái chí. Da mặt có thể đỏ lên (đỏ mặt) hoặc tái đi (tái mặt). Với tất cả các bộ phận nói trên, nhất là với mắt và miệng, bộ mặt biểu lộ một cách khác nhau các xúc cảm của con người như vui, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, giận giữ, ghê tởm. 2. CỬ ĐỘNG Cử động là một động tác, một sự động đậy của cơ thể (đầu, mắt, miệng, tay chân, v.v...) do nhu cầu của cơ thể, do thói quen, không có mục đích thông tin, giao tiếp, nhưng có thể phản ánh một tâm trạng, một hiện tượng tâm lý như thể nào đó. Ví dụ: run vì lạnh, run vì sợ, rung đùi, chớp mắt, gãi đầu gãi tai, xoa cằm, nới cà vạt, bẻ ngón tay, v.v Cử chỉ là một cử động được thực hiện cho người khác nhìn thấy để hiểu ý mình muốn nói gì với người đó. Cử chỉ là do nhân loại và dân tộc sáng tạo ra và được truyền từ những thế hệ trước đến thế hệ ngày nay và mai sau, được mọi người thống nhất cách hiểu ý nghĩa của nó. Có thể coi cử chỉ là một thứ ngôn ngữ không lời. 3.1. Cử chỉ của cái đầu: - Gật đầu một cái (đồng ý) hoặc gật đầu lia lịa (rất đồng ý) - Lắc đầu vài cái (không đồng ý) hoặc lắc đầu quầy quậy (rất không đồng ý) - Cúi đầu (chào, hoặc cung kính lắng nghe, hoặc tỏ ra biết lỗi) - Nghiêng đầu (chào, lắng nghe) - Ngẩng cao đầu (tự hào, tự tin, tỏ ý không sợ hãi) - Vác mặt lên trời (tỏ ý kiêu ngạo, coi thường kinh bỉ mọi người xung quanh) 3.2. Cử chỉ của tay: - Chìa tay ra (bắt tay người khác) - Ngửa tay ra (xin) - Nắm tay thành quả đấm (đe dọa bạo hành) - Vẫy tay (chào từ xa, gặp mặt, tạm biệt) - Ngoắc tay (gọi lại) - Xua tay (đuổi đi, xua đi) - Ngón trỏ (chỉ đường, chỉ vật) - Ngón cái (hạng tốt nhất, kết quả mĩ mãn, số I) - Hai ngón tay xoè ra thành hình chữ V (thắng lợi) 4. HÀNH ĐỘNG ĐỐI XỬ, ỨNG XỬ TRONG KHI GIAO TIẾP - Kéo ghế (mời ngồi) - Rót nước (mời uống) - Lấy quả cây, kẹo bánh (mời ăn) - Mang quà tới tặng, gửi quà cho khách mang về - Cầm tay, khoác vai, hôn - Đánh đàn, hát, mở nhạc cho khách nghe - Đưa album ảnh cho khách xem - Mời khách đi xem nhà, xem vườn - Mời khách ăn cơm, v.v 5. KỊP THỜI NẮM BẮT VÀ HỂU ĐÚNG Ý NGHĨA CỦA MỖI BỘ MẶT BIỂU LỘ XÚC CẢM CỦA MỖI CỬ ĐỘNG CỬ CHỈ VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA NGƯỜI MÀ TA ĐANG GIAO TIẾP 5.1. Để hiểu đúng tâm lý của người mà ta đang giao tiếp, ta không nên chỉ căn cứ vào những gì người đó nói mà còn phải căn cứ vào những cử chỉ, những cử động và hành động. Thật ra, xúc cảm và tình cảm, trạng thái tâm lý, thái độ của con người rất tế nhị, phức tạp và đa dạng. Ngoài những dạng cơ bản khác nhau (như những xúc cảm vui, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, giận giữ, ghê tởm...) còn có những dạng kết hợp, pha trộn (như những trạng thái tâm lý vừa mừng vừa lo, vừa giận dữ vừa thương, vừa ngạc nhiên, vừa sợ, v.v...). Vì thế, phải là người tinh tế, từng trải trong giao tiếp mới phân biệt được những xúc cảm nào là xúc cảm thuộc loại kết hợp, pha trộn được biểu lộ trên khuôn mặt của đối phương. 5.2. Mỗi người cần phải biết và hiểu tất cả những cử chỉ của dân tộc mình để sử dụng và để hiểu ý người khác trong khi giao tiếp. Khi giao tiếp với người nước ngoài, cần phải lưu ý xem trong các cử chỉ của người nước ngoài đó có cử chỉ nào là cử chỉ của những người nước đó và mình đã biết, đã hiểu chưa, nếu chưa thì nên tìm hiểu để biết và hiểu. Mặt khác, cũng nên đề phòng trường hợp mình dùng một cử chỉ nào đó, vốn là quen thuộc đối với người Việt Nam, những người nước ngoài có thể không biết, không hiểu, do ở nước họ không có cử chỉ đó trong giao tiếp. Vấn đề trở nên rắc rối khi một cử chỉ nào đó, đối với người nước này là bình thường nhưng đối với nước khác lại có ý nghĩa thô tục, xúc phạm.Trong khi giao tiếp, cần lưu ý cả những cử động của đối phương vì có những cử động phản ánh tâm trạng con người. 5.3. Cần thận trọng, dè dặt đối với người mình giao tiếp lần đầu.Thận trọng và dè dặt trong lời nói và nhất là trong hành động. Có những hành động chỉ có thể thực hiện khi cả hai bên đều đã hiểu đúng và đầy đủ về nhau, không hiểu lầm nhau, sẵn sàng bỏ qua cho nhau về những sự vụng về hoặc quá trớn của nhau. Nếu không như thế thì việc thực hiện một hành động nào đó chưa đúng lúc, đúng chỗ, và có thể bị đối phương phản ứng gay gắt, gây tổn thương hoặc làm tan vỡ mối quan hệ vừa mới được thiết lập giữa hai người. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1 Hãy phân tích tầm quan trọng của bộ mặt trong giao tiếp. 2. Đôi mắt có thể có những trạng thái khác nhau như thế nào trong giao tiếp?Mỗi trạng thái đó có ý nghĩa như thế nào về mặt tâm lý?Tại sao người ta nói rằng "đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn"? 3. Miệng có thể có những trạng thái khác nhau như thế nào trong giao tiếp?Mỗi trạng thái đó có ý nghĩa như thế nào về mặt tâm lý? 4. Hãy miêu tả bộ mặt khi nó biểu lộ những xúc cảm vui mừng, buồn rầu, ngạc nhiên, sợ hãi, giận dữ, ghê tởm. 5. Cử động là gì, cử chỉ là gì, khác nhau ở chỗ nào ? 6. Nêu một số cử động thường thấy ở con người. Mỗi cử động đó có thể là sự biểu lộ của một trạng thái tâm lý như thế nào? 7. Nêu một số cử chỉ của đầu, của tay và cho biết ý nghĩa thông tin của mỗi cử chỉ đó trong giao tiếp. 8. Trong giao tiếp, người ta thường có những hành động gì? Created by AM Word2CHM TÂM LÝ HỌC GIAO TIẾP 1) SHEILA OSTRANDER. Nghệ thuật giao tiếp. NXB Long An, 1989. 2) BRANDON TOROPOV. Nghệ thuật giao tiếp hữu hiệu nơi công sở. NXB Trẻ, TP HCM, 2001. 3) M. KAY DUPONT. Nghệ thuật giao dịch trong kinh doanh.NXB Đà Nẵng, 1995. 4) MURIEL SOLOMON. Làm việc với người trái tính trái nết.NXB Trẻ. 5) ELENA JANKOWIC - SANDRA BERNSTEIN. Cung cách ứng xử (cẩm nang giao tế trong kinh doanh). NXB Thống Kê, Hà Nội, 1997. 6) ALLAN PEASE.Thuật xét người qua điệu bộ. NXB Trẻ, TP HCM, 1999 7) ROGER E. AXTELL. Cử chỉ.NXB Trẻ. TP HCM, 1999. 8) VŨ THị KIM PHƯỢNG - DƯƠNG QUANG TÀI LIỆU THAM KHẢO HUY.Giao tiếp trong kinh doanh. NXB Thống Kê, Hà Nội, 1997. 9) THÁI TRÍ DŨNG. Nghệ thuật giao tiếp và thương lượng trong kinh doanh. NXB Thống Kê, Hà Nội, 1998. 10) TRẦN BÁ CỪ. Nhận b iết người qua hành vi ứng xử. NXB Phụ Nữ, Hà Nội, 2000. 11) LÊ THỊ BỪNG – HẢI VANG. Tâm lý học ứng xử.NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997. 12) NGUYỄN THỊ OANH. Tâm lý truyền thông và giao tiếp.Khoa Phụ Nữ học - Đại học Mở Bán Công, TP HCM, 1995. 13) TRẦN TUẤN LỘ. Tâm lý học giao tiếp.Khoa Đông Nam Á - Đại Học Mở Bán Công, TP HCM, 1993. Created by AM Word2CHM
File đính kèm:
- tai_lieu_tam_ly_hoc_giao_tiep_tran_tuan_lo.pdf