Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tóm tắt Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh: ...là người lãnh đạo duy nhất. - Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong một số trường hợp khác, Người cũng khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “Đảng của dân tộc Việt Nam”.... bị qui định bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. + Đảng là một bộ phận cấu thành xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội, cả cái tốt và cái xấu. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện, Đảng phải thườn...đã có quan điểm “cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc, mà còn có thể giúp đỡ người anh em ở phương Tây”. Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại cần phải có một đường lối độc lập tự chủ đúng đắn. Kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập dân tộc mình với bốn mục tiêu c...
i thực tiễn của đời sống nhân dân - Ba là, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc c) Văn hóa đời sống Thực chất của văn hoá đời sống là đời sống mới với ba nội dung: Đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới. Ba nội dung có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức mới giữ vai trò chủ yếu + Đạo đức mới: thực hành đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định:“ Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân „, “ Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới’’- Hồ Chí Minh: toàn tập, t 5, tr 104, 110 + Lối sống mới: sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà, truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hoá của nhân loại. Phải làm sao cho mỗi hoạt động của con người đều mang tính văn hóa + Nếp sống mới: nếp sống văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần dần trở thành thói quen, phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, Cái gì mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung. II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC 1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức a) Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức - Đạo đức là gốc của cách mạng Đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hóa biến chất của Đảng. Người yêu cầu Đảng phải là “đạo đức, là văn minh „ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế Như vậy, trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó đức là gốc của tài, hồng là gốc của chuyên, phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu quả hành động. - Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược, sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho CNCS trở thành sức mạnh vô địch. b) Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng - Trung với nước, hiếu với dân “Trung” và “hiếu” vốn là những khái niệm đạo đức cũ trong tư tưởng đạo đức Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất, cũng là phẩm chất đạo đức bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ „ HCM mượn khái niệm đạo đức cũ và đưa vào đó một nội dung mới, tạo nên một cuộc cách mạng, trong quan hệ về đạo đức, đó là “Trung với nước, hiếu với dân „ Người nói “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời“. Hồ Chí Minh, toàn tập, t6, tr 320-321 Theo HCM, Trung với nước phải gắn liền với hiếu với dân, vì nước là của dân và dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hành, lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đày tớ của dân chứ không phải là “quan cách mạng’’ Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng và giữ nước trung thành với con đường đi lên của đất nước, là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân là thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Phải gần dân, kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc Yêu cầu cán bộ lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư Là phẩm chất gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ, được HCM tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng: ngày xưa phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ thực hiện mà bắt nhân dân tuân theo để phụng sự cho quyền lợi của chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện, làm gương cho nhân dân theo để đem lại hạnh phúc dân. Với ý nghĩa như vậy, đây là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất“trung với nước, hiếu với dân” - Cần: Siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất với tinh thần tự lực cánh sinh - Kiệm: Tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, công sức, của cải của nước của dân); không xa xỉ, không hoang phí, phô trương, bừa bãi, liên hoan, chè chén lu bù. - Liêm: Tôn trọng của công, của dân. Phải trong sạch, không tham tiền của, địa vị, danh tiếng. - Chính: Không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Thể hiện qua 3 mối quan hệ: với mình, với người, với việc. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người, Cần, Kiêm, Liêm, Chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, văn minh tiến bộ của dân tộc; Là nền tảng của đời sống mới, của thi đua yêu nước, là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Tổ quốc - Chí công vô tư: là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị, làm việv gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiện hạ”. Thực hành chí công vô tư là nêu chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. - Thương yêu con người, sống có tình, có nghĩa Tình yêu thương con người là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người bị áp bức bóc lột, không phân biệt màu da, dân tộc. Phải được xây dựng trên lập trường GCCN, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày ... Nó đòi hỏi mỗi người khác phải chặt chẽ, nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng, giàu lòng vị tha với người khác. Phải tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên, kể cả những người lầm đường lạc lối, không phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp con người, vùi dập con người - Có tinh thần quốc tế trong sáng -Tư tưởng HCM là sự thống nhất, hoà quyện giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. -Chủ nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức CSCN, bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và của xã hội XHCN -Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc: + Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả các dân tộc + Chống hằn thù, bất bình đẳng dân tộc, phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập, bành trướng bá quyền + Chủ trương giúp bạn là tự giúp mình - Đoàn kết quốc tế nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần: Bốn phương vô sản đều là anh em. c) Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. - Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức: Là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới - Nói đi đôi với làm đối lập với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm. Cũng là biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ “ vác mặt làm quan cách mạng” - Nêu gương đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hoá phương Đông: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” - Đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng đến “đạo làm gương” Phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt việc tốt trong mọi lĩnh vực, mọi đối tượngNgười nói:“Người tốt việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có” - Xây đi đôi với chống Trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt- xấu, đúng-sai, cái đạo đức và cái vô thường đen xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của con người. Vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức không rõ ràng. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây -Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo dục phải phù hợp với từng giai đoạn, lứa tuổi, nghề nghiệp, giai cấp, môi trường . Phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, xấu, vô đạo đức trong đời sống hàng ngày. Phải kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen, tập quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân. - Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người. Khổng tử nói:“chính tâm, tu thân”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là cuộc cách mạng trong bản thân mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, để trở thành con người mới không phải là một việc dễ dàngDù khó khăn gian khổ nhưng muốn cải tạo thì nhất định thành công” - Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày 2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh a) Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân: - Đạo đức, hiểu tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công bằng được xã hội thừa nhận. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên giá trị con người. - Hồ Chí Minh quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho thanh niên từ rất sớm, vì thanh niên là “người chủ tương lai của nước nhà”- Sdd, t 5, tr 185. -Thực hành đạo đức trong đời sống hàng ngày không chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách . - Trong xã hội, mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng. - Kiên trì, tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh: - Sinh viên phải có “6 cái yêu”: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và kỷ luật - Sinh viên phải: + Rèn luyện cho mình những đức tính: trung thành, tận tụy, thật thà, chính trực. + Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình. + Trong học tập, phải kết hợp lý luận và thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa các nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi, chống lười biếng, coi khinh lao động, kiêu ngạo, giả dối, khoa khoangPhải trả lời được câu hỏi: học để làm gì? Học để phục vụ cho ai? + Phải xác định rõ thế nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là thù? b) Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay + Phần lớn sinh viên, thanh niên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh, khiêm tốn, cần cù và sáng tạo, có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, năng động nhạy bén, dám chịu trách nhiệm; gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. + Do tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập hút xách, thiếu trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp Đây là những biểu hiện không thể coi thường. - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh + Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người + Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường + Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người. + Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người a) Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể - Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn lên cái Chân- Thiện- Mỹ. Xem xét con người trong tính đa dạng: trong quan hệ xã hội, trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng, trong hoàn cảnh xuất thân, điều kiện, làm việc - Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ bao gồm cả mặt xã hội và mặt sinh học của con người. “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình” – Sdd, t 7, tr 60 b) Con người cụ thể, lịch sử - Hồ Chí Minh dùng khái niệm con người theo nghĩa rộng trong một số trường hợp ( phẩm giá con người, giải phóng con người, người ta, con người, ai..) - Xem xét con người trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính, nghề nghiệp, trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc và quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể, khách quan c) Bản chất con người mang tính xã hội -Để sinh tồn, con người phải lao dộng sản xuất, xác lập các mối quan hệ giữa người với người - Con người là sản phẩm của xã hội, là tổng thể các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào, loài người. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người - Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng hùng hậu, không ai thắng nối” – Sdd, t 6, tr 281. - Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người. Con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng: Khi đất nước còn nô lệ , mục tiêu là giải phóng DT, giành độc lập dân tộc. Khi có chính quyền, mục tiêu là ăn, mặc, ở, đi lại, học hành được ưu tiên. Con người là mục tiêu cách mạng thì mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều vì lợi ích chính đáng của con người. - Con người là động lực của cách mạng, điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH Không phải mọi người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hoá, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử văn hoá của dân tộc Con người là động lực khi được hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. - Phải thấy mối quan hệ biện chứng giữa con người mục tiêu và con người động lực. Chăm lo cho con người mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ phát huy con người động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người” - Trồng người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước,vừa nằm trong chiến lược GD-ĐT “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”. - Chiến lược trồng người là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, giáo dục là biện pháp quan trọng bậc nhất Nội dung, phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể , mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống XHCN lên hàng đầu. Đức và tài thống nhất với nhau, kết hợp nhận thức và hành động, lời nói và việc làm Có như vậy mới có thể “ học làm người” - Con người XHCN có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau: kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp, hình thành những phẩm chất mới: tư tưởng XHCN, có đạo đức cách mạng, có trí tuệ và bản lĩnh làm chủ, có lòng nhân ái, vị tha độ lượng. Quan niệm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. “ Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học” KẾT LUẬN Hồ Chí Minh được cả thế giới tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới và một nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn vì những sự đóng góp mới của Người vào lý luận và sự phát triển chung của văn hóa nhân loại - Trong lĩnh vực văn hóa, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển của đất nước. - Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo đức macxit. Những đóng góp đó đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo đức học lỗi được thế giới thừa nhận. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới có giá trị lý luận và thực tiễn rất quan trọng: o Về lý luận: có nội dung sâu sắc và mới mẻ, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp GD, ĐT con người Việt Nam. Trên cơ sở quan triệt quan điểm GD đạo lý để làm người, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng XHCN. Đảng ta xác định GD và ĐT là quốc sách hàng đầu. o Về thực tiễn: sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh việc chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Tư tưởng về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới là một bộ phận rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là vấn đề nhận thức, mà còn là trách nhiệm chính trị của các dân tộc, nhằm xây dựng Việt Nam thành một quốc gia văn minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
File đính kèm:
- tai_lieu_tu_tuong_ho_chi_minh.doc