Tài liệu Văn học dân gian Việt Nam - Trần Tùng Chinh (Phần 2)
Tóm tắt Tài liệu Văn học dân gian Việt Nam - Trần Tùng Chinh (Phần 2): ... này một cách hồn nhiên: "Đố thô giảng thanh, miệng chào anh, hai tay nâng đít". Vật được đố là thanh nhưng ngôn ngữ để tạo sự liên tưởng lại là ngôn ngữ tục (tức nói đến sinh thực khí và hoạt động tính giao hoặc nói đến cơ quan bài tiết, hoạt động bài tiết). Khi trí tưởng tượng hướng theo l...ừng sự vật, con vật trong cơn mưa: dưa méo mó (tục ngữ: nắng tốt dưa, mưa tốt lúa - dưa kết trái vào cử mưa thường không tròn quả); ốc thấy động nước, chui vào vỏ chìm xuống; tôm búng mình bơi lăng quăng hớt các sinh vật phù du; cò được dịp đục nước, tranh thủ kiếm mồi. Nghĩa bóng của bài ca... kết hợp kịch bản văn học với nghệ thuật diễn xuất của diễn viên. Rất nhiều ý kiến đồng tình với cách xác định này. Một số nhà nghiên cứu khác sử dụng thuật ngữ Trò diễn dân gian thay vì sân khấu dân gian như đã trình bày. MỘT SỐ THỂ LOẠI TIÊU BIỂU CỦA “SÂN KHẤU DÂN GIAN” 1. Tuồng: (còn gọ...
n bản sắc dân tộc của chèo. b. Chèo - một hình thức kể chuyện độc đáo kết hợp tích diễn và ứng diễn: Chèo kể lại trên sân khấu một câu chuyện nhiều người đã biết. Diễn viên là người kể chuyện, mô tả thời gian không gian và đóng vai trò của nhân vật trong truyện. Khi diễn, người diễn viên giao lưu trực tiếp với người xem qua tiếng “đế”. Tiếng "đế" bao gồm lời hỏi, lời đỡ giọng, lời họa theo. Đây là một hình thức độc đáo của chèo, giúp diễn giải nội dung tích trò, hướng dẫn, gợi suy nghĩ cho người xem, đồng thời còn có thể bình giá nhân vật, sự kiệnDưới đây là một trích đoạn với tiếng "đế" trong Quan Âm Thị Kính: Thị Mầu: Tôi Thị Mầu con gái phú ông Tiền cùng gạo, tôi lên chùa cúng quả. Tiếng đế: Nhà mày có mấy chị em? Thị Mầu: Nhà tôi hiếm hoi...được chín chị em. Tiếng đế: Có ai như mày không? Thị Mầu: Có tôi là chín chắn nhất. Hôm nay là mấy nhỉ? Tiếng đế: Mười tư. Rằm. Thị Mầu: Này chị em ơi! Tiếng đế: Làm sao? Thị Mầu:(hát) Ấy thế mà Thị Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ. Đò đưa cấm giá, tôi lên chùa từ mười ba. Cũng chính vì lý do đó, các nghệ sĩ tài năng, từ câu chuyện có sẵn và lời hát chèo của các nghệ nhân đặt lời cộng với tiếng "đế" đôi khi là của người xem chèo, đã ứng tác ngay trên sàn diễn làm cho vở diễn thêm sinh động và hứng thú (Cũng giống như loại hình rối nước đã trình bày, sự ứng tác trong chèo vừa là ưu điểm vừa là nhược điểm). c. Chèo - một loại hình sân khấu đậm chất hài: Dù câu chuyện có nói về những số phận đau khổ bất hạnh nhưng kết thúc có hậu cùng tiếng cười lạc quan của chèo luôn tạo nên sự sôi động vui vẻ trẻ trung. Chính vì vậy, vai hề không thể thiếu trong chèo. Vai hề trong chèo (mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau) là một sáng tạo độc đáo với những cách gây cười, các thủ pháp gây cười luôn phong phú, đa dạng và linh hoạt (từ tên gọi, hóa trang đến động tác, ngôn ngữ). d. Chèo - một hình thức sân khấu ước lệ, tượng trưng. Do đặc trưng diễn xướng, chèo đã phát huy tối đa tính ước lệ, tượng trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật (đạo cụ, lời hát, hóa trang, động tác). Chẳng hạn cây quạt trong chèo là một đạo cụ giàu tính ước lệ, tượng trưng, ngoài chức năng dùng để quạt, quạt còn là nơi đề thơ; có lúc là ngọn roi, khi lại là cây bút. Nó giúp cho người diễn viên tung hứng sáng tạo vô cùng linh hoạt. Hay khi diễn viên trên sân khấu chèo đi một vòng trên sân khấu tức là người xem ngầm hiểu rằng họ đã đi từ nơi này sang nơi khác nhiều khi khoảng cách rất xa (như từ chiến trường về quê nhà chẳng hạn). Tính ước lệ tượng trưng còn biểu hiện ngay trong ngôn ngữ, khi diễn viên nói: "Cha nuôi con chốc đã ba thu" thì so với màn trước đó, người xem sẽ hiểu ngay là ba năm đã trôi qua. Giá trị nội dung của chèo sân đình: Nổi bật trong loại hình nghệ thuật chèo là giá trị hiện thực sắc sảo. Thông qua nội dung cốt truyện, các vở chèo phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội và phê phán đả kích những thế lực đen tối cùng những đại diện cho những thói hư tật xấu trong xã hội. Đó là hình ảnh đáng lên án của bè lũ vua chúa sâu dân mọt nước; của bọn quan lại tham nhũng xấu xa và các loại thầy trong xã hội phong kiến đầy những thói hư tật xấu (Tiêu biểu là vở chèo Nghêu sò ốc hến, Quan âm thị Kính...) Quan chèo còn chẳng ra gì Vua chèo cũng chẳng khác chi thằng hề. Nhân vật xã trưởng (Quan âm thị kính) đã tự xưng như sau: Như tôi đây chính danh xã trưởng Tính tôi đây hay trịch thượng trong làng Trên ơn nấp bóng quan Xoay chúng dưới kiếm ăn cũng khá... Bên cạnh đó, nội dung các vở chèo phẩn ảnh chân thành mà xúc động hình ảnh đời sống nhân dân vô cùng khổ cực trong một xã hội đầy rẫy những bất công (Nỗi khổ của mẹ con Thị Phương - chèo Trương Viên, nỗi oan của Thị Kính - Quan Âm Thị Kính) để từ đó vạch rõ mâu thuẫn giai cấp gay gắt giữa bọn thống trị tàn bạo, bọn địa chủ xấu xa và quần chúng nhân dân lao động - đặc biệt là nông dân. Nhưng thông qua việc phanh phui sự thối nát của xã hội và phơi bày những thân phận bất hạnh khổ đau bị xã hội vùi dập xô đẩy, chèo lên tiếng bênh vực quyền sống, đề cao phẩm chất, phẩm giá con người - đặc biệt là người phụ nữ (Các vai “chín” của Thị Kính - Thị Phương là những vai chính tiêu biểu). Quan điểm nhân đạo cao cả từ loại hình nghệ thuật dân gian này cũng hòa nhập vào dòng chảy nhân văn chủ nghĩa của văn học dân gian nói riêng và văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX nói chung. Bên cạnh hình ảnh người chinh phụ chờ chồng, người cung nữ sống trong lầu son cô đơn lạnh lẽo tuổi xuân mỏi mòn, nàng Kiều ba chìm bảy nổi...trong các tác phẩm văn học viết, chèo dân gian đã làm phong phú thêm giá trị nhân đạo bằng những đóng góp đáng kể. Đó là cái nhìn cảm thông sâu sắc với những số phận phụ nữ bất hạnh; thái độ trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến và sự căm phẫn gay gắt trước những thế lực đen tối chà đạp lên thân phận đau khổ của họ - nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến - giai đoạn xuống dốc. Đó là số phận của nàng Thị Kính: “Thuở làm vợ chồng ngờ thất tiết Lúc giả trai, cho gái đổ oan tình”. Đó là vẻ đẹp của Thị Phương trong hoàn cảnh chiến tranh “Có sinh có đẻ cho can Nàng dâu nuôi mẹ thế gian mấy người”. “Tiết nghĩa ai bằng nàng Thị Phương Thờ chồng nuôi mẹ trọn đôi đường”. Kkhông chỉ thế, nội dung nhân đạo còn biểu hiện ở dạng nhân vật thuộc vai “lệch” như Xúy Vân (chèo Kim Nham), Thị Mầu (Quan Âm Thị Kính) ở chỗ họ dám vượt lên dư luận xã hội, lễ giáo phong kiến để hướng tới khát vọng chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Giá trị nghệ thuật của chèo sân đình: Chèo là một loại hình nghệ thuật tổng hợp của văn nghệ dân gian. Phải được tai nghe các điệu hát để hiểu được nội dung vở chèo, mắt thấy các động tác, điệu bộ, nghệ thuật diễn xuất của các nhân vật thì mới hiểu được đầy đủ nét độc đáo của chèo. Ở đây, ta chỉ xét các yếu tố nghệ thuật ở kịch bản văn học của chèo mà thôi. * Về kết cấu: Chèo thường trình bày các sự kiện trong câu chuyện được kể theo trình tự thời gian. Và trong tổng thể chung của trình tự trước sau đó, các tác giả thường chọn những đoạn quan trọng nhất trong cuôc đời nhân vật để tập trung khai thác. Vì chèo là một lối kể chuyện bằng sân khấu (ở đó có sự tổng hợp các yếu tố như ca hát - điệu - bộ - diễn xuất), nên kết cấu của vở chèo ít nhiều phụ thuộc vào một thể loại khác (hay nói cách khác là có liên quan mật thiết đến kết cấu của một tác phẩm tự sự mà chèo dựa vào đó làm tích truyện). Cốt truyện của chèo thường dựa vào các sự tích có sẵn trong truyện cổ dân gian và về cơ bản vẫn giữ tình tiết y như truyện (nên nghiên cứu phần này ta có thể tham khảo lại đặc điểm kết cấu của truyện dân gian). Cũng như truyện dân gian, chèo sẽ kể lại bằng hình thức biểu diễn đặc trưng của mình cuộc đời của một nhân vật nào đó nên mỗi vở chèo thường có một nhân vật trung tâm. Nhân vật này thường có mặt xuyên suốt diễn biến câu chuyện và dẫn dắt kết cấu của cốt truyện. * Về nhân vật: Nhìn chung, nhân vật chèo thể hiện rõ tính cách nhiều nhất qua diễn xuất. Tính cách ấy thường được biểu hiện bằng hành động cường điệu và có tính chất ước lệ của diễn xuất (Điều này sẽ bị hạn chế khi ta tìm hiểu nhân vật qua kịch bản văn học). Có một điểm đặc biệt rất thú vị là khi nhân vật chèo (thường là vai chính - vai phụ) bước ra sân khấu, họ thường tự giới thiệu và xưng danh về mình. Họ kể tên - họ, nghề nghiệp, quê quán, dòng dõi, gia cảnh đôi khi kể ra cả một hoặc một vài đặc điểm tính cách nào đó của mình. Chẳng hạn khi nhân vật Thị Mầu (Quan Âm Thị Kính) xuất hiện, lời hát của nhân vật này là: Tôi Thị Mầu, con gái phú ông Tiền cùng gạo, tôi lên chùa cúng quả (nhà mày có mấy chị em ?) Nhà tôi hiếm hoi ...được chín chị em (Có ai như mày không?) Có tôi là chín chắn nhất ! Ấy mà Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ. Đò đưa cấm giá lên chùa từ mười ba. Hay lời tự giới thiệu của nhân vật Xúy Vân (Kim Nham): Chẳng giấu gì tôi tên gọi Xúy Vân Lấy Kim Nham nhà khó gian truân Chồng học vằng chầy ngày mong mỏi... Nhân vật trong chèo thường chia làm hai tuyến: Vai chín và vai lệch ( Nếu nhân vật là nữ thì gọi là nữ chín và nữ lệch). Vai chín là vai thể hiện những nhân vật tích cực thể hiện những đức tính tốt của con người (như Thị Kính, Thị Phương, Thạch Sanh) Còn ngược lại, vai lệch là những nhân vật tiêu cực, thường thuộc tầng lớp thống trị hay những người có thói hư tật xấu trong xã hội (ví dụ như Lý Thông, Thị Mầu). Tuy nhiên sẽ là thiếu sót nếu không nói đến một loại vai không thể thiếu trong các vở chèo đó là vai hề. Vai hề là phương tiện gây cười quan trọng và chủ yếu trong chèo, mặc dù trong chèo dân gian truyền thống ít thấy những vở hài thực sự mà thường chỉ có những màn hài, lớp hài, yếu tố hài xen kẻ (đôi khi nằm ngoài nội dung tích truyện hoặc đi xa tích truyện). Mặc dù thế, tiếng cười toát ra từ nhân vật hề chèo cũng có nội dung và ý nghĩa về cơ bản tương tự như tiếng cười trong truyện cười dân gian và ca dao trào phúng. Vai hề trong chèo cũng có nhiều cách phân chia. Có khi người ta dựa vào nội dung phản ảnh để chia làm hai loại hề tích cực và hề tiêu cực. Có khi người ta dựa vào nghệ thuật biểu hiện (khi diễn, diễn viên hề hay sử dụng những đạo cụ nào) để phân thành ba loại khác như hề gậy, hề mồi và hề đồng. Có người đưa ra thêm một loại vai hề nữa đó là hề tính cách. Dưới đây xin điểm qua sơ lược các loại vai vừa kể. Vai hề tích cực (còn gọi là hề áo ngắn) thuộc tầng lớp dưới trong xã hội (Tôi tớ, lính canh, anh mõ, tiểu đồng). Loại này đại diện cho nhân dân lên tiếng đả kích giai cấp thống trị, phê phán những thói hư tật xấu bằng những lối nói, lối diễn dí dỏm thông minh. Vai hề tiêu cực ít nhiều đại diện cho các tầng lớp trên (như quan lại, thầy đồ, thầy bói, phù thủy). Loại này thường tự bộc lộ mình hay là phương tiện gợi cho vai hề tích cực giễu mình. Vai hề tính cách không mang tên là hề trong vở chèo nhưng cũng có chức năng gây cười. Hề tính cách vừa là phương tiện vừa là đối tượng của tiếng cười phê phán do họ gây ra (lão say, lão Mốc, mẹ Đốp, mụ quán, Lý trưởng...) Hề gậy (trong tay có cây gậy) thường là người hầu đi theo chủ trên đường xa. Chiếc gậy thường được hề sử dụng để gánh hành lý cho chủ. Nhưng không chỉ có thế, chiếc gậy còn được dùng như một đạo cụ mang tính chất tượng trưng ước lệ để cho vai hề biểu diễn (khi thì được dùng để múa, khi thì là cái đòn gánh, cái gậy phòng thân, đánh chó, đuổi kẻ trộm, thậm chí có khi còn là cây bút để đề thơ...). Đôi khi người ta còn gọi đây là hề theo bởi hay theo các bác, các thầy đi trẩy hội, đi du xuân, đi học, đi thi... Hề mồi (trong tay có chiếc "mồi" làm bằng giẻ tẩm dầu hoặc nến để thắp sáng) Là lính tráng, người hầu trong dinh quan, trong cung đình hay trong nhà. Hề thường dùng mồi lửa để châm sáng hoặc dùng so PHẦN THỨ BA: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP SƯU TẦM TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC SƯU TẦM VHDG ĐỊA PHƯƠNG Việc nghiên cứu sưu tầm văn học dân gian địa phương ở nhà trường có một ý nghĩa vô cùng thiết thực trong hoạt động dạy và học văn của thầy giáo và học sinh. Trước hết, công việc này tạo điều kiện thuận lợi và giúp cho giáo viên, học sinh tiếp xúc trực tiếp với thực tế văn học dân gian. Từ đó mà hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn những tri thức về loại hình nghệ thuật này. Qua công tác điền dã ở các địa phương, người dạy và người học chắc chắn sẽ thấy kính trọng hơn làng quê và những người đã sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Hơn thế nữa, hoạt động sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian cũng là một công tác cụ thể, hữu ích, thiết thực góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống của dân tộc. Làm công tác sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian địa phương, các trường có nhiều thuận lợi. Thứ nhất, người sưu tầm phần lớn là người địa phương nên hiểu rõ địa phương trên nhiều lĩnh vực. Địa bàn làng xã nơi trường đóng gần gũi và có quan hệ mật thiết với nhà trường, chắc chắn nhà trường sẽ được các cấp chính quyền, đoàn thể và cha mẹ và học sinh giúp đỡ tích cực. Thứ hai, nhà trường có thể huy động đông đảo lực lượng giáo viên và sinh viên vào công tác sưu tầm văn học dân gian. Ngoài ra, có thể vận dụng các lực lượng khác (như thanh niên, phụ nữ, văn hóa thông tin) cùng phối hợp hoạt động. MẤY VẤN ĐỀ VỀ PHƯƠNG PHÁP SƯU TẦM, NGHIÊN CỨU VHDG ĐỊA PHƯƠNG 1. Chọn địa bàn để tổ chức sưu tầm VHDG: Làng (bản) nào của nước ta cũng từng có các sinh hoạt văn hóa dân gian, có các nghệ nhân dân gian và tiềm tàng vốn văn học dân gian. Bởi vậy, trường đóng ở địa phương nào thì lấy địa phương ấy làm địa bàn điền dã. Nên chọn làng (bản) làm đơn vị cơ sở cho công việc điền dã. Bởi làng, từ xa xưa vốn là địa bàn cư trú của một cộng đồng cư dân. Nó là đơn vị cơ sở khép kín trong thời kỳ phong kiến có lịch sử, tổ chức, hoạt động kinh tế và truyền thống văn hóa tương đối độc lập. Làng lại gắn liền với gia đình và dòng họ. Từ việc sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian một làng rồi nhiều làng trong một khu vực, tiến tới sưu tầm , nghiên cứu văn học dân gian của một địa bàn rộng lớn hơn (như huyện, tỉnh) 2. Sưu tầm, nghiên cứu những gì khi đi điền dã? Sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian địa phương không có nghĩa là chỉ bó hẹp trong việc ghi chép các tác phẩm văn học dân gian, mà phải điều tra, ghi chép, nghiên cứu tất cả những gì có liên quan đến nó. Hồ sơ về văn học dân gian của một làng có thể gồm những phần sau: . Sơ lược về làng (bản): Tên làng (tên nôm, tên chữ, tên dân tộc). Những tên gọi ấy đã thay đổi qua các thời kỳ như thế nào? Làng thuộc xã, huyện, tỉnh nào qua các thời đại cho đến ngày nay Địa lý: Diện tích? Làng giáp những làng, xã nào? Núi, sông, hồ, đầm cùng các địa danh ở làng. Sơ lược lịch sử làng: Quá trình hình thành làng, những người có công tạo lập làng, những sự kiện lịch sử chính diễn ra ở làng.... Sơ lược về kinh tế – dân cư như hoạt động kinh tế của làng (đất đai, tài nguyên, các ngành nghề), đời sống cư dân và số lượng nhân khẩu, các dân tộc, các dòng họ chính. .Những tài liệu, hiện vật, di tích lịch sử văn hóa có liên quan đến VHDG: Tài liệu thành văn (địa phương chí, gia phả, hương ước, bia, các tác phẩm văn chương được ghi chép, xuất bản) Các danh nhân văn hóa – lịch sử ở làng Các hiện vật văn hóa – lịch sử (nhạc cụ, tác phẩm hội họa) Những di tích lịch sử, văn hóa có liên quan đến truyền thuyết, tục ngữ, ca dao, vè (đình chùa, miếu mạo, cây đa, bến nước, núi, sông, kênh, rạch, tên cầu, tên làng, xóm, chợ) Phong tục tập quán có liên quan đến VHDG. . Các tổ chức và sinh hoạt văn nghệ dân gian Các tổ chức hoạt động văn nghệ dân gian (phường, hội) Các thế hệ nghệ nhân (tiểu sử sơ lược, khả năng, thành tích hoạt động) Các hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian (lễ hội, hò, hát). Phần này cần mô tả tỉ, cụ thể. Các sáng tác dân gian Ghi chép cụ thể từng tác phẩm và phân loại chúng, sắp xếp theo thể loại. Khi ghi chép các tác phẩm văn học dân gian cần ghi các bản được nghe nghệ nhân đọc, hát, kể đặc biệt chú ý các dị bản, các tác phẩm trực tiếp nói về cảnh vật, cuộc sống, lịch sử và con người ở địa phương. Phải chú thích kỹ các địa danh, nhân vật, sự kiện lịch sử được nói đến trong tác phẩm, cùng với các từ địa phương, các lời giải đố Bên cạnh đó, nhớ ghi rõ người cung cấp tư liệu, người sưu tầm, thời gian và địa điểm ghi chép. 3. Cách thức tổ chức tiến hành công tác sưu tầm VHDG địa phương: Trước hết cần điều tra sơ bộ tình hình văn học dân gian địa phương, sau đó lên kế hoạch điền dã ở làng, xã đã chọn. Sau khi đã huấn luyện nghiệp vụ cho những người tham gia điền dã, bắt đầu công tác lên đường đi sưu tầm. Ở các trường học có thể tổ chức các hình thức điền dã sau: Tổ chức thành đoàn, nhóm điền dã trong một thời gian nhất định (từ 1 tuần – 1 tháng) Giao cho học sinh các làng xã về ngay địa phương mình sinh sống để sưu tầm văn học dân gian. Thời gian sưu tầm có thể kéo dài trong suốt vài tháng. Tổ chức thi sưu tầm văn học dân gian từng trường hoặc nhiều trường với nhau (do phòng Giáo dục và phòng Văn hóa huyện phối hợp tổ chức). Khi có mặt ở địa bàn cần sưu tầm, cần chú ý xác định đối tượng khai thác tư liệu. Đó là tất cả mọi thành viên trong làng, xã, ấp, huyện...Nói chung, nếu họ có biết ít, nhiều về văn học dân gian (kể cả trẻ em) thì họ đều có thể là đối tượng để ta tiếp xúc, hỏi han, ghi chép tác phẩm văn học dân gian. Đặc biệt chú ý các đối tượng sau: Các nghệ nhân dân gian, những người có học (thầy giáo, thầy thuốc), những người từng tham gia biểu diễn và sáng tác văn học dân gian. Để công tác sưu tầm đạt nhiều thành quả cao, người tổ chức đi sưu tầm cần chú ý kết hợp việc sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian trùng khít với thời điểm địa phương có tổ chức các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian ở làng xã (từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn). Những có hội ấy không chỉ tạo hiệu quả cao cho công tác sưu tầm văn học dân gian mà còn để phát huy vốn văn học dân gian địa phương, động viên, khích lệ việc bảo tồn di sản văn hóa truyền thống ở địa phương đó. 4. Xử lý và biên soạn tư liệu đã sưu tầm Mỗi tác phẩm sưu tầm được nên ghi đúng vào các tờ giấy rời để tiện việc sắp xếp, phân loại. Hồ sơ điền dã nên xếp thành 3 loại: Hồ sơ A: Gồm toàn bộ các tài liệu đã ghi chép được (hồ sơ gốc). Phân loại sơ bộ theo thể loại, hoặc theo địa điểm sưu tầm. Hồ sơ B: Hồ sơ đã chỉnh lý và việc xử lý tư liệu bao gồm các công việc sau: Bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa các câu, chữ, chi tiết còn thiếu sót trong lần ghi chép đầu tiên. Chú thích những vấn đề cần thiết (địa danh, sự kiện lịch sử, tiếng địa phương) Loại bỏ các tác phẩm trùng lặp hoặc đã in trên nhiều sách báo, hoặc không phải của địa phương mình Hồ sơ C: Chọn lọc các tác phẩm tốt (về nội dung và nghệ thuật) và thực sự là sản phẩm của địa phương để sử dụng (xuất bản hoặc dùng làm tài liệu học tập, giảng dạy ở trường) . DANH MỤC TƯ LIỆU THAM KHẢO A. Giáo trình: 1. Giáo trình văn học dân gian Việt Nam - Lê Chí Quế- ĐHQG. H. 1998. 2. Giáo trình văn học dân gian Việt Nam - Hoàng Tiến Tựu- NXBGD. H.98 3. Giáo trình văn học dân gian Việt Nam - Trần Hoàng- ĐH Huế.1995 4. Giáo trình văn học dân gian Việt Nam - ĐHSP TP HCM 5. Văn học dân gian Việt Nam - Đinh Gia Khánh(CB) NXB GD H.1998 6. Văn học dân gian Việt Nam - Đỗ Bình Trị - NXB GD H.1990 B. Tác phẩm: 1. VHDG- Những tác phẩm chọn lọc- Bùi Mạnh Nhị (CB) NXB GD H. 1999. 2. Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (5 tập- 7 quyển) NXBGD H. 1999. 3. Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam - Vũ Ngọc Phan - NXBGD H 1998. 4. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi - Viện văn học- 1993 5. Câu đố Việt Nam- Ninh Viết Giao - NXB KHXH H. 1997 6. Tiếng cười dân gian Việt Nam - NXB KHXH H. 1986 7. VHDG đồng bằng sông Cửu Long- Khoa Ngữ văn ĐH Cần Thơ- NXBGD.H.1997 8. Truyện ngụ ngôn Việt Nam - Minh Hạnh và Phan Hồng Sơn - NXB Văn học H 986.. C. Sách Giáo khoa: 1. Văn học 10 tập 1 -NXB GD H.2000 2. Văn học 10 tập 1 - Sách Giáo viên -NXB GD H. 2000 3. Văn học 10 tập 1 - Ban KHXH NXB GD H.1996 D. Sách phê bình nghiên cứu: 1. Phân tích tác phẩm Văn học dân gian - Bùi Mạnh Nhị SGD AG. 1988 2. Phân tích tác phẩm Văn học dân gian - Đỗ Bình Trị NXB GD H.1995 3. Bình giảng truyện dân gian - Hoàng Tiến Tựu- NXB GD H.1998 4. Bình giảng ca dao - Hoàng Tiến Tựu- NXB GD H.1998 5. VHDG - Những công trình nghiên cứu - Bùi Mạnh Nhị (CB) NXB GD H.1999 6. Giảng văn văn học dân gian Việt Nam - Vũ Anh Tuấn- Nguyễn Xuân Lạc- NXB GD H.1993 7. Tuyển tập 40 năm tạp chí văn học - Tập 1 phần văn học dân gian Viện VH 1999. 8. Mấy vấn đề phương pháp Giảng dạy - nghiên cứu Văn học dân gian Việt Nam - Hoàng Tiến Tựu - NXB Giáo dục 1997 9. Thi pháp ca dao - Nguyễn Xuân Kính - NXB KHXH 1992 10. Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường - Nguyễn Xuân Lạc - NXB Giáo dục 1998
File đính kèm:
- tai_lieu_van_hoc_dan_gian_viet_nam_tran_tung_chinh_phan_2.pdf